Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Đổi mới phương thức huy động vốn trong các mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.36 KB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH
----------------------------
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Đổi mới phương thức huy động vốn trong các
mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
Sinh viên : Lê Quang Vinh
Lớp : Tài chính 44A
Giáo viên hướng dẫn : TS. Đặng Ngọc Đức

Hà nội, tháng 5 năm 2006
Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
1- Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX, ban chấp hành Trung ương Đảng đã chủ
trương nghiên cứu xây dựng một số tập đoàn kinh doanh nhà nước mạnh, làm
nòng cốt cho lực lượng doanh nghiệp nhà nước. Việc chuyển đổi hoạt động theo
mô hình công ty ‘mẹ’ - công ty ‘con’, phát triển theo mô hình tập đoàn sẽ khắc
phục được các nhược điểm của mô hình tổng công ty trước đây.
Việc thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh là vấn đề không mới ở
các nước phát triển nhưng hoàn toàn mới ở Việt nam. Hiện nay, trong phương
thức quản lý tài chính nói chung và phương thức huy động vốn nói riêng của các
tổng công ty nhà nước phát triển theo mô hình tập đoàn đã có những cải thiện và
có tác động tích cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, so sánh
với yêu cầu và đặc trưng của mô hình tập đoàn kinh doanh, phương thức huy
động vốn hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa huy động được nguồn vốn
đủ lớn và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mô hình tập đoàn kinh doanh.
Do đó về mặt lý luận, cần có những đề tài nghiên cứu sâu hơn về mô hình
tập đoàn kinh doanh phát triển từ các tổng công ty nhà nước. Một trong những
vấn đề quan trọng hàng đầu và phải được tập trung nghiên cứu đi sâu là phương


thức huy động vốn của tập đoàn, vấn đề mà hiện nay ở Việt nam còn nhiều yếu
kém.
2- Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và những kinh nghiệm
thực tiễn về mô hình tập đoàn kinh doanh và phương thức huy động vốn của các
mô hình tập đoàn kinh doanh đã và đang hoạt động ở các nước trên thế giới.
- Làm rõ mô hình và thực trạng của cơ chế huy động vốn hiện nay của các
tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty ‘mẹ’ - công ty ‘con’ phát triển theo
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
mô hình tập đoàn kinh doanh. Chỉ ra những ưu điểm và tồn tại của phương thức
huy động vốn của các tổng công ty này hiện nay.
- Đề xuất đổi mới phương thức huy động vốn của các tổng công ty phát
triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt nam nhằm nâng cao hiệu quả huy
động vốn, phù hợp với mô hình tập đoàn kinh doanh.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Chuyên đề là phương thức huy động vốn
trong các tổng công ty phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong các tổng công ty
nhà nước phát triển theo mô hình tập đoàn. Trong đó, tập trung nghiên cứu
các tổng công ty thành lập theo quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ,
gọi tắt là các tổng công ty 91, có tiềm lực kinh tế lớn trong các ngành quan
trọng, đã và đang phát triển thành các tập đoàn kinh doanh hiện nay như tập
đoàn Bưu chính viễn thông; tập đoàn Than - Khoáng sản; tổng công ty Dầu
khí, tổng công ty Điện lực, Xây dựng, Dệt may, Công nghiệp Tàu thủy.v.v..
4- Kết cấu của Chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Chuyên đề được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Mô hình tập đoàn kinh doanh và phương thức huy động vốn của
tập đoàn kinh doanh.

