Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

quản lý liên kết đào tạo nghề giữa trường cao đẳng nghề cơ điện - luyện kim thái nguyên với các tỉnh miền núi phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.88 KB, 88 trang )















































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




VŨ THANH THÁI






TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
QUẢN LÝ LIÊN KẾT ĐÀO TẠO NGHỀ GIỮA
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ CƠ ĐIỆN-LUYỆN KIM THÁI NGUYÊN

VỚI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC







LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC













Thái Nguyên, năm 2012



















ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




VŨ THANH THÁI






TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
QUẢN LÝ LIÊN KẾT ĐÀO TẠO NGHỀ GIỮA
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ CƠ ĐIỆN-LUYỆN KIM THÁI NGUYÊN
VỚI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Chuyên ngành: Quản lí Giáo dục

Mã số: 60.14.05



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Nguyễn Văn Hộ










Thái Nguyên, năm 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỤC LỤC

Nội dung
Trang
Mở đầu

1 – 9
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài

1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
10 – 12
1.2. Một số khái niệm cơ bản
12 – 22
1.3. Mối quan hệ giữa quản lý và chất lượng đào tạo nghề
22 – 31
1.4. Những nhân tố tác động đến chất lượng đào tạo nghề
31 – 36
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động liên kết đào tạo của
Trƣờng cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên

2.1. Một vài nét về quá trình hình thành và phát triển Trường cao đẳng nghề
Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên
37 – 38
2.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của trường
38 – 40
2.3. Thực trạng công tác đào tạo và quản lý đào tạo của trường
40 – 52
2.4. Thực trạng công tác quản lý hoạt động liên kết đào tạo
52 - 60
Chƣơng 3: Các biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo giữa
trƣờng cao đẳng nghề cơ điện luyện kim Thái Nguyên với các tỉnh miền
núi phía bắc

3.1. Các quan điểm định hướng cho việc đề xuất biện pháp
61 – 63
3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo giữa Trường cao đẳng

nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên với các địa phương
63 – 79
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biên pháp
79 – 81
Kết luận và Khuyến nghị

1. Kết luận
82
2. Khuyến nghị
83
Tài liệu tham khảo
84 – 85
Phụ lục



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
MỘT SỐ KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BCH TW
Ban chấp hành Trung ương
CB
Cán bộ
CBGV
Cán bộ giáo viên
CNH - HĐH
Công nghiệp hoá hiện đại hoá
CNKT3

Công nhân kỹ thuật 3
CT-HSSV
Công tác học sinh sinh viên
CP
Cổ phần
CSVC
Cơ sở vật chất
Đoàn TNCSHCM
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
GD - ĐT
Giáo dục - đào tạo
GV
Giáo viên
HSSV
Học sinh sinh viên
KH
Kế hoạch
KTX
Ký túc xá
LĐTBXH
Lao động thương binh xã hội
TN
Thái Nguyên
TP
Thành phố
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
QLXH

Quản lý xã hội
KHCN
Khoa học công nghệ









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Từ cuối thế kỷ XX cho đến nay sự phát triển nhanh như vũ bão của
khoa học - kỹ thuật và công nghệ, xu thế toàn cầu hoá, phát triển kinh tế tri
thức đã và đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống và xã
hội trong đó có giáo dục và đào tạo.
Xã hội hiện đại với đặc trưng là toàn cầu hoá, thông tin, trí tuệ với cuộc
cách mạng kỹ thuật số đã làm đảo lộn nhận thức về mục tiêu, về mô hình và
khả năng giáo dục đào tạo. Quá trình chuyển đổi tư tưởng từ người dạy làm
trung tâm sang người học làm trung tâm vừa là cơ sở có tính nền tảng, vừa
phải gắn liền với quá trình đổi mới cả về lý luận và thực tiễn công tác giáo
dục - đào tạo trong đó có vấn đề quản lý giáo dục - đào tạo.
Hiện nay, hầu như mọi quốc gia trên thế giới đều coi nhân tố con
người, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, có vai trò
quyết định nhất đến sự phát triển nhanh và bền vững của một quốc gia. Các

nhà kinh tế đã khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động
giáo dục và đào tạo là đầu tư có hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng
trưởng khinh tế nhanh và bền vững của đất nước. Nhờ có sự ưu tiên đầu tư
cho giáo dục nhằm phát triển nguồn nhân lực mà nhiều nước chỉ trong thời
gian ngắn đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp phát triển.
Ở Việt Nam, trong nhiều Văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước
ta ngày càng nhấn mạnh vấn đề này. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng
CSVN khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Dạy nghề là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, có chức năng
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật - nghiệp vụ ở trình độ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề theo nhu cầu của thị trường lao
động và có thể tiếp tục học bổ sung hoặc nâng cấp trình độ lên cao nếu có nhu
cầu và điều kiện.
Trong vòng 1 thập kỷ gần đây chúng ta đã chuyển dần từ mô hình giáo
dục đào tạo khép kín sang mô hình giáo dục mở với hệ thống tạo điều kiện
học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học, thực
hiện liên kết đào tạo giữa các nhà trường với các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Công tác quản lý giáo dục đào tạo trong các trường cao đẳng, đại học cũng đã
được đổi mới một bước để thích ứng với mô hình và cơ chế mới. Tuy nhiên
thực tiễn cho thấy chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao ở
nước ta còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về mặt năng lực, kỹ năng nghề nghiệp.
Sản phẩm đào tạo của các trường cao đẳng, đại học chưa đáp ứng được yêu

