Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Nguyên nhân và giải pháp khắc phục ô nhiễm đất vùng đb sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.49 KB, 31 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên
đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương
thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ
phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất
canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện
tích đất bình quân đầu người giảm. Nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế vừa qua cũng gặp phải những vấn nạn về những dự án đầu tư với
công nghệ lạc hậu và ô nhiễm môi trường nặng nề. Cùng với ô nhiễm nguồn
nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động
hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm
đất không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng
nông sản, mà còn thông qua lương thực, rau quả ảnh hưởng gián tiếp tới
sức khoẻ con người và động vật.
Hiện tại, môi trường đất ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả
nước nói chung đang bị đe dọa bởi các yếu tố ô nhiễm do tích lũy những
chất độc qua các mùa vụ và những hoạt động khác của con người. Chính vì
vậy chúng tôi tìm hiểu đề tài: “Nguyên nhân và giải pháp khắc phục ô nhiễm
đất vùng ĐB Sông Cửu Long”.
II. NỘI DUNG CHÍNH
1. TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN ĐẤT VIỆT NAM VÀ ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:
Tình hình sử dụng đất:
Lãnh thổ Việt Nam có diện tích tự nhiên phần đất liền khoảng 33 triệu
ha, trong đó khoảng 2/3 thuộc về miền núi và trung du, phần còn lại là đồng
bằng châu thổ. Diện tích sông suối và núi đá khoảng 1.370.100ha (chiếm
khoảng 4,16% diện tích đất tự nhiên), phần đất liền khoảng 31,2 triệu ha.
Diện tích đất tự nhiên của Việt Nam đứng hàng thứ 58 trên thế giới nhưng
vì dân số đông (85 triệu người, thống kê năm 2007) nên trung bình đất theo
đầu người thấp, chỉ khoảng 0,1 ha/người, xếp thứ 159 và bằng 1/6 bình quân


của thế giới - thuộc loại quốc gia nghèo tài nguyên đất. Diện tích đất canh
tác vốn đã thấp nhưng lại giảm theo thời gian do sức ép tăng dân số, đô thị
hoá, công nghiệp hoá và chuyển đổi mục đích sử dụng. Diện tích đất đã sử
dụng theo các mục đích khác nhau và chưa sử dụng được trình bày dưới đây.
Bảng 1. Hiện trạng đất ở Việt Nam năm 2007
Nghìn ha Tổng diện tích Đất đã giao và cho thuê
Cả nước 33121,2 23763,8
Đất nông nghiệp 24696 21262,7
Đất lâm nghiệp 14514,2 11210
Đất nuôi trồng thuỷ sản 715,1 704,3
Đất làm muối 14,1 13,2
Đất phi nông nghiệp 3309,1 1390,5
Đất ở 611,9 606
Đất chuyên dùng 1433,5 509,4
Đất tôn giáo, tín ngưỡng 12,9 12,7
Đất nghĩa trang, nghĩa địa 97,2 81,8
Đất sông suối và mặt nước 1150,3 177,9
Đất phi nông nghiệp khác 3,4 2,8
Đất chưa sử dụng 5116 1110,5
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 01/01/2007)
Đất ở Việt Nam rất đa dạng về loại và phong phú về khả năng sử dụng,
bao gồm 31 loại và 13 nhóm. Riêng ở khu vực miền núi với diện tích gần 25
triệu ha đã có 6 nhóm và 13 loại đất. Phụ thuộc vào địa hình và điều kiện tự
nhiên cụ thể của từng vùng, miền mà đất có tại đó có những đặc điểm riêng
biệt.
1.2.Tổng quan đồng bằng sông Cửu Long:
1.2.1. Vị trí địa lý:
ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam
giáp biển (có đường bở biển dài 700km), phía Tây có đường biên giới giáp
với Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh

tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay. ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối
bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho
giao thông thủy vào bậc nhất ở nước ta.
1.2.2. Điều kiện tự nhiên:
Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông
có diện tích tự nhiên là 4.060.400 ha (khoảng 12 % diện tích Việt Nam), có
bờ biển từ Đông sang Tây dài trên 740 km với hải phận trên biển 360.000
km
2
. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam được hình thành từ
những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước
biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ
biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt
đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven
biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp
Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà
Mau.
Hình 1. Đồng bằng sông Cửu Long
1.2.3. Tài nguyên đất đồng bằng sông Cửu Long:
Hình 2. Hiện trạng đất đồng bằng sông Cửu Long
Tổng diện tích đồng bằng sông Cửu Long không kể hải đảo là khoảng
3,96 triệu ha. Trong đó khoảng 2,6 triệu ha được sử dụng để phát triển nông
nghiệp và nuôi trồng thủy sản (chiếm 65%); trong quỹ đất nông nghiệp, đất
trồng cây hàng năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu là đất lúa trên 90%.
Đất chuyên canh các loại cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày
khoảng 150.000 ha, đất trồng cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha, khoảng
8,2% diện tích đất tự nhiên của đồng bằng.
2. Ô NHIỄM ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1. Những khái niệm chung
2.1.1. Ô nhiễm đất:

Đất bị ô nhiễm là đất bị thay đổi tính chất, chứa những chất độc hại đối với
sự sống của con người và sinh vật.
Có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các
tác nhân gây ô nhiễm.
Theo nguồn gốc phát sinh thì có:
 Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt
 Ô nhiễm đất do các chất thải công nghiệp
 Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp
Theo tác nhân gây ô nhiễm:
 Ô nhiễm đất do tác nhân hóa học: ví dụ như phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật, chất thải sinh hoạt và công nghiệp.
 Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: vi khuẩn, giun sán, ký sinh trùng…
 Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: các chất phóng xạ
Chất ô nhiễm đi vào đất nhiều nhưng đi ra rất ít, vì sau khi thấm vào trong
đất, chất ô nhiễm sẽ ở lại và lưu tồn trong đất. Yếu tố này phụ thuộc nhiều
vào khả năng tự làm sạch của đất.
2.1.2. Khả năng tự làm sạch của đất:
Là khả năng tự điều tiết của đất trong hoạt động của môi trường đất thông
qua một số cơ chế đặc biệt để giảm thấp ô nhiễm từ ngoài vào, tự làm trong
sạch và loại trừ các chất độc hại cho đất. Mức độ làm sạch phụ thuộc vào các
yếu tố như:
 Số lượng và chất lượng hạt keo trong đất, càng nhiều hạt keo (keo
mùn) thì khả năng tự làm sạch cao.
 Đất nhiều mùn, nhiều acid humic
 Trạng thái hiện tại của môi trường đất, đất chưa bị ô nhiễm hoặc ô
nhiễm ít thì khả năng tự làm sạch tốt hơn.
 Sự thoát nước và giữ ẩm
 Cấu trúc đất tốt.
 Các chủng loại vi sinh vật phong phú, số lượng nhiều sẽ giúp đất đào
thải chất độc chất ô nhiễm nhanh chóng.

 Khả năng oxy hóa tốt, chưa bị nhiễm mặn, nhiễm phèn
Môi trường đất có khả năng tự làm sạch cao hơn các môi trường khác (môi
trường nước và không khí) do môi trường đất có các hạt keo đất có đặc tính
mang điện, tỷ lệ diện tích hấp phụ lớn, khả năng trao đổi ion và hấp phụ
chúng lớn mà các môi trường khác không có. Nhưng nếu mức độ ô nhiễm
vượt quá khả năng tự làm sạch của đất thì sự nhiễm bẩn trở nên nghiêm
trọng. Khi đó, khả năng lây truyền ô nhiễm từ môi trường đất sang môi
trường đất, nước mặt và nước ngầm và khuếch tán vào không khí rất nhanh.
2.2. Thực trạng ô nhiễm đất vùng ĐB Sông Cửu Long.
Hiện nay, môi trường đất ở đồng bằng sông Cửu Long đang gặp phải
những thực trạng đáng lo ngại, đó là:
Chế độ ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long tập trung chủ yếu ở các
tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long
kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm. Ngập lũ ở ĐBSCL hàng năm đã
tác động nhiều mặt đến điều kiện sinh sống của người dân, đến cơ sở hạ
tầng, đến phát triển kinh tế, y tế, giáo dục và đặc biệt là tác động đến sức
khỏe của cộng đồng dân cư.
Chế độ ngập mặn ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật
triều trên biển Đông và chế độ nhật triều biển Tây vịnh Thái Lan, tập trung
ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre,
Tiền Giang với tổng diện tích khoảng 1,4-1,5 triệu ha. Những năm gần
đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu canh tác nông nghiệp lúa nước truyền
thống sang nuôi tôm nước mặn đã làm cho diễn biến xâm nhập mặn gia
tăng nhanh chóng, tạo nên các áp lực mới đối với hệ canh tác nước ngọt ở
khu vực ĐBSCL.
Đặc biệt ĐBSCL còn có vùng đất phèn khá lớn tập trung ở Đồng
Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau với diện tích khoảng
1,5 triệu ha. Tác động của các hoạt động canh tác nông-lâm-ngư đã diễn ra
quá trình lan truyền phèn có tác động đến môi trường đất và nước.
Trong cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay, khu vực nông - lâm -

ngư chiếm 48%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22%; khu vực
dịch vụ chiếm 30%. Điều đó cho thấy kinh tế ở đây vẫn chủ yếu là nền
kinh tế phụ thuộc sinh thái, trong đó trạng thái và chất lượng môi trường
nước, môi trường đất và các hệ sinh thái có tính chất quyết định đến các
chất lượng và sản lượng các sản phẩm nông - lâm - ngư. ĐBSCL là vùng
sản xuất nông nghiệp lớn nhất toàn quốc nhưng nơi đây lại đang phải đối
mặt với một số vấn đề môi trường cần giải quyết để bảo đảm sự phát triển
bền vững trong khu vực.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, công nghiệp, đô thị hóa làm biến đổi đất, suy thoái đất gây ô nhiễm
môi trường. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là
445.300 ha, đến năm 2006 đã là 699.200 ha, với tổng sản lượng thủy sản
nuôi trồng 1.171.001 tấn, chiếm trên 70% sản lượng nuôi trồng và trên
60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Diện tích trồng lúa cả
năm giảm dần: Năm 2000 là 3.945.800 ha, đến năm 2006 là 3.773.200 ha
(trồng lúa mùa, lúa đông xuân và lúa hè thu).
Các hệ sinh thái đất ngập nước bị tác động cả về quy mô và chất
lượng các hệ sinh thái trong khu vực. Sự cố cá chết hàng loạt ở An Giang,
Đồng Tháp, Cần Thơ, tôm chết kéo dài ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang,
Sóc Trăng gây thiệt hại kinh tế lớn đến phát triển kinh tế - xã hội ở đây.
Tổng lượng bùn thải và chất thải nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL khoảng 456
triệu m
3
/năm. Đặc biệt, trong nông nghiệp hàng năm sử dụng khoảng 2
triệu tấn phân bón hóa học, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật và các chế
phẩm nuôi trồng thủy sản gây tác động nhiều mặt tới môi trường và sức
khỏe con người.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm ngập úng ở khu vực
ĐBSCL đã bị suy giảm do quá trình khai hoang phát triển canh tác nông
nghiệp, phá rừng nuôi trồng thủy sản. Đến nay, diện tích đất lâm nghiệp