- Chương 2: Thực trạng về phương thức huy động vốn của các tổng công ty
phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Chương 3: Giải pháp đổi mới phương thức huy động vốn phù hợp với mô
hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1
MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH DOANH VÀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG
VỐN CỦA TẬP ĐOÀN KINH DOANH
1.1. MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH DOANH
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn kinh doanh
1.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Từ khoảng thế kỷ 18, dưới tác động của Cách mạng công nghiệp, các
công ty thi nhau tăng thêm vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở
rộng thị trường sang các nước khác. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản thực
hiện bằng những hoạt động sáp nhập, thôn tính lẫn nhau đã tạo thành những tổ
hợp lớn diễn ra mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Cho đến nay, hàng loạt các công ty công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh doanh
khổng lồ đã xuất hiện, lớn mạnh và có mặt trên khắp các quốc gia và khắp các
Châu lục. Tập đoàn kinh doanh ra đời, tồn tại và phát triển là tuân theo quy luật
khách quan, đáp ứng yêu cầu tích tụ và tập trung tư bản.
Ở Châu Âu, do điều kiện tự nhiên và xã hội khá tương đồng, nền kinh tế
các nước Châu Âu sớm mở cửa thông thương và phát triển theo mô hình cộng
đồng. Các công ty ở đây dễ dàng hoạt động ở các vùng lãnh thổ khác nhau, xâm
chiếm thị trường của nhau, tạo điều kiện cho các công ty phát triển lớn mạnh
nhanh chóng và sớm hình thành các mô hình liên kết kiểu tập đoàn. Tại đây, các
Cácten (Carten - hình thức liên minh độc quyền về giá cả và thị trường thông
qua các bản cam kết), Tơrơt (Trust-tổ chức độc quyền của các công ty cổ phần)
và Côngxoocxiom (Consocsion- loại hình liên minh độc quyền có tổ chức cao,
là tiền thân của các tập đoàn đa ngành Conglomerate hiện nay)… lần lượt ra đời

và phát triển mạnh mẽ theo xu hướng liên kết sản xuất kinh doanh với quy mô
lớn và có thế lực mạnh trên thị trường. Ngày nay, các tập đoàn kinh doanh của
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Châu Âu đã và đang xuất hiện ở khắp các nước trên thế giới với qui mô rất lớn
và danh tiếng lâu đời trong giới kinh doanh.
Tại Mỹ, ngay từ năm 1879 đã xuất hiện hàng loạt các công ty có số vốn
lớn hàng triệu USD như Standart Oil, Rockefeller, Aromovar… các công ty này
nhanh chóng lớn mạnh và bành trướng thế lực kinh tế. Với nền kinh tế khuyến
khích tự do phát triển và đề cao quy luật tự nhiên của nền kinh tế thị trường, các
công ty dễ dàng sáp nhập, hợp nhất hay thôn tính lẫn nhau để cho ra đời những
công ty ngày càng lớn hơn, hình thành ngày càng nhiều những tập đoàn khổng
lồ, các công ty đa quốc gia với qui mô vô cùng lớn. Cùng với Microsoft, General
Motors, General Electric... các tập đoàn của Mỹ đang đứng đầu trong các bảng
xếp hạng và chiếm lĩnh hầu hết các ngành quan trọng trên thé giới.
Ở Châu Á:Tại Nhật bản, các tập đoàn lớn (gọi là các zaibatsu hay
keiretsu) hình thành từ những năm đầu của thế kỷ 20. Năm 1885, Chính phủ
Nhật bản đã khuyến khích thành lập nhiều công ty cổ phần có quy mô lớn nhằm
khắc phục nguồn vốn hạn chế của cá nhân. Công ty Mitsubishi thành lập năm
1870 và đến cuối thế kỷ 19 nó đã có dáng dấp của một tập đoàn theo dạng
Conglomerate. Đến khoảng năm 1918-1919 Mitsubishi đã có tới 7 công ty thành
viên hoạt động trong các lĩnh vực đóng tàu, thép, thương mại, khai thác mỏ, kho
vận, bảo hiểm và ngân hàng. Chính sách của Chính phủ Nhật bản có tác động rất
lớn đối với sự phát triển của các tập đoàn kinh doanh.
Tại Hàn quốc, các tập đoàn kinh doanh (gọi là các Chaebol) bắt đầu phát
triển mạnh từ những năm 1950-1960 và ngày càng được chú ý do những ảnh
hưởng to lớn của chúng. Nét đặc biệt của các Chaebol ở Hàn quốc là sở hữu gia
đình và sự bành trướng thế lực kinh tế và chính trị của các tập đoàn đó. Công ty
Sam sung được thành lập năm 1938, lúc đầu chỉ là một doanh nghiệp nhỏ, đến
thập kỷ 80 đã trở thành 1 tập đoàn đa quốc gia lớn mạnh, có vị trí quan trọng