cầu của đời sống xã hội do còn tách rời giữa các cở đào tạo với các tổ chức sử
dụng sản phẩm đào tạo và với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Những
năm gần đây đã xuất hiện sự liên kết trong quá trình đào tạo sinh viên của một
số trường cao đẳng, đại học với các tổ chức kinh tế, xã hội bên ngoài có nhu
cầu về sử dụng nguồn nhân lực song vẫn còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn,
bất cập vì thiếu những nghiên cứu cơ bản về mặt lý luận trong đó có cả lý
luận về quản lý giáo dục đào tạo.
Ở Việt Nam, các nhà giáo dục học, tâm lý học tiêu biểu như: Nguyễn
Lân, Đức Minh, Hà Thế Ngữ, Phạm Minh Hạc, Đặng Vũ Hoạt, Thái Duy
Tuyên, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Quang Uẩn … đã có những đóng góp nhất
định trong lĩnh vực lý luận và thực tiễn đổi mới công tác giáo dục đào tạo.
Trong lĩnh vực quản lý giáo dục, quản lý nhà trường cũng đã có đóng góp về
mặt lý luận của nhiều nhà nghiên cứu có tâm huyết như Phạm Ngọc Quang,
Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Khánh Bằng và một số người
khác. Mấy năm gần đây tại các cơ sở đào tạo như: Khoa Quản lý giáo dục
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Viện quản lý giáo dục, Khoa Giáo dục sư


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
phạm Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa tâm lý sư phạm Đại học sư phạm Thái
Nguyên… những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục, quản lý đào tạo
ở các nhà trường phổ thông, trường cao đẳng, đại học đã thu hút hàng trăm
học viên lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ. Những nghiên cứu đã dẫn ra ở
trên đã có những đóng góp nhất định về lý luận quản lý giáo dục đào tạo ở
Việt Nam hiện nay, đề xuất được những giải pháp quản lý phù hợp, có tính
khả thi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Tuy nhiên theo nhận thức
của chúng tôi để nâng cao hiệu quả liên kết đào tạo giữa các trường với các tổ
chức bên ngoài và xã hội thì còn ít công trình nghiên cứu đề cập đến, còn

thiếu tính hệ thống về mặt lý luận nhất là trong công tác quản lý đào tạo.
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Luyện kim Thái Nguyên được thành
lập từ năm 1965 mà tiền thân là Trường công nhân kỹ thuật 3. Sau hơn 46
năm trưởng thành và phát triển đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh
vực đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc mở rộng quy mô, ngành nghề đào
tạo, đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, nhà trường
còn bắt đầu thực hiện liên kết trong quá trình đào tạo giữa nhà trường và các
tỉnh miền núi phía bắc - Nơi có nhu cầu sử dụng sản phẩm đào tạo của trường
để phục vụ sự chuyển dịch cơ cấu và phát triển của địa phương.
Liên kết đào tạo là kết quả đổi mới cả về nhận thức và hành động của
nhà trường trong công tác đào tạo, nó tạo ra những điều kiện thuận lợi để gắn
nhà trường với thực tiễn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo và đặc biệt là chủ động giải quyết vấn đề đầu ra - công ăn
việc làm cho học sinh sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường. Tuy nhiên thực
tiễn liên kết đào tạo trong mấy năm qua cho thấy:
- Còn khó khăn, lúng túng trong việc xây dựng lại mô hình đào tạo, đặc
biệt là cơ chế liên kết trong đào tạo, quản lý đào tạo nhằm thực hiện có hiệu
quả mục tiêu đào tạo đề ra.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
- Việc bố trí, sử dụng và điều động giáo viên đi giảng dạy ở các tỉnh
gặp rất nhiều khó khăn, nhất là ở một số Khoa có nhiều lớp đào tạo theo nhu
cầu của địa phương và cơ cấu nghề của Nhà nước.
- Trong lĩnh vực quản lý đào tạo cũng có nhiều bất cập về mặt phân cấp
quản lý, phối hợp quản lý.
- Công tác tuyển sinh và giới thiệu việc làm còn có những khó khăn.