trong khu vực chỉ còn khoảng 356.200 ha - trong đó, rừng tự nhiên chỉ
chiếm khoảng 15% và còn lại 85% là rừng trồng tái sinh. Tại vùng biển và
ven biển có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất nhiều loại nhuyễn thể,
giáp xác sinh sống. Tuy nhiên hệ sinh thái ở đây đã bị suy giảm nghiêm
trọng.
Sau nhiều năm cải tạo đến nay diện tích đất phèn còn khoảng 1,6 triệu
ha (41%). Trong đó, khoảng 886.000 ha đất thuần phèn và 658.000 ha đất
phèn mặn. Đất phèn tiềm tàng có diện tích 613.000 ha, phân bố trên những
vùng tiêu nước khá thuận lợi nên thích hợp với lúa nước. Vì thế, 72% diện
tích đất phèn tiềm tàng được sử dụng cho nông nghiệp, 5% cho rừng và một
phần là đất hoang. Đất phèn hoạt động tập trung chủ yếu ở vùng có khả năng
tiêu nước kém. Tuy vậy, cũng có đến 62% diện tích được sử dụng cho nông
nghiệp, 11% cho rừng và phần còn lại là đất hoang. Đất phèn mặn tập trung
ven biển, với 46% diện tích nông nghiệp, 17% rừng, 10% nuôi tôm và phần
còn lại chưa được sử dụng. Đây thực sự là nguồn ô nhiễm chua phèn đáng
lưu ý đối với nước mặt ĐBSCL.
ĐBSCL có khoảng 790.000 ha đất mặn (20%) trong tổng số gần 2
triệu ha tự nhiên bị ảnh hưởng mặn, phân bố chủ yếu dọc bờ biển Đông và
vùng BĐCM. Trong đó, đất bị mặn dưới 2 tháng khoảng 100.000 ha (đều đã
được sử dụng cho nông nghiệp), đất mặn từ 2- 4 tháng 520.000 ha (88% sử
dụng cho nông nghiệp, 9% cho rừng và 3% đất hoang), và đất mặn quanh
năm chiếm khoáng 170.000 ha (34% cho rừng, 25% nuôi tôm và 36% đất
hoang). Trước đây khi công trình thuỷ lợi chưa phát triển diện tích bị ảnh
hưởng mặn 1g/l trở lên khoảng 2,1 triệu ha. Nếu tính với độ mặn 0,4g/l (tiêu
chuẩn cho phép của nước sinh hoạt) thì phạm vi ảnh hưởng mặn còn rộng
hơn. Đến nay do công trình thuỷ lợi phát triển, nhiều vùng ven biển được
ngọt hoá nên diện tích bị ảnh 1,5 triệu ha. Tuy nhiên ranh giới hưởng mặn
giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 1,3 mặn trên sông chính, sông Vàm Cỏ Tây
và các kênh nối thông ra biển lại có xu thế gia tăng.
2.3. Nguyên nhân làm đất bị ô nhiễm:

2.3.1. Ô nhiễm tự nhiên:
2.3.1.1. Nhiễm phèn và nhiễm mặn:
Nhiễm phèn:
Phèn được sinh ra có thể do nguyên nhân oxy hóa phèn tiềm tàng
(FeS) tại chỗ để tạo thành acid H
2
SO
4
, chứa nhiều độc chất Al
3+,
Fe
2+,
SO
4
-2
;
hay cũng có thề do nước phèn đi từ nơi khác gây nhiễm phèn cho MTST đất.
Quá trình thứ nhất gọi là quá trình phèn hóa (sulphate acidification) và quá
trình thứ hai là quá trình nhễm phèn (contamination of acid sulphate). Dù
nguyên nhân nào thì trong dung dịch đất, lượng độc chất Al
3+,
Fe
2+,
SO
4
-2
rất
cao và pH môi trường xuống thấp, khả năng trao đổi và điệm của môi trường
đất bị phá vỡ, không thể tự làm sạch được nửa, nên cả môi trường bị ô
nhiễm nặng.

Môi trường đất chỉ được coi là ô nhiễm khi toàn bộ phản ứng môi trường
pH<5 trong đó Al
3+
>130 ppm, Fe
2+
>300 ppm và SO
4
-2
>0.1%. Cây trồng và
vật nuôi cũng như con người bị ảnh hưởng trầm trọng.
Nhiễm m ặn:
Ô nhiễm mặn chỉ có thể do mặn muối hoặc mặn kiềm. mặn do kiềm ít
xảy ra mà chủ yếu do mặn muối từ nước biển. trong nước biển nhiều muối
NaCl, Na
2
SO
4
, CaCl
2
, CaSO
4
,MgCl
2
, NaHCO
3
; vùng trũng nhiều hữu cơ có
cả Na
2
CO
3