trong nền kinh tế - chính trị của Hàn quốc.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và tập trung vốn phát triển mạnh mẽ
những năm sau Chiến tranh Thế giới II, tạo ra một làn sóng hợp nhất chưa từng
có. Quy mô và phạm vi hoạt động của các tập đoàn kinh doanh đã vượt ra ngoài
biên giới mỗi nước để biến thành những tổ chức kinh doanh quốc tế, các công ty
xuyên quốc gia. Các tập đoàn kinh doanh đã trở thành trung tâm thu hút, thâu
tóm hàng loạt các công ty khác xung quanh nó để trở nên ngày càng hùng mạnh,
có sức sống mãnh liệt và tăng trưởng không ngừng.
1.1.1.2. Các xu thế khách quan hình thành các tập đoàn kinh doanh
Các tập đoàn kinh doanh được hình thành và liên tục phát triển là do nó
phù hợp với các xu thế khách quan và quy luật phát triển của thời đại, đó là:
-Quy luật tích tụ và tập trung vốn: Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị
trường, các doanh nghiệp luôn phải không ngừng mở rộng sản xuất, quá trình
tích tụ và tập trung vốn dẫn đến các doanh nghiệp mạnh thôn tính, sáp nhập,
mua lại các doanh nghiệp yếu, từ đó dẫn đến hình thành các tập đoàn kinh
doanh.
-Quy luật cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận: Trong cuộc cạnh tranh khốc
liệt giữa các doanh nghiệp, để đứng vững các doanh nghiệp phải nâng cao năng
lực cạnh tranh, một số doanh nghiệp sẽ tự liên kết với nhau nhằm tăng khả năng
cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
-Tiến bộ khoa học công nghệ : Một trong những yếu tố quyết định giúp
các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh và thu lợi nhuận cao là việc
nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra sức ép đòi hỏi các
doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, nghiên cứu ứng dụng các dây chuyền công
nghệ cao, thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hợp tác với nhau, tập trung
nguồn lực về vốn và lực lượng cán bộ khoa học công nghệ. Tập đoàn kinh doanh
được hình thành với quy mô lớn, trường vốn đã đáp ứng yêu cầu đó và thúc đẩy

trở lại quá trình nghiên cứu triển khai khiến nó trở nên nhanh chóng và mạnh mẽ
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
hơn. Các tập đoàn kinh doanh đã tạo ra những sản phẩm khoa học công nghệ
tiên tiến nhất, có sức cạnh tranh trên toàn thế giới.
-Xu thế toàn cầu hoá: Thị trường tiêu thụ và các nguồn lực sản xuất trong
phạm vi quốc gia ngày càng trở nên nhỏ bé đối với các doanh nghiệp lớn, vì vậy
phát sinh các hoạt động kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá. Các tập đoàn,
công ty đa quốc gia mở rộng hoạt động bằng việc thành lập các chi nhánh liên
kết nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào ở các
nước khác nhau, kết hợp với thương quyền khai thác và chia sẻ thị trường để
cùng tồn tại và tăng trưởng.
1.1.2. Mô hình tập đoàn kinh doanh
1.1.2.1. Khái niệm tập đoàn kinh doanh
Dựa trên những giác độ nghiên cứu và phân tích khác nhau, người ta đưa
ra một số định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Có tác giả nêu định
nghĩa về tập đoàn kinh doanh như sau: “Một thực thể kinh tế thực hiện sự liên
kết kinh tế giữa các thành viên là doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công
nghệ và lợi ích được gọi bằng các tên gọi khác nhau như: hiệp hội, liên hiệp xí
nghiệp, tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh…”. (Phạm
Quang Trung - Giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính tập đoàn kinh doanh ở Việt
Nam)
Theo quan niệm trên, tập đoàn kinh doanh được thể hiện bởi các liên kết
kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh dựa trên sự liên kết công nghệ và lợi ích
giữa các chủ thể thành viên.
Theo các tác giả của Từ điển thương mại "Anh - Pháp - Việt”, khái niệm
“group” - tập đoàn có thể hiểu như sau: “Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và
tài chính gồm một công ty ‘mẹ’ và các công ty khác mà nó kiểm soát hay trong
đó nó có tham gia. Mỗi công ty bản thân nó cũng có thể kiểm soát các công ty
khác hay tham gia tổ hợp khác”.

Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo quan điểm này, đặc trưng chủ yếu của tập đoàn kinh doanh là sự liên
kết về kinh tế và tài chính, trong đó có sự kiểm soát lẫn nhau giữa các công ty,
trong đó có một công ty kiểm soát các công ty còn lại gọi là công ty ‘mẹ’.
Công ty ‘mẹ’ (Holding company) theo từ điển tài chính có nghĩa là: “Một
công ty kiểm soát một hoặc nhiều công ty khác, thông thường bằng cách nắm
giữ đa số cổ phiếu của các công ty ‘con’ hay công ty chi nhánh”. Đối với một
công ty ‘mẹ’, có thể có trường hợp nó kiểm soát một số lượng rất lớn các công
ty với tổng số vốn tập hợp lại lớn hơn rất nhiều vốn của chính nó vì công ty ‘mẹ’
chỉ cần nắm giữ một nửa thậm chí ít hơn một nửa số cổ phần của công ty ‘con’
hay chi nhánh của nó.
Như vậy, có thể hiểu Mô hình tập đoàn kinh doanh là tổ hợp có tổ chức
của các công ty hoạt động trong cùng một ngành hay những ngành khác nhau
trong phạm vi một hay nhiều nước. Trong tập đoàn kinh doanh có một công ty
‘mẹ’ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty ‘con’ về mặt tài
chính và chiến lược phát triển. Mô hình tập đoàn kinh doanh là một cơ cấu tổ
chức vừa có chức năng kinh doanh vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng
cường tích tụ, tập trung tư bản, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.2.2. Mô hình tổ chức của tập đoàn kinh doanh
Mô hình tổ chức của tập đoàn kinh doanh là hình thức liên kết kinh tế
trong tập đoàn. Sự liên kết chặt chẽ hay lỏng lẻo giữa các thành viên trong tập
đoàn tuỳ thuộc vào mức độ liên kết về tài chính và lợi ích kinh tế. Theo quan
điểm đó, trong lịch sử và hiện tại có ba mô hình tổ chức sau:
-Mô hình thứ nhất: Quan hệ liên kết giữa các thành viên tương đối lỏng
lẻo thông qua các thoả thuận hoặc các cam kết hợp tác. Trong hình thức này, các
công ty thành viên tham gia tập đoàn chỉ chịu sự ràng buộc tương đối lỏng lẻo
và có tính độc lập cao. Thông thường, cơ sở tồn tại của loại hình tập đoàn này là
các thoả thuận hoặc hợp đồng tạo ra liên kết “mềm” giữa các thành viên để tăng
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A

Chuyên đề tốt nghiệp
thêm lợi thế cho nhóm các thành viên đó. Về mặt lịch sử, hình thức này đã xuất
hiện rất sớm từ thế kỷ 19. Loại hình Carten là thuộc hình thức này.
Carten là hình thức liên kết giữa các công ty hoạt động trong cùng một
lĩnh vực, một ngành, thậm chí có cùng sản phẩm giống nhau. Thực ra, mối liên
kết giữa các công ty trong Carten chỉ thuần tuý là sự cam kết đối với một số điều
khoản nhất định nhằm tranh cạnh tranh trực tiếp với nhau. Các công ty tham gia
Carten vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân và tính độc lập của chúng. Thời kỳ
đầu của Chủ nghĩa tư bản độc quyền, rất nhiều tập đoàn dạng Carten được hình
thành. Tuy nhiên, để đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường, hầu hết các nước
có luật chống độc quyền, chống những liên minh kinh tế kiểu Carten ngăn cản
cạnh tranh gây ra ảnh hưởng tiêu cực.
Sự liên kết giữa các thành viên trong kiểu mô hình này có thể tạo ra ưu
thế kinh tế của hợp tác và lợi dụng được tính kinh tế nhờ qui mô. Do đó, các
công ty thường tìm kiếm những sự liên kết có lợi cho từng công ty và cho cả
nhóm để có thể tồn tại và cùng phát triển. Hình thức liên kết rất đa dạng, có thể
trên các lĩnh vực như: chính sách giá cả; khối lượng sản phẩm cung cấp; tiêu
chuẩn kỹ thuật; hợp tác về công nghệ; thị trường tiêu thụ (phân chia để tránh
cạnh tranh trực tiếp); .v.v…
-Mô hình thứ hai: Mối liên kết giữa các công ty thành viên rất chặt chẽ,
mức độ phụ thuộc lẫn nhau rất cao, các thành viên bị hạn chế tính độc lập. Nói
chung với hình thức này, cơ sở kinh tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập
đoàn là quyền sở hữu, giữa các công ty có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có
một công ty mạnh nhất chi phối cả tập đoàn. Về mặt cấu trúc có thể chia thành
ba dạng hình thức khác nhau:
Một là: Các công ty thành viên có liên kết dọc về công nghệ và sử dụng
sản phẩm (đầu ra) của nhau. Chẳng hạn như tập đoàn Mitshubishi (Nhật Bản) là
một tập đoàn gồm các công ty sử dụng liên tiếp các sản phẩm đầu ra của nhau
như khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy và sản xuất linh kiện kim loại... Mô
hình tập đoàn theo hình thức này gọi là ‘mô hình liên kết dọc’.

Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Hai là: Tập đoàn có liên kết theo chiều ngang: Trong loại này, các công ty
có quan hệ với nhau về sản phẩm hay dịch vụ bổ trợ cho nhau hoặc các sản
phẩm cho cùng một nhóm khách hàng hoặc cùng một nhóm mục tiêu sử dụng.
Ví dụ, trong tập đoàn LG (Hàn Quốc) có tổ hợp các công ty sản xuất máy tính,
công ty sản xuất máy in, máy photocopy và thiết bị văn phòng, công ty sản xuất
giấy,... hay tổ hợp sản xuất máy phục vụ gia đình như tivi, máy giặt, tủ lạnh,
điều hoà,.v.v... các công ty này liên kết lại với nhau để tạo ra lợi thế chung. Mô
hình tậo đoàn theo hình thức này gọi là ‘mô hình liên kết ngang’
Ba là: Tập đoàn có ‘mô hình liên kết hạt nhân’: Giữa các công ty thành
viên có sự liên kết về công nghệ, hoặc thị trường... nhưng xoay quanh một nhóm
sản phẩm mũi nhọn. Ví dụ tập đoàn Ganeral Motors (Mỹ) cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ khác nhau nhưng sản xuất ôtô là hạt nhân của cả tập đoàn. Rất
nhiều các tập đoàn mạnh trên thế hiện nay đều theo mô hình này hoặc kết hợp
mô hình này với hai mô hình trên.
-Mô hình thứ ba: Do sự phát triển cao của thị trường tài chính , hình
thành kiểu tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính. Công ty ‘mẹ’ là
công ty tài chính nắm giữ cổ phần chi phối các công ty ‘con’. Sự phát triển cao
của thị trường tài chính cho phép một công ty có thể kiểm soát tổng số vốn và
tài sản lớn hơn nhiều so với số vốn của bản thân nó bằng cách sở hữu trên 50%
số cổ phần của công ty khác. Do đó các công ty trong tập đoàn không nhất thiết
có mối liên hệ về sản phẩm, công nghệ hay kỹ thuật. Hình thức công ty ‘mẹ’
thuộc loại này đang trở nên phổ biến.
Conglomerate là hình thức liên kết giữa các công ty không cùng ngành.
Từ điển thương mại Anh - Pháp - Việt đã định nghĩa conglomerate là: “Một tổ
chức kinh doanh, nói chung, bao gồm một công ty mẹ và một nhóm các công ty
chi nhánh liên kết với nhau trong những hoạt động không giống nhau”.
Dưới hình thức Conglomerate, tập đoàn có đặc điểm đa ngành, đa lĩnh
vực. Các công ty thành viên chịu sự chi phối và kiểm soát của công ty ‘mẹ’