- Phần lớn các biện pháp quản lý công tác đào tạo là những biện pháp
sử dụng trong mô hình cũ, chưa được đổi mới trong điều kiện thực hiện liên
kết đào tạo nên bất cập, kém hiệu quả.
- Cơ chế, chính sách của nhà nước đối với việc liên kết đào tạo giữa các
trường và các địa phương chưa cụ thể, chưa rõ ràng.
- Định hướng nghề nghiệp trong quá trình liên kết đào tạo đáp ứng yêu
cầu của địa phương còn bất cập.
Từ những lý do về mặt lý luận và thực tiễn như đã trình bày ở trên đã
thôi thúc tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp. Vấn đề liên kết đào tạo,
đặc biệt là liên kết đào tạo với các tỉnh miền núi lại là vấn đề mới, có nhiều
khó khăn song là vấn đề cần thiết, là vấn đề có tính chất nền tảng đảm bảo
cho Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Luyện kim Thái Nguyên tồn tại và phát
triển trong bối cảnh trong nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng, hiệu quả công tác quản lý đào tạo của nhà trường
để từ đó có cơ sở đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo
ở Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên với các tỉnh miền
núi phía bắc nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý đào tạo ở Trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Luyện kim Thái Nguyên trong liên kết đào tạo với địa
phương miền núi phía Bắc.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
3.2. Khách thể nghiên cứu: Chọn đại diện 30 giảng viên và cán bộ quản
lý đào tạo, 200 sinh viên các hệ đào tạo và 30 cán bộ quản lý đào tạo của các
tỉnh miền núi phía bắc trực tiếp tham gia liên kết đào tạo, sử dụng sản phẩm

đào tạo của nhà trường.
4. Các nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Nghiên cứu và khái quát các tài liệu lý luận có liên quan đến đối
tượng nghiên cứu để từ đó làm rõ một số khái niệm công cụ như: Quản lý,
quản lý giáo dục, quản lý đào tạo, biện pháp quản lý, biện pháp quản lý đào
tạo, đào tạo nghề, những yếu tố ảnh hưởng đến liên kết đào tạo nghề.
4.2. Tiến hành điều tra và phân tích thực trạng công tác quản lý đào tạo,
các biện pháp quản lý đào tạo của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện
kim Thái Nguyên trong những năm gần đây.
4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý đào tạo trong điều kiện thực hiện
liên kết đào tạo của nhà trường với mục đích nâng cao chất lượng đào tạo.
5. Giả thuyết khoa học:
5.1. Hiệu quả công tác quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở Trường Cao
đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên hiện nay còn thấp nên đã ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo.
5.2. Nếu xây dựng và thực thi một số biện pháp quản lý hoạt động liên
kết đào tạo phù hợp, đồng bộ, có tính khả thi sẽ nâng cao được chất lượng đào
tạo của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên.
6. Phạm vi nghiên cứu :
6.1. Về khách thể nghiên cứu: Tập trung điều tra ở 200 sinh viên, 30
giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo, 30 cán bộ quản lý đào tạo ở các đơn vị
liên kết.
6.2. Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài luận văn chỉ tập trung điều tra,
nghiên cứu về các biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo của Trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Luyện kim Thái Nguyên từ 2008 đến 2011.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

7. Các phƣơng pháp nghiên cứu :
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, đề tài sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá những tài liệu lý luận có liên
quan để làm sáng tỏ cơ sở lý luận vấn đề nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Sử dụng các phương pháp của xã hội học để điều tra, khảo sát, trao
đổi với các khách thể nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp thống kê.
8. Đóng góp mới của luận văn:
8.1. Về mặt lý luận: Góp phần bổ sung cho lý luận quản lý hoạt động
liên kết đào tạo với các tỉnh miền núi ở các trường cao đẳng nghề nước ta hiện
nay.
8.2. Về thực tiễn quản lý giáo dục: Đề xuất một số biện pháp quản lý
hoạt động liên kết đào tạo ở một số trường cao đẳng nghề. Những kết quả
nghiên cứu còn là cơ sở và là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý, giảng
viên đang làm công tác đào tạo.
8.3. Biện pháp quản lý và liên kết đào tạo với các tỉnh miền núi phía
Bắc nhằm chuyển đổi cơ cấu lao động có tay nghề. Học sinh ra trường có việc
làm tại địa phương hoặc các nhà máy, Công ty, doanh nghiệp…trong và ngoài
ngành Thép.
8.4. Tạo lực lượng lao động để phát triển kinh tế xã hội của vùng núi,
dân tộc, hộ nghèo theo Quyết định 1956 của Chính phủ.
9. Cấu trúc của luận văn:
Chƣơng I: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
Chƣơng II: Thực trạng công tác quản lý hoạt động liên kết đào giữa
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên với các tỉnh miền
núi phía bắc giai đoạn 2008 - 2011.
Chƣơng III: Các biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo giữa
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên với các tỉnh miền
núi phía bắc.
Ngoài ra còn có phần mở đầu; phần kết luận và khuyến nghị
