nhưng chủ yếu là NaCl.
Môi trường đất được xem là ô nhiểm mặn khi nồng độ tổng số muối
tan >0,3%, trong đó muối Cl
-
>0,15% và Na
+
có hàm lượng trên 10
mEq/100gr, sau 24 giờ bị ngập nước mặn và bị bốc mặn lên mặt.
Các yếu tố tự nhiên gây nhiễm phèn và nhiễm mặn ở ĐBSCL:
 Lịch sử hình thành đất ở ĐBSCL (tiềm năng sẵn có)
 Khí hậu
Sự phân bố mưa ở ĐBSCL không đều, mùa mưa trùng với mùa lũ và
mùa khô trùng với mùa kiệt của sông Cửu Long.
Điều đáng chú ý là ở ĐBSCL có 2 đỉnh mưa: đỉnh thứ nhất, vào các
tháng 6 - 7 và đỉnh thứ hai vào các tháng 9 - 10. Những trận mưa đầu mùa
thường thường sự chảy tràn lớn xuống các dòng sông rạch và kênh mương
cuốn theo rác rến, các độc chất trong đất gây ô nhiễm. Ở các vùng đất có sự
hiện diện của phèn tiềm tàng (lớp pyrite), do mùa khô kéo dài, đất nứt nẻ,
mực nước ngầm hạ thấp tạo điều kiện thuận lợi cho phèn tiềm tàng trở thành
phèn hoạt động (dạng jarosite). Nước mưa đầu mưa hòa tan phèn làm độ pH
của nước kinh rạch hạ thấp. Giữa hai đỉnh mưa, có một thời kỳ khô hạn
ngắn, trong dân gian gọi là Hạn Bà Chằn, kéo dài khoảng 10 ngày từ cuối
tháng 7 đến đầu tháng 8, nguyên nhân là do ảnh hưởng các luồng gió xoáy
nghịch trên cao. Vào cuối mùa mưa là thời kỳ lũ lụt tràn về hằng năm, mưa
lớn vào tháng 9, tháng 10.
 Gió
Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, phổ biến khi các
luồng áp thấp nhiệt đới xuất hiện trên lục địa Châu Á (từ tháng 5 đến tháng
10). Mùa nắng gió mùa Đông Bắc lại chiếm ưu thế do sự hiện diện của các
trung tâm áp cao từ vùng Sibêri - Mông Cổ di chuyển xuống. Tốc độ gió cao

nhất vào tháng 2, tháng 3, khoảng 2 - 3,3 m/s, tốc độ gió thấp nhất vào tháng
10 là 1,5 - 2 m/s. Khoảng tháng 12 là giai đoạn chuyển mùa, gió thổi ngược
chiều dòng chảy sông Cửu long (hướng Tây Bắc - Đông Nam) đẩy nước
mặn theo triều vào sâu trong nội địa (mùa gió chướng) gây khó khăn trong
sản xuất nông nghiệp.
 Chế độ thủy văn
Vì tất cả dòng chảy trên sông Cửu Long đều có cửa ra là biển nên tính
chất thủy văn vùng ĐBSCL mang tính chất vùng cửa sông chịu ảnh hưởng
của thủy triều và các yếu tố khí tượng khu vực Đông Nam Á chi phối.
Nguồn nước cung cấp cho dòng chảy trong sông chủ yếu là mưa. Thủy
triều ở biển Đông truyền rất sâu vào đất liền và chi phối đáng kể chế độ thủy
văn đồng bằng. Về mùa khô, triều tiến nhanh vào đất liền mang theo một
khối lượng nước mặn khá lớn, về mùa lũ thủy triều cũng là một yếu tố làm
dâng cao mực nước trong hệ thống sông và ngăn cản sự thoát lũ ra biển
2.3.1.2. Gley hóa
Quá trình gley hóa trong môi trường đất là quá trình phân giả chất hữu cơ
trong điều kiện ngập nước, yếm khí, nơi tích lũy nhiều xác bã sinh vật, sản
sinh ra nhiều chất độc dưới dạng CH
4
, H
2
S, N
2
O, CO
2
, FeS…đó là những
chất gây độc cho sinh thái môi trường nói chung.
2.3.2. Ô nhiễm nhân tạo
2.3.2.1. Tàn tích chiến tranh
Từ năm 1961-1972 quân đội Mỹ đã tiến hành rãi trên 76,9 triệu lít

chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích bằng 24-27% tổng diện tích
lãnh thổ Nam ViệtNam mà trong đó chủ yếu là Chất độc màu da cam là các
chất có chứ thành phần Dioxin.Hệ sinh thái rùng ngập nước ở khu vực Tây
Nam Bộ (rừng Tràm và rừng ngập mặn) đã bị tàn phá rất nặng nề trong
những năm chiến tranh. Diện tich rừng ngập mặn đã bị tàn phá với trên
13.520 ha.
Cà Mau, Bạc Liêu là một trong những vùng bị nhiễm dioxin. Qua kết
quả phân tích mẫu đất ta cũng thấy được sự thay đổi trong thành phần đất
như trong những khu vực bị nhiễm dioxin thì hàm lượng các ion Fe
3+
, Fe
2+
,
Al
3+
, SO
4
2-
, Cl
-
cao hơn so với các khu vực không bị nhiễm dioxin, ngoài ra,
tại khu vực rừng ngập mặn Cà Mau cũng bị nhiễm dioxin, chúng xâm nhập
vào môi trường đất làm hàm lượng Cacbon, Nitơ, Photpho, Kali trong đất
biền động, làm thay đổi đặc tính của môi trường.
 Lượng Al
3+
trong đất trồng rừng, hàm lượng Fe
3+
, Al
3+