nhưng giữa chúng có thể có sự khác nhau lớn về kỹ thuật và công nghệ. Những
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
năm gần đây, các công ty ‘mẹ’ còn thường xuyên thay đổi hệ thống của tập đoàn
thông qua việc bán hoặc mua quyền sở hữu các công ty khác. Sự thôn tính, sáp
nhập hoặc bán bớt các công ty chi nhánh đã trở nên phổ biến.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện hình
thành những tập đoàn đa ngành kiểu conglomerate. Thông thường, công ty ‘mẹ’
là công ty tài chính hoặc gắn liền với công ty mẹ là các công ty tài chính và các
ngân hàng thương mại, do đó thế lực của loại tập đoàn này là rất lớn. Rất nhiều
các tập đoàn trên thế giới hiện nay như Siemen, Mitshubishi, Mitsui..., thuộc
dạng này.
Ngoài ra, các Kozern (Concern) - một hình thức có nguồn gốc từ Đức
trước Chiến tranh thế giới II- cũng có mô hình thuộc dạng này. Đóng vai trò hạt
nhân trong Konzern cũng có một công ty ‘mẹ’ nắm quyền kiểm soát về tài chính
bằng cách nắm giữ cổ phần của các công ty thành viên. Tên của tập đoàn thường
lấy theo tên của công ty ‘mẹ’.
1.1.2.3. Đặc trưng của các mô hình tập đoàn kinh doanh
Mặc dù có nhiều mô hình tập đoàn kinh doanh khác nhau như vậy nhưng
giữa chúng có những đặc trưng chung, đó là:
-Hình thức tổ chức và mối quan hệ kinh tế: Các tập đoàn kinh tế là các tổ
chức liên kết về kinh tế. Sự liên kết chặt hay lỏng giữa các thành viên tuỳ thuộc
vào mức độ liên kết về tài chính và lợi ích kinh tế. Về hình thức tổ chức, trong
tập đoàn có một công ty ‘mẹ’ và các công ty thành viên. Các công ty thành viên
vẫn giữ tính độc lập về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa các thành viên chủ yếu
dựa trên mối quan hệ liên kết về lợi ích kinh tế và được thực hiện thông qua các
hợp đồng hoặc thoả thuận kinh tế.
-Phương thức quản lý và chiến lược kinh doanh: Thông thường các tập
đoàn kinh doanh có Hội đồng quản trị để quản lý tập đoàn và trụ sở thường nằm
ở công ty ‘mẹ’. Hội đồng quản trị này được hình thành theo nguyên tắc số vốn

cổ đông đóng góp của các thành viên. Hội đồng quản trị tập đoàn (hay công ty
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
‘mẹ’ của tập đoàn) chỉ kiểm soát về mặt tài chính, chiến lược đầu tư thông qua
các đòn bẩy kinh tế, còn các thành viên hoàn toàn tự chủ trong quyết định hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Ở các công ty thành viên có hội đồng quản
trị và ban giám đốc riêng để lãnh đạo, quản lý và điều hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh của từng công ty đó.
-Nguyên tắc hoạt động: Tối đa hoá lợi nhuận là nguyên tắc luôn được
khẳng định trong mọi trường hợp.
Trong quá trình phát triển và chọn lọc lâu dài của các tập đoàn, các ưu
điểm của từng mô hình tập được học tập và đúc rút kinh nghiệm để ngày một
hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ hơn. Một số đặc trưng được xem là ưu điểm
và phổ biến hiện nay của các mô hình tập đoàn kinh doanh là:
Một là, sự chuyên môn hoá về tài chính của công ty ‘mẹ’. Trong mô hình
tập đoàn kinh doanh kinh doanh đa ngành (mô hình thứ ba - các Conglomerate).
các công ty ‘mẹ’ (holding company - holding theo tiếng Anh có nghĩa là “nắm
giữ”) chuyên môn hoá trong lĩnh vực đầu tư nắm giữ cổ phiếu của các công ty
‘con’, thay đổi cấu trúc và hoạt động của tập đoàn kinh doanh thông qua việc
mua bán quyền sở hữu các công ty.
Trong mô hình này các tập đoàn kinh doanh thường có các công ty tài
chính thành viên, công ty bảo hiểm và ngân hàng thành viên trợ giúp quản lý tài
chính cho tập đoàn. Vai trò của các công ty này là rất lớn, đặc biệt là công ty tài
chính trong việc huy động vốn và điều hoà và luân chuyển vốn giữa các thành
viên trong tập đoàn. Bên cạnh đó các công ty bảo hiểm, các ngân hàng thành
viên cũng trợ giúp rất lớn cho công ty ‘mẹ’ trong việc điều hành và kiểm soát tài
chính của tập đoàn.
Hai là, tính chất đa ngành của các mô hình tập đoàn đang ngày càng trở
nên phổ biến. Các tập đoàn kinh doanh sau khi phát triển lớn mạnh đều mở rộng
hoạt động của mình sang nhiều lĩnh vực khác nhau. Các tập đoàn hầu hết đều có