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề :
Hoạt động liên kết đào tạo của các trường với đơn vị ngoài đã được
nhiều nước tiên tiến trên thế giới nghiên cứu và ứng dụng, nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo, đồng thời hiệu quả của hoạt động liên kết đào tạo đã mang
lại lợi ích kinh tế to lớn cho cả hai phía.
Đối với các trường thì sản phẩm là học sinh tốt nghiệp ra trường có tay
nghề cao, tiếp cận được với công nghệ thực tiễn của sản xuất. Đây là yếu tố
quan trọng để giữ vững thương hiệu, uy tín của nhà trường đồng thời giảm chi
phí đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo.
Đối với các địa phương có thể chủ động về đội ngũ lao động và khi tiếp
nhận lao động vào làm việc tại địa phương sẽ phù hợp, ổn định, không mất thời
gian đào tạo lại do công nhân còn hạn chế về kỹ năng thực hành nghề và khả
năng thích ứng với sự thay đổi của công nghệ.
Đối với Việt Nam chúng ta, do yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước, đặc biệt là những năm gần đây do sự chuyển biến của nền kinh tế thị
trường từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Trong cơ chế
thị trường nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, giá trị của sức lao động
tuỳ thuộc vào trình độ tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Để
nâng cao được chất lượng đào tạo nghề, đòi hỏi con người phải chủ động
chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững kỹ năng thực hành nghề đáp
ứng yêu cầu của xã hội. Xuất phát từ những lý do trên mà hoạt động liên kết
đào tạo giữa các trường và địa phương đã được nghiên cứu, rút kinh nghiệm
từ các nước tiên tiến trên thế giới và được vận dụng vào các chính sách của

Việt Nam. Điều này được cụ thể hoá trong Luật giáo dục năm 2005, Luật Dạy
nghề 2006, Quy chế trường nghề nhà nước năm 1993, Điều lệ mẫu trường cao
đẳng nghề năm 2008. Cụ thể: Điều 32. của Luật Dạy nghề đã nêu: “Dạy nghề


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
thường xuyên được thực hiện linh hoạt về thời gian, địa điểm, phương pháp
đào tạo để phù hợp với yêu cầu của người học nghề nhằm tạo điều kiện cho
người lao động học suốt đời, nâng cao trình độ kỹ năng nghề thích ứng với
yêu cầu của thị trường lao động, tạo cơ hội tìm việc làm, tự tạo việc làm”.
Thực tế ở Việt Nam chúng ta từ những năm 1995 đến nay, thực hiện
Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá công tác dạy nghề nên đã
hình thành mô hình các tập đoàn, tổng công ty, công ty trực tiếp quản lý một
số trường đào tạo nghề. Điển hình như Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt
Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ, Tổng
công ty Thép Việt Nam v v.
Việc hình thành và phát triển các trường đào tạo nghề thuộc doanh nghiệp
để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật trực tiếp sản xuất của
doanh nghiệp và nhu cầu của xã hội ở nước ta trong thời gian qua là tất yếu
khách quan. Là nơi trực tiếp cung cấp lao động qua đào tạo nghề cho doanh
nghiệp, phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng của doanh nghiệp, người học được
thực hành ngay trên may móc, thiết bị đang được sử dụng ở doanh nghiệp và đặc
biệt là các đào tạo cho các tỉnh miền núi theo chủ trương xã hội hoá.
Mặc dù có chủ trương, chính sách như vậy song ở nước ta cho đến nay
thực trạng hoạt động liên kết đào tạo giữa các trường và địa phương được đánh
giá là vẫn còn hạn chế, chưa đồng bộ và có rất ít các công trình nghiên cứu về
vấn đề trên. Những nghiên cứu về liên kết đào tạo mới chỉ giới hạn trong ngành
hoặc trong lĩnh vực hẹp. Ví dụ: Vào những năm 70 của thế kỷ XX, tác giả

Đạng Danh Ánh và một số cán bộ thuộc Tổng cục dạy nghề lúc đó đã đi sâu
nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy nghề trong các trường nghề.
Năm 1993, tác giả Trần Khánh Đức nghiên cứu vấn đề "Hoàn thiện đào
tạo nghề tại xí nghiệp". Đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết các trường, lớp
dạy nghề đặt tại đơn vị sản xuất và trong một số lĩnh vực về bưu chính viễn
thông và hóa chất. Năm 1993, tác giả Phạm Khắc Vũ đi sâu tìm hiểu: "Cơ sở