trong đất thoái
hóa do dioxin đã giảm dần khi đất ngập triều định kỳ hay đất có rừng
che phủ.
 Hàm lượng mùn ở đất hoang hóa cao hơn ở vùng đất rừng trưởng
thành do có nhiều xác cây.
 Độ pH trên vùng đất bị nhiễm dioxin khoảng 4-5.
Nguyên nhân của hiện tượng trên là do khi rải chất độc dioxin lên môi
trường, diện tích rừng bị che phủ không còn, do đó mà dưới tác động của
ánh nắng mặt trời, các trầm tích Pirit có trong đất sẽ oxi hóa tạo thành axit
Sunphuric làm chua đất.
Ngoài ra, nguyên nhân khác làm cho đất trở nên chua hơn là do hàm
lượng mùn trong đất tăng lên làm xuất hiện các axit hữu cơ như: axit acetic,
axit puteric và H
2
S tăng lên, đồng thời quá trình hòa tan các ion Fe
3+
, Fe
2+
,
Al
3+
, Mg
2+
diễn ra nhanh chóng làm cho môi trường đất bị thoái hóa mạnh.
2.3.2.2. Dân cư - xã hội:
Sức ép dân số đang gia tăng:
Năm Số dân ( triệu người)
1995 15,33
2000 16,34
2004 17,076

2006 17,42
Bảng 5 : Dân số ở ĐBSCL từ năm 1995-2006
Dân số tăng nhanh, tài nguyên suy giảm, môi trường ô nhiễm đã gây
áp lực ngày càng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội, đến tài nguyên, môi
trường và ảnh hưởng đến đời sống và sức khỏe của nhân dân. Tổng lượng
rác thải sinh hoạt ở ĐBSCL ở khu vực đô thị đã là 606.267 tấn/năm, lượng
nước thải sinh hoạt khoảng 102 triệu m
3
/năm hầu hết chưa được xử lý triệt
để gây ô nhiễm môi trường và tác động xấu đến sức khỏe của nhân dân trong
khu vực.
Các bãi rác làm ô nhiễm đất , nước và không khí, tiêu tốn năng lượng,
chiếm một diện tích đất lớn. Sự đốt rác tạo ra khí độc theo gió đi rất xa, tro
có thể còn chứa chất độc lại dùng để lấp các nơi trũng hay trồng cây.
2.3.2.3. Hoạt động nông nghiệp:
 Phân bón:
Phân bón hóa học
Phân hóa học được rải trong đất nhằm gia tăng năng suất cây trồng.
Nguyên tắc là khi người ta lấy đi của đất các chất cần thiết cho cây thì người
ta sẽ trả lại đất qua hình thức bón phân.
Đây là loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích
hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2
lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất.
Nếu bón quá nhiều phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực
vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển
hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm
và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử dụng phân hoá học,
độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này ngày càng nghiêm trọng.
Để tăng năng suất cây trồng, người ta thường bón thêm phân đạm vô
cơ (N), lân (P

2
O
5
), và Kali (K
2
O); trong đó đáng chú ý nhất là phân đâm,
một loại phân mang lại hiệu quả rõ rệt nhất cho năng suất cây trồng nhưng
cũng dễ gây ô nhiễm cho môi trường đất do tồn dư của nó.Ta biết rằng, cây
chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30% lượng phân bón vào đất, còn lại phần bị rửa
trôi, phần nằm lại trong đất, gây ô nhiễm môi trường. phần lớn nitrat phân
bón dư thừa được giữ lại trong đất,chúng ngấm xuống nước ngầm dưới dạng
NO
3
-
. Trong đất nó làm tăng tính chua vì dạng acid HNO
3
rất phổ biến.
Sự tích lũy cao các chất hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho
MTST đất về mặt cơ lý tính. Khi bón nhiều phân hóa học làm đất hở nên
chặt hơn, độ trương co kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà nông dân
gọi là đất trở nên “chai cứng”, tính thoáng khí kém hơn đi, vi sinh vật ít đi vì
hóa chất hủy diệt vi sinh vật.
Phân hữu cơ
Phần lớn nông dân bón phân hữu cơ chưa được ủ và xử lí đúng kĩ
thuật nên gây nguy hại cho môi trường đất.nguyên nhân là do trong phân
chứa nhiều giun sán, trứng giun, sâu bọ, vi trùng và các mầm bệnh khác khi
bón vào đất, chúng có điều kiện sinh sôi nảy nở, lan truyền môi trường xung
quanh, diệt một số vi sinh vật có lợi trong đất
Bón phân hữu cơ quá nhiều trong điều kiện yếm khí sẽ làm quá trình
khử chiếm ưu thế; sản phẩm của nó chứa nhiều acid hữu cơ làm môi trường

sinh thái đất chua, đồng thời chứa nhiều chất độc như H
2
S, CH
4
, CO
2
. Sư
tích lũy cao các hóa chất dạng phân hóa học sẽ gây hại cho môi trường sinh
thái đất về mặt cơ lý tính , đất nén chặt , độ trương co kém, không tơi xốp,
tính thoáng khí kém, vi sinh vật cũng ít đi vì hóa chất hủy diệt sinh vật.
 Thuốc trừ sâu:
Nông dược chiếm một vị trí nổi bật trong các ô nhiễm môi trường.
Bản chất của nó là những chất hóa học diệt sinh học nên đều có khả năng
gây ô nhiễm môi trường đất. Đặc tính của thuốc trừ sâu bệnh là tính bền
trong môi trường sinh thái nên nó tồn tại lâu dài trong đất, sau khi xâm nhập
vào môi trường, thời kì “nằm” lại đó, các nhà môi trường gọi là “thời gian
bán phân giải”. “nữa cuộc đời này”được xác định như là cả thời gian nó trốn
vào trong các dạng cấu trúc sinh hóa khác nhau hoặc các dạng hợp chất liên
kết trong môi trường sinh thái đất. Mà các hợp chất mới này thường có độc
tính cao hơn nó.
 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Những năm qua, rừng ngập mặn ven biển bị tác động làm suy giảm
mạnh mẽ do các nguyên nhân: phá rừng làm ruộng rẫy, phá rừng lấy đất
nuôi trồng thủy sản, phá rừng lấy củi, gỗ.
Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là
445.300 ha, đến năm 2006 đã là 699.200 ha .Theo thống kê của Bộ Nông
nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL năm 2000
là 1.650ha, năm 2005 tăng vọt lên 5.000ha và hiện nay khoảng 5.900ha.
Quá trình chuyển dịch nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng
mặn hóa ven biển cũng đã làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng

ven biển. Tác động làm suy giảm rừng ngập mặn ven biển tiếp tục diễn ra
ảnh hưởng đến các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nuôi cá bè trên sông rạch,
nuôi thâm canh thủy sản vùng ngọt hóa đã gây nên các tác động đến chất
lượng môi trường nước ở đây. Xâm nhập mặn gia tăng vào mùa khô trên các
sông lớn (sông Tiền, sông Hậu và sông rạch ven biển).
Hiện nay, ĐBSCL đang có xu hướng chuyển diện tích đất nông
nghiệp sang làm sân golf nhưng với đặc thù của cỏ sân golf - Cỏ mặt sân
golf cần một lượng nước khổng lồ và lượng hóa chất trừ sâu để nuôi dưỡng
cỏ khổng lồ thì nó ảnh hương rất lớn đối với môi trường đất.
2.3.2.4. Hoạt động công nghiệp:
 Ô nhiễm đất do nước thải:
Các nguồn thải này hầu hết chưa được xử lý triệt để đang gây ô nhiễm
môi trường trầm trọng. Nguồn nước trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa
sông thông ra biển đã có các dấu hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và vi sinh.
Quan trắc môi trường nước cho thấy các chỉ tiêu bị nhiễm bẩn là: BOD,
COD, Coliform, H
2
S, NH
4
, phèn sắt do các nguồn thải sản xuất công
nghiệp, đô thị và các khu dân cư, nguồn thải nuôi trồng thủy sản, sản xuất
nông nghiệp chưa xử lý triệt để vẫn tiếp tục thải vào hệ thống sông rạch
trong khu vực. Nguồn nước ngầm được khai thác và sử dụng cho sinh hoạt
đời sống, sản xuất công nghiệp, canh tác nông- lâm- ngư chưa được kiểm
soát chặt chẽ, gây tác động làm sụt giảm mực nước ngầm ở một số nơi,
nhiễm bẩn tầng nước ngầm.
Hình 5. Nước thải xả ra sông Vàm Cỏ Đông
 Ô nhiễm đất vì chất phế thải
Nguồn chất thải rắn có rất nhiều, chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn
của ngành khai thác mỏ, rác ở đô thị, chất thải nông nghiệp và chất thải rắn

phóng xạ. Chủng loại của chúng rất nhiều, hàm lượng các nguyên tố độc
trong chúng cũng không giống nhau; tỷ lệ nguyên tố độc hại trong chất thải
rắn công nghiệp thường cao hơn; rác thành thị chứa các loại vi khuẩn gây
bệnh và ký sinh trùng; chất thải rắn nông nghiệp chứa các chất hữu cơ thối
rữa và thuốc nông nghiệp còn lưu lại ; chất thải phóng xạ có chứa các
nguyên tố phóng xạ như Uranium, Strontium, Caesium những chất thải rắn
này được vứt bừa bãi, ngấm nước mưa, và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất, sông
ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước ô nhiễm này lại được dùng để
tưới đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu đất, ảnh hưởng tới hoạt
động của vi sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của bộ rễ thực vật và
ảnh hưởng tới sản lượng cây trồng.
 Ô nhiễm đất do khí thải
Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất
nitơ kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Một
số loại khói bụi có hại ngưng tụ cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ví dụ,
các vùng đất gần các nhà máy sản xuất hoá chất Photpho, Flo, luyện kim dễ
bị ô nhiễm vì khói bụi, hàm lượng flo chứa trong khoáng chất photpho sử
dụng ở các nhà máy phân hoá học thường là 2 – 4%, nếu khí thải không
được xử lý thích đáng, có thể làm cho một vùng hàng ngàn km2 đất xung
quanh bị ô nhiễm flo nặng.
2.3.2.5. Ô nhiễm do dầu:
Các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí có nguy cơ gây sự cố môi
trường. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản, canh tác nông nghiệp, sản xuất
công nghiệp, sinh hoạt và đời sống có các nguồn thải chưa xử lý triệt để
tác động ra vùng ven biển, cửa sông làm cho chất lượng môi trường bị suy
giảm. ĐBSCL hiện có ít nhất 81 vị trí xói lở bờ sông, bờ biển và 37 khu bồi
lắng có nguy cơ gây sự cố môi trường. Sự cố tràn dầu vào bờ biển diễn ra
kéo dài năm 2007 tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền
Giang đã gây thiệt hại kinh tế và môi trường ở khu vực ven biển.
Sự tích đọng của những chất ô nhiễm dầu trong đất chủ yếu kìm hãm