ngành kinh doanh chiến lược và ngành kinh doanh phụ trợ, trong đó lĩnh vực tài
chính, ngân hàng và bảo hiểm được ưu tiên phát triển trong điều kiện thị trường
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
tài chính phát triển cao như hiện nay. Trong điều kiện nền kinh tế và thị trường
tài chính chưa phát triển hoặc đối với các tập đoàn kinh doanh mới hình thành
thì việc tập trung vào lĩnh vực mũi nhọn phải được chú trọng hơn vì đây là
ngành kinh doanh đem lại hiệu quả chắc chắn cho tập đoàn.
Ba là, tính chất đa sở hữu của tập đoàn kinh doanh. Có thể nói đây là đặc
điểm gần như của tất cả các tập đoàn kinh doanh trên thế giới. Không thể có tập
đoàn kinh doanh nào chỉ có một chủ sở hữu mà có thể huy động được nguồn vốn
đáp ứng được nhu cầu phát triển không có giới hạn của các tập đoàn. Đa sở hữu
làm tăng hiệu quả quản lý của tập đoàn do cơ chế kiểm soát bởi nhiều chủ sở
hữu, trong đó có bản thân các nhà quản lý trong tập đoàn.
Bốn là, về quản trị tập đoàn: cấu trúc phân quyền, sự tham gia của Nhà
nước, người lao động và các chủ sở hữu trong mô hình quản trị tập đoàn kinh
doanh... Hiện nay, không có quy luật chung nào là ưu điểm cho các đặc trưng
này, các tập đoàn kinh doanh của mỗi nước đều có một cách thức riêng phù hợp
với điều kiện môi trường và thói quen kinh doanh của nước đó. Trong mỗi thời
kỳ, mỗi giai đoạn nổi lên một cách thức quản lý được xem là có ưu thế hơn. Một
số đặc trưng trong mô hình quản trị tập đoàn của các nước có thể thấy như sau:
- Mỹ: là mô hình thống nhất ngang trong cấu trúc phân quyền. Thành lập
Hội đồng Giám đốc, bao gồm nhiều Giám đốc phụ trách theo các tiêu thức khác
nhau về khách hàng, khu vực, bộ phận. Nhà nước ít tham gia mà chỉ tạo môi
trường ổn định cho nền kinh tế, mức độ luật định thấp. Công đoàn tham gia tự
nguyện, nhỏ và yếu, quyền của người lao động bị hạn chế, hầu như không được
tham gia điều hành hoạt động công ty.
- Nhật bản: Là mô hình thống nhất ngang giống như mô hình của Mỹ
nhưng mở rộng hơn. Cũng có Ban giám đốc hay Hội đồng Giám đốc nhưng có
thêm Uỷ ban quản lý. Người lao động có nhiều ảnh hưởng bởi họ làm việc lâu

dài và gắn bó với công ty, tuy nhiên công đoàn hoạt động yếu và chịu ảnh hưởng
của chính trị. Chính phủ can thiệp mạnh vào nền kinh tế, thực thi chính sách ủng
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
hộ và định hướng phát triển cho các tập đoàn kinh doanh, các quan chức chính
phủ và giới kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ.
- CHLB Đức: Là loại mô hình tách rời ngang trong việc phân chia quyền
lực. Thành lập hội đồng quản trị và Ban điều hành, có sự phân biệt tách rời giữa
Hội đồng quản trị và Ban điều hành với chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
Chính phủ điều tiết và duy trì độc quyền một số dịch vụ công ích. Quyền của
người lao động có nhiều ảnh hưởng thông qua Công đoàn hay Hội đồng công
nhân và được quy định trong điều lệ về quyền tham gia của người lao động
trong các vấn đề quan trọng của công ty.
- Trung Quốc: Là mô hình tách rời ngang giống của Đức nhưng có nhiều
chủ thể tham gia quản lý hơn. Thành lập Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và
Ban giám sát, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa HĐQT, Ban Giám đốc, Ban giám
sát với Ban chấp hành Đảng bộ, Ban chấp hành Công đoàn và Đại hội Công
nhân viên chức. Bí thư Đảng uỷ và Chủ tịch Hội đồng quản trị do một người
đảm nhiệm, Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc về lý thuyết phải
riêng biệt. Chính phủ phi tập trung hoá quyền lực, xoá bỏ sự can thiệp thái quá
của nhà nước, hỗ trợ cho sự phát triển của các tập đoàn kinh doanh và định
hướng thị trường theo xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc. v.v...
Cách đây một vài thập kỷ, các tập đoàn của Mỹ còn học hỏi văn hoá quản
lý của người Nhật, giờ đây họ lại coi đó là nguyên nhân gây ra sự chậm phát
triển. Các tập đoàn Đức thường được ca ngợi bởi cấu trúc chặt chẽ, tính pháp
luật cao, thì nay bị phê phán là không thích nghi với sự thay đổi của môi trường
kinh doanh. Các tập đoàn Hàn Quốc còn được coi là sự kết hợp hiệu quả của các
mô hình trên và tập trung quyền lực cho những người thân trong gia đình, thì
sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, đã bộc lộ những yếu kém về quản lý
tập đoàn theo hình thức gia đình trị, gây thất thoát vốn. Các tập đoàn của Mỹ