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
lý luận và thực tiễn phương thức tổ chức đào tạo nghề kết hợp tại trường và
cơ sở sản xuất". Năm 2004, trường Trung học kỹ thuật xây dựng Hà Nội có
đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố: "Các giải pháp gắn đào tạo với sử
dụng lao động của hệ thống dạy nghề Hà Nội trong lĩnh vực xây dựng".
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên được thành
lập từ năm 1965 thuộc Bộ Công nghiệp trước đây, từ năm 1997 đến nay thuộc
Tổng công ty Thép Việt Nam quản lý. Trường có nhiệm vụ đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho Tổng công ty Thép Việt Nam và các ngành kinh tế khác
của xã hội, Trường đào tạo 3 cấp trình độ đó là: Sơ cấp nghề, Trung cấp nghề
và Cao đẳng nghề các nghề Cơ, Điện và Luyện kim.
Hoạt động liên kết đào tạo giữa trường với các tỉnh miền núi phía bắc
mới được thực hiện trong một số năm gần đây (đặc biệt là từ năm 2008 đến
nay) đã được triển khai và đạt được những kết quả nhất định. Để đánh giá
thực trạng, tổng kết rút kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp để quản lý các
hoạt động trên nhằm đạt kết quả cao hơn cần thiết phải có một nghiên cứu
tổng hợp, khách quan. Chính vì vậy tôi chọn “Quản lý liên kết đào tạo nghề
giữa Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên với các tỉnh
miền núi phía Bắc” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
1.2. Một số khái niệm cơ bản:

1.2.1. Khái niệm về quản lý:
Quản lý là một hoạt động đặc biệt, là yếu tố không thể thiếu được
trong đời sống xã hội, gắn liền với quá trình phát triển, đặc biệt trong xã hội
hiện nay thì quản lý có vai trò rất lớn. Sự phân công, hợp tác trong lao động
giúp đạt năng suất cao trong công việc, điều này đòi hỏi phải có sự chỉ huy,
phối hợp, điều hành, kiểm tra tức là phải có người đứng đầu. Hoạt động
quản lý được nảy sinh từ nhu cầu đó. Theo C.Mác, quản lý (QLXH) là chức
năng được sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc
biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
thông qua quản lý (con người điều khiển con người). Ông coi quản lý là một
đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội, theo ông: "Bất
cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một
quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt
động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những
chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản
xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ
thể sản xuất đó.
Khái niệm “quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát, nó dùng cho cả
quá trình quản lý xã hội. Có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý, dưới đây
là một số nhận thức chung về khái niệm này.
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(Người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (Đối tượng quản lý) về các
mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế … bằng một hệ thống các luật lệ, các
chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm
tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng

quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị…
- Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người, công cụ,
phương tiện, tài chính v v để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục
tiêu định trước.
- Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát
triển của xã hội, đặc biệt là từ khi con người biết tiến hành những hoạt động
lao động chung.
- Quản lý là một thuộc tính lịch sử, là nội tại của quá trình lao động, nó
là hiện tượng xã hội xuất hiện sớm ngay từ khi xuất hiện xã hội loài người.
Khi con người xuất hiện thì xuất hiện quản lý con người và quản lý xã hội.
Theo K. Marx: Bất kỳ một hoạt động xã hội hay cộng đồng trực tiếp
nào, được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần một chừng mực nhất


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
định sự quản lý. Quản lý xác định sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và
hoàn thành những chức năng chung xuất hiện trong sự vận động của toàn bộ
cơ chế sản xuất khác với sự vận động riêng rẽ của nó.
K. Marx so sánh một cách hình ảnh: Nhạc trưởng với hệ thống nhạc
công. Trong đó nhạc trưởng là một chủ thể quản lý, nhạc công là những chủ
thể bị quản lý. Nhạc trưởng và nhạc công có quan hệ quản lý (Quan hệ về
công việc và quan hệ con người) để đưa một sản phẩm “Kép”, một sản phẩm
siêu sản phẩm. Đó là chủ thể quản lý và chủ thể bị quản lý cùng phát triển
(Hoạt động tạo ra của chủ thể và sự phát triển của con người).
Những tư tưởng bàn về quản lý xã hội đã xuất hiện rất sớm ở cả
Phương đông lẫn Phương tây. Song quản lý chỉ trở thành khoa học và được
vận dụng vào thực tiễn có tính chất phổ biến chỉ mới bắt đầu vào thập niên
đầu của thế kỷ XX (Vào năm 1911 khi Taylor nhà tâm lý học, quản lý học