quá trình vận chuyển, bay hơi và phân hủy sinh học, quá trình ở lại và lưu
chuyển được biết khi nhiên liệu động cơ bị rò rỉ từ những thùng chứa và
chảy tràn vào trong đất. Tác động của lực hấp dẫn kéo các chất lỏng theo
chiều đi xuống, ngược lại với lực giữ lại các chất lỏng đó hoặc là sẽ hấp thụ
trên hạt khoáng hoặc là nằm trong lỗ hổng cấu trúc của đất. Dầu là chất khó
bị phân hủy bởi các vi sinh vật sống trong đất. Tuy nhiên, đất lại là môi
trường không thể pha loãng các chất thải mà ngược lại các chất này tích lũy
lâu dài trong đất, cho nên dầu có tác hại lâu dài trong môi trường đất. Vì
nguyên nhân này mà các vi sinh vật trong đất không có khả năng tồn tại và
phát triển do dầu ngăn cản khả năng hô hấp và phá hủy môi trường cung cấp
thức ăn cho vi sinh vật trong đất bị ô nhiễm.
2.3.2.6. Ô nhiễm do các yếu tố ngoại lai:
 Chất thải của súc vật:
Những chuồng trại chăn nuôi gia súc như trại heo, trại gà, phân gia
súc không được thu gom, xử lí bảo đảm kĩ thuật và vệ sinh môi trường thì sẽ
là hiểm họa cho môi trường đất. Vì lượng lớn các chất thải này làm đất mất
khả năng tự làm sạch của nó thì sự nguy hại là khó lường. lúc này sự ô
nhiễm đã trở nên trầm trọng. các cơ quan hoạt động môi trường đất đều bị tê
liệt. chất thải, vi trùng từ đó mà lan ra khắp nơi: trong nước ngầm,trong
nước suối trong hay bay vào không khí.
Tàn tích của rừng:
Sau khi thu hoạch gỗ, phần bỏ đi chiếm một lượng lớn. Tàn tích này
khi nằm lại trong môi trường đất sẽ phân hủy tạo mùn cho đất, nhưng khả
năng này phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường và tỉ lệ C/N của tàn tích
rừng. Nếu điều kiện phân giải tạo mùn ít thì khả năng chuyến hóa thành chất
thành những chất khó tiêu và gây chua nhiều hơn.
Nếu tàn tích rừng bị vùi lấp trong điều kiện yếm khí lâu dài, thì hoặc
tạo ra cá đầm lầy than bùn phèn. Điều đó có nghĩa là tạo ra môi trường đất
acid.
 Tàn tích thực vật:

Khi cơ thể sinh vật chết đi và nằm trong môi trường đất sẽ phân hủy
tạo thành mùn cho đất. Nếu điều kiện phân giải tạo mùn cho đất ít thì khả
năng chuyển hóa thành mùn ít, đồng thời các vật liệu này chuyển hóa thành
các dạng mùn khó tiêu và gây chua cho đất.
Do chất thải động vật của các loại gia cầm: trâu bò, gà là các nguyên
tố vi lượng rất cần cho đất (N, K, P, Ca) nhưng khi nồng độ quá nhiều sẽ gây
hại cho thực vật trên đất.
Các chất độc thoát ra trong đất tự nhiên thường là các khí độc sinh ra
trong quá trình phản ứng hóa học do có sự thay đổi của các yếu tố môi
trường trong đất, các phản ứng này có thể nảy sinh ra do hoạt động của núi
lửa. Các phản ứng sinh khí độc còn có thể xuất hiện do yếu tố khí hậu như
nắng, mưa, nhiệt độ, độ ẩm của đất thay đổi một cách đột ngột.
2.4. Ảnh hưởng của ô nhiễm đất
Quá trình mặn xâm nhập gia tăng đã tác động các hệ sinh thái nông
nghiệp truyền thống, lúa nước, cá đồng, cây ăn trái, cây công nghiệp trong
khi khả năng thực thi các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trong khu vực
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Các dự án thủy lợi trong vùng mặn
hóa, vùng luân canh lúa-tôm, vùng ngăn mặn xổ phèn chưa phát huy được
tác dụng trong thực tiễn đang trở thành nỗi trăn trở của các cấp chính quyền,
các ngành quản lý và người dân. Chất thải nuôi trồng thủy sản ven biển, đặc
biệt là chất thải nuôi tôm, ngày càng nhiều làm gia tăng áp lực tới môi
trường và độ bền vững của hệ thống canh tác thủy sản với bảo vệ hệ sinh
thái rừng ngập.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, công nghiệp, đô thị hóa…ở đồng bằng sông Cửu Long làm biến đổi đất
và làm suy thoái nghiêm trọng. Diện tích thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm
2000 là 445.300 ha đến năm 2006 đã là 699.200 ha, đồng thời diện tích
trồng lúa cả năm giảm dần: năm 2000 là 3.945.800 ha, đến năm 2006 là
3.773.200 ha (lúa mùa, đông xuân và hè thu).
Trong nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long có diện tích canh tác

trên 2,9 triệu ha, nguồn nước tưới chủ yếu là nước ngọt trên kênh rạch do
sông mekong chảy đến và nước mưa. Nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng
do phát triển tăng vụ trong trồng trọt (lúa đông xuân, hè thu), chăn nuôi…
trong khi đó chưa thể kiểm soát chặt chẽ được về số lượng và chất lượng
nước cho canh tác nông nghiệp. Việc sử dụng nước còn tùy tiện, lãng phí, hệ
thống thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất.
Diện tích nuôi tôm trong rừng ngập mặn là một tác nhân ảnh hưởng
rất nghiêm trọng tới công tác quản lý quy hoạch và khai thác bền vững tài
nguyên ven biển ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nuôi tôm đem lại lợi
ích kinh tế nhanh nhưng hậu quả là làm giảm thảm rừng ngập mặn. Làm
biến đổi môi trường đất, nước và môi trường sinh thái.Những tổn thất về
rừng ngập mặn kéo theo hàng loạt biến đổi về môi trường, sinh thái khu vực:
- Độ che phủ của rừng giảm, bị chia nhỏ bởi các vuông tôm, môi
trường đất bị ô nhiễm bởi quá trình phèn hóa gia tăng với quy mô lớn, đất
đai bị phát quang sẽ tăng quá trình rửa trôi do mưa, lan truyền phèn trong
đất, nước và các hệ sinh thái;
- Giảm đi quá trình bồi tụ phù sa do mất rừng, đa dạng sinh học bị suy
giảm nhanh chóng do không còn điều kiện thích hợp để các loài sinh vật
sinh sống và cư trú. Sự biến đổi môi trường vi khí hậu, sạt lở bờ biển và cửa
sông làm mất cân bằng sinh thái trong khu vực. Hậu quả thấy trước tiên là
nạn tôm chết hàng loạt ở các khu ven biển.
Việc lạm dụng phân bón không chỉ đe dọa sức khỏe con người, mà
còn làm mất ổn định hệ sinh thái nông nghiệp. Kiểu canh tác dùng nhiều
phân vô cơ, kết hợp với việc ngưng quay vòng của chất hữu cơ trong đất
trồng, tạo nên một đe dọa nghiêm trọng trong việc giữ phì nhiêu của đất. Là
do sự tích lũy liên tục các chất tạp (kim loại, á kim) có trong phân hóa học
và sự biến đổi cấu trúc của đất. Thành phần chất hữu cơ của đất bị giảm
nhanh và khả năng giữ nước và thoát nước của đất bị thay đổi. Chất mùn
không còn quay về đất. Sự nghèo mùn làm phá hủy cấu trúc của đất, giảm
phức hợp hấp thụ sét mùn nên giảm độ phì của đất. Phân động vật và thực

vật không quay về với đất mà chất đống sẽ ô nhiễm mực thủy cấp sau khi
lên men amoniac. Hoặc chúng bị đem thiêu đốt bỏ, không về đất được. Sự
đốt rác có nghĩa là thay đổi ô nhiễm điạ phương của đất bằng sự ô nhiễm
không khí ở diện rộng hơn nhiều.
Môi trường đất ô nhiễm thì các loại sinh vật trong đất sẽ ảnh hưởng có
loài sẽ chết như giun đất, kéo theo sự sinh trưởng kém của thực vật giun đất
chết làm cho suy giảm độ thoáng khí của đất rễ cây hút nước kém làm ảnh
hưởng tới quá trình quang hợp dẫn đến ảnh hưởng tới môi trường sống của
chúng ta. Cây có vai trò rất lớn đến việc giữ môi trường trong sạch, nếu môi
trường đất bị ảnh hưởng dẫn đến nhiều ảnh hưởng khác không tốt.
Quá trình xâm mặn và lan truyền phèn ở đất khiến cho các nhà đầu tư
tỏ ra chán nản, chuyển sang tìm cơ hội nơi khác khi nhìn thấy bãi đất hoang
vu này. Do đó, năng lực thu hút đầu tư tại các khu công nghiệp ĐBSCL là
rất thấp và tốc độ thu hút đầu tư còn chậm.
Trong sản xuất công nghiệp, lượng nước thải chưa được xử lý triệt để,
tiếp tục thải ra nguồn tiếp nhận là các sông, kênh rạch làm suy giảm chất
lượng nước mặt. Gây nên các dịch bệnh cho nuôi trồng thủy sản và sức khỏa
người dân: các bệnh sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh giun sán ký sinh trùng, suy
dinh dưỡng trẻ em, ngộ độc thức ăn….
Kim loại nặng được quan tâm nhiều vì chúng được sử dụng rộng rãi
trong một số hoạt động công nghiệp trên hầu hết các quốc gia. Mặt khác,
chúng được coi là các yếu tố vi lượng cần thiết cho cây trồng và súc vật. Tuy
nhiên chúng được coi là chất ô nhiễm đến môi trường nếu chúng tồn tại ở
nồng độ vượt quá mức nhu cầu sử dụng của sinh vật. Hiện nay vấn đề kim
loại nặng đã được quan tâm đúng mức và các vấn đề về môi trường đã được
coi trọng.
Sự cố lan rộng và tràn dầu vào các tỉnh ven biển thuộc đồng bằng
sông Cửu Long, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người dân. Tại Bến Tre dầu
loang đã làm chết khỏang một ngàn tấn nghêu được nuôi tại các sân nghêu
nằm trong huyện Bình Ðại và Ba Tri. Tại Bạc Liêu, tôm nuôi tại huyện

Ðông Hải cũng bị ảnh hưởng vì các váng dầu. Tại Cà Mau, các cửa biển
cũng có dầu nổi làm tôm cá đánh bắt được đều bị dầu bám khó làm sạch.
III. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG Ô NHIÊM ĐẤT
 Biện pháp phòng chống các chất độc trong đất ngập nước
Để hạn chế hiện tượng ngộ độc trên vùng đất ngập nước, yếm khí,
biện pháp hữu hiệu nhất là làm cho đất được luân phiên thoáng khí. Sự oxi
hóa trong đất xảy ra làm cho nồng độ các chất độc giảm xuống dưới ngưỡng
độc của sinh vật (ngoại trừ đất phèn tiềng tàng).
 Biện pháp phòng chống đất phèn
Để hạn chế phát sinh nhiễm phèn, cũng như các tác hại của các chất
độc có trong đất phèn, có thể áp dụng một số biện pháp như sau:

×