người Mỹ công bố tác phẩm nổi tiếng: Những nguyên lý quản lý khoa học).
Cho đến nay trong các tài liệu chuyên ngành xuất hiện nhiều định nghĩa
về quản lý. Các nhà lý luận quản lý Phương tây và các nước Đông âu như
Henri Fayon (1841 – 1925) hay F. Redrich Taylor (1856 – 1915)… đã nghiên
cứu khoa học về quản lý và coi đây là ngành mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển
xã hội, có thể dẫn ra một số như:
Theo F. Taylor: Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất. Sau này ông Lerence chủ tịch hiệp hội các nhà kinh doanh
Mỹ đã khái quát quan điểm của F. Taylor và cho rằng: Quản lý là thông qua
người khác để đạt được mục tiêu của mình.
Cùng thời với F. Taylor, nhà quản lý hành chính người Pháp là H.
Fayon lại định nghĩa quản lý theo các chức năng của nó. Theo H. Fayon:
Quản lý là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” Harold Koontz
cho rằng: Quản lý là một dạng thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được mục tiêu của nhóm. Ngoài ra ông còn cho rằng: Mục tiêu của
nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể
đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, và sự bất mãn cá
nhân ít nhất.
Theo Paul Hersey và KenBlanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân
lực” thì: Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị
quản lý nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các
nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức.
Ở Việt Nam tác giả Đỗ Hoàng Toàn trong giáo trình “Quản lý kinh tế”

cho rằng: Quản lý là tác động hướng đích của hệ thống chủ thể tới sự hoạt động
của hệ thống đối tượng bằng một hệ thống các biện pháp, phương pháp và các
công cụ làm cho hoạt động của hệ thống bị quản lý đó vận hành đúng theo yêu
cầu của các quy luật khách quan và phù hợp với định hướng và mục tiêu của hệ
thống chủ thể quản lý.
Tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng cần xem xét khái niệm quản lý ở
hai góc độ: Chính trị - xã hội và hành động. Ở góc độ chính trị - xã hội quản
lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lao động. Còn ở góc độ hành động
quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ
thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Một xã hội, một tổ chức muốn phát triển tốt thì trước hết phải có một
cơ chế quản lý tốt. Cơ chế quản lý ấy phải chi phối và tác động vào các lĩnh
vực của xã hội, tổ chức và làm cho nó vận động theo hướng tích cực mà chủ
thể quản lý đã xác định. Từ góc độ này tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng:
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng nhằm điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của con người nhằm


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy luật
khách quan.
Những năm gần đây vấn đề nguồn nhân lực, nhân tài có vị trí đặc biệt
quan trọng đến nỗi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Quản lý là quá trình tập
hợp và sử dụng các nhóm nguồn lực (đặc biệt là nhân lực) theo định hướng
mục tiêu để thực hiện các nhiệm vụ.
Để khái quát và làm rõ được quy trình quản lý Richard Winter (2007)
đã cho rằng: Quản lý là việc hiện thực hoá các mục tiêu của tổ chức theo cách

có hiệu quả và hiệu xuất cao thông qua việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo
và kiểm soát các nguồn lực của tổ chức.
Định nghĩa của Richard Winter theo chúng tôi vừa đầy đủ và rõ ràng,
nội hàm của nó không chỉ phản ánh đúng những đặc trưng cơ bản của hoạt
động quản lý mà nó còn chỉ rõ quy trình quản lý.
Tuy tiếp cận ở những góc độ khác nhau về quản lý, song về cơ bản các
nhà nghiên cứu đều gặp nhau ở các nội dung cơ bản, quản lý bao gồm các yếu
tố, các điều kiện sau:
* Là sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng quản lý nhằm
phối hợp hành động để đạt được mục tiêu quản lý.
* Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và
ít nhất là một đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể
quản lý tạo ra và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể
quản lý. Tác động có thể chỉ một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.
* Quản lý là phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối
tượng và chủ thể, mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải
có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của
mình.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Đề cập đến các nhiệm vụ của quản lý, nhà quản lý học người Mỹ được
coi là tiêu biểu của thế kỷ XX Peter Druker cho rằng có các nhiệm vụ sau:
- Xác định mục tiêu: Đó là điều cần đạt được biểu hiện bằng định lượng
hoặc định tính.
- Xây dựng tổ chức: Đây là một trong những điều kiện tổng hợp thiết
yếu để ổn định, phát triển bộ máy.

- Tạo động lực : Đây là đòn bẩy, sức mạnh để tổ chức đơn vị phát triển,
con người tiến bộ.
- Phát huy nhân lực, vật lực, tài lực: Đây là điều kiện cụ thể tạo nên sức
mạnh nội lực, ngoại lực thúc đẩy tổ chức mình quản lý phát triển, đồng thời
tránh được lãng phí, tiêu cực trong bộ máy.
Ở Việt Nam theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì quản lý có
những nhiệm vụ sau đây:
- Xác định mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ quản lý.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch.
- Xây dựng cơ cấu tổ chức.
- Xác định điều kiện, phương tiện để thực hiện mục tiêu kế hoạch.
- Chỉ đạo thực hiện.
- Quản lý tài chính, cơ sở vật chất.
- Phối hợp hoạt động trong, ngoài tổ chức.
- Tổ chức, kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm.
- Điều chỉnh nội dung, cách thức, phương tiện, tổ chức cho phù hợp tình
hình.
- Đề xuất các chế độ chính sách và thực hiện chế độ chính sách.
Các nhà quản lý giáo dục ở các cấp cần xác định vai trò, chức năng
quản lý. Quản lý giáo dục phải căn cứ vào các chức năng nhiệm vụ trên để tác
động đến bộ máy mà mình quản lý.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
1.2.2. Quản lý giáo dục:
Về nội hàm khái niệm quản lý giáo dục có nhiều cách hiểu khác nhau.
Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều khiển, phối

hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện quá trình GD - ĐT của nhà trường
theo yêu cầu phát triển của xã hội.
Khi bàn về vấn đề này Viện sỹ A.Fanaxep đã phân chia xã hội thành ba
lĩnh vực: Lĩnh vực chính trị - xã hội, lĩnh vực văn hoá - tư tưởng, lĩnh vực kinh tế.
Và xếp quản lý giáo dục được xem là một bộ phận nằm trong quản lý văn hoá-tư
tưởng.
Theo M.I.Kônđakôp: Quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là hệ
thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý
thức, có khoa học và có hướng chủ thể, quản lý trên tất cả các mặt của đời
sống nhà trường để đảm bảo vận hành tối ưu của xã hội - Kinh tế và tổ chức
sư phạm của quá trình dạy học thế hệ trẻ.
Như vậy quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy
học. Có tổ chức được hoạt động dạy học mới thực hiện được các tính chất của
nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục;
tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện
thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân của đất nước. Xuất phát từ quan niệm này
một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Đặng Bá Lãm cho
rằng: Quản lý giáo dục (và nói riêng quản lý trường học) là hệ thống tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (Hệ giáo dục) nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội
tụ là quá trình dạy học-giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Từ những định nghĩa dẫn ở trên có thể đi đến cách hiểu khái quát như sau:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch

của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống
nhằm điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục để đẩy mạnh công tác giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội.
Quản lý giáo dục là một lĩnh vực quản lý kinh tế xã hội đặc biệt nhằm
phát triển dân tộc, phát triển nguồn nhân lực, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát
triển của xã hội.
1.2.3. Quản lý đào tạo:
Quản lý đào tạo là một lĩnh vực quản lý bao gồm tất cả những vấn đề
mà cơ sở đào tạo thường làm và bằng cách đó cung cấp cho người học những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và năng lực nghề nghiệp có hiệu quả. Hay nói một
cách khác, quản lý đào tạo bao gồm các lĩnh vực quản lý các mục tiêu cụ thể
của các yếu tố sau:
- Mục tiêu đào tạo.
- Nội dung đào tạo.
- Phương pháp và hình thức đào tạo.
- Nguồn nhân lực đào tạo (Giảng viên).
- Đối tượng đào tạo (Sinh viên ).
- Điều kiện đào tạo.
- Quy trình tổ chức đào tạo, đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các chuẩn
mực đảm bảo chất lượng đào tạo.
Chất lượng đào tạo quyết định sự tồn vong của cơ sở đào tạo, nên
người ta còn cho rằng quản lý đào tạo chính là quản lý chất lượng.
Giáo dục đào tạo là một bộ phận của nền kinh tế xã hội. Nó được cơ
cấu thành hệ thống và là một bộ phận kết cấu hạ tầng của xã hội. Do đó quản
lý giáo dục, quản lý đào tạo thực chất là quản lý một lĩnh vực kinh tế - xã hội
đặc biệt nhằm đào tạo nguồn nhân lực lao động có trình độ chuyên môn và kỹ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
thuật cao nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của một nền kinh
tế - xã hội.
Cơ sở lý luận để đổi mới quản lý đào tạo được hình thành từ việc đúc kết
quá trình thực tiễn điều hành hoạt động đào tạo, kết hợp với lý luận quản lý kinh tế
- xã hội. Đồng thời từ cơ sở lý luận đó lại tác động trở lại, để hình thành chiến
lược, chính sách phát triển, cơ cấu hệ thống quản lý đào tạo, mô hình quản lý các
cấp.
Quản lý đào tạo có hai chức năng cơ bản:
- Duy trì, ổn định quá trình đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo
đạt được các chuẩn mực đã xác định trước.
- Đổi mới, phát triển quá trình đào tạo, đón đầu xu hướng phát triển
kinh tế - xã hội.
Để thực hiện hai chức năng trên quản lý đào tạo cần:
- Phân tích thông tin, nắm bắt được xu hướng phát triển, xác lập chính
sách, mục tiêu chiến lược giáo dục - đào tạo.
- Xác lập chuẩn mực, quy trình theo mục tiêu, tạo điều kiện và duy trì
các cơ chế thực hiện các chuẩn mực đã đề ra.
- Đưa hoạt động đào tạo vào kế hoạch với mục tiêu, biện pháp, bước đi rõ
ràng.
- Hình thành và phát triển tổ chức tương xứng với sứ mệnh, phù hợp
với nhiệm vụ chính trị và thực hiện một quy trình đào tạo thích ứng với khả
năng nguồn nhân lực của mình.
- Thanh tra, kiểm tra các hoạt động đào tạo.
Để làm rõ thực trạng quản lý hoạt động liên kết đào tạo giữa Trường
Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên với các địa phương và đề
xuất những biện pháp quản lý cho thời gian tới, chúng tôi sẽ lấy những yêu
cầu trên làm cơ sở khảo sát, đánh giá về quản lý đào tạo.
1.2.4. Đào tạo nghề:



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
1.2.4.1. Nghề:
Theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất định, cho đến
nay thuật ngữ “Nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Dưới đây là một số khái niệm:
- Ở Nga được định nghĩa: Là một loại hoạt động đòi hỏi có sự đào tạo
nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn.
- Ở Pháp: Là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của con
người để từ đó tìm được phương tiện sống.
- Ở Anh: Là công việc chuyên môn đòi hỏi một sự đào tạo trong khoa
học, nghệ thuật.
- Ở Đức: Là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh vực lao động
nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ nào đó.
Như vậy, nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến,
gắn chặt với sự phân công lao động, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn
minh nhân loại. Bởi vậy được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau.
Ở Việt Nam: Nhiều định nghĩa nghề được đưa ra song chưa được thống
nhất, chẳng hạn có định nghĩa nêu: Nghề là một tập hợp lao động do sự phân
công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang
tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất
hay nhu cầu xã hội. Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau song chúng ta có thể thấy 1 số nét đặc trưng nhất định đó là:
+ Đó là hoạt động, là công việc lao động của con người được lặp đi lặp lại.
+ Là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
+ Là phương tiện để sinh sống.
+ Là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã

hội, đòi hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Nghề biến đổi mạnh mẽ và gắn chặt với xu hướng phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
1.2.4.2. Đào tạo:
Là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt
các kiến thức kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn tạo ra năng lực
để thực hiện thành công một hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội cần thiết.
Như vậy đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức kỹ năng, kỹ xảo cho
mỗi cá nhân để họ thực hiện một nghề hay một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt
nhất.
Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm
thay đổi hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp
ứng tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.
1.2.4.3. Đào tạo nghề:
Là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay kỹ năng, kỹ
xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương lai. Đào tạo
nghề bao gồm 2 quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau đó là:
- Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền đạt những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp.
- Học nghề: Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực
hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định.
Đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho
người lao động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn. Bao gồm đào tạo
nghề mới, đào tạo nghề bổ sung, đào tạo lại nghề ….

Năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng không phải là bản năng mà
phải trải qua rèn luyện. Môi trường tốt nhất cho sự phát triển khả năng này ở
học sinh trường nghề đó là họ phải được rèn luyện trong môi trường sản xuất
của thực tiễn sau khi được học lý thuyết. Đây chính là trách nhiệm của toàn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
xã hội đối với công tác đào tạo nghề hiện nay, và cần phải nhấn mạnh, trách
nhiệm trước hết là thuộc về lãnh đạo của các trường dạy nghề. Chính bản thân
họ phải ý thức được việc cần phải cải tổ công tác quản lý để không ngừng
tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa trường dạy nghề và địa phương, cơ sở
sản xuất… trong liên kết đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của
đơn vị.
1.3. Mối quan hệ giữa quản lý và chất lƣợng đào tạo nghề.
1.3.1. Chất lƣợng và chất lƣợng đào tạo nghề.
Chất lượng luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi địa phương, các hệ
thống kinh tế xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Đối với hoạt động sản
xuất, kinh doanh thì chất lượng, chữ tín là chìa khoá và sự đảm bảo thắng lợi
trong các cuộc cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo hiện nay cũng cạnh tranh gay gắt,
thu hút người học và cung ứng sản phẩm sau đào tạo cho các thị trường lao
động trong nước và xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Có nhiều khái niệm về chất lượng. Sau đây là một số khái niệm có thể
xem xét:
- Theo quan niệm của tổ chức kiểm tra chất lượng Châu âu: Chất lượng
của sản phẩm là mức độ mà sản phẩm ấy đáp ứng được nhu cầu của người sử
dụng.
- Theo J.Juran (Mỹ): Chất lượng là tiềm năng thoả mãn nhu cầu của thị

trường với chi phí thấp nhất.
- Theo ISO 8402 - 86: Chất lượng của sản phẩm là tổng thể những đặc
điểm, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong
những điều kiện tiêu dùng xác định và phù hợp với công cụ, tên gọi sản phẩm.
- Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5814 - 94: Chất lượng là sự tập hợp các
đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đối tượng có khả năng
thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn.

×