giai đoạn hiện nay đang thắng thế và có khả năng trở thành khuôn mẫu cho các
nước phát triển.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3. Các ưu thế của tập đoàn kinh doanh trong phát triển kinh tế xã hội.
Một là, Sự liên kết của Tập đoàn kinh doanh sẽ làm tăng sức mạnh kinh tế
và khả năng cạnh tranh của cả tập đoàn cũng như của từng công ty thành viên.
Quá trình tích tụ và tập trung vốn diễn ra nhanh và mạnh trong các tập đoàn vì
vậy cho phép các tập đoàn liên tục đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh
tranh, thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường.
Hai là, Tập trung điều hoà vốn, việc hình thành tập đoàn kinh doanh là
một đòi hỏi khách quan nhằm khắc phục những hạn chế về vốn của từng công ty
cá biệt. Các công ty cá biệt thường hạn chế về vốn trong khi đó nhu cầu phát
triển kinh tế thị trường đòi hỏi các công ty phải thay đổi công nghệ liên tục và có
đội ngũ nhân viên kỹ thuật cao có nghĩa là phải có vốn lớn và trường vốn mới
đáp ứng được. Do đó việc ra đời các tập đoàn đã khác phục được tình trạng thiếu
vốn của các công ty nhỏ lẻ.
Ba là, Thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ, thành lập tập đoàn còn
là giải pháp hữu hiệu, tích cực cho đẩy mạnh nghiên cứu triển khai, ứng dụng
khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên.
Công ty ‘mẹ’ là nơi định hướng chiến lược phát triển, tập trung nguồn vốn để
nghiên cứu triển khai những tiến bộ khoa học mới cho cả tập đoàn, có nhiều tập
đoàn trong đó công ty ‘mẹ’ chỉ chi phối tập đoàn thông qua bí quyết công nghệ.
Do đó sự hình thành tập đoàn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình nghiên cứu và
ứng dụng những khoa học công nghệ mới vào quá trình sản xuất của tập đoàn
nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Bốn là, Ứng dụng và chuyển giao công nghệ có hiệu quả. Các tập đoàn
lớn phát triển thành các công ty đa quốc gia sẽ thiết lập được các mối quan hệ
thương mại với nhiều nước trên thế giới.Thông qua các tập đoàn đó, những công
nghệ tiên tiến ở các nước phát triển sẽ được chuyển giao một cách có hiệu quả

nhất, bởi vì quá trình ứng dụng và chuyển giao sẽ trở nên dễ dàng thông qua
hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các công ty ‘con’ của tập đoàn trên lãnh thổ
của nhiều nước.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Năm là, Tập đoàn kinh doanh tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia khi tham gia cạnh tranh quốc tế và thực hiện các mục tiêu xã hội. Một
đất nước có nền kinh tế mạnh nhất thiết phải có các doanh nghiệp lớn mạnh, khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế được thể hiện thông qua sự lớn mạnh của các
doanh nghiệp. Do đó, để có thể cạnh tranh được trên trường quốc tế thì quốc gia
đó phải có những tập đoàn kinh tế mũi nhọn, lớn mạnh để gia nhập vào nền kinh
tế thế giới cũng như thực hiện được các mục tiêu xã hội của đất nước.
Như vậy, các tập đoàn kinh doanh có ưu thế rất lớn cho sự phát triển kinh
tế xã hội của một đất nước. Đối với Việt Nam, việc hình thành và phát triển các
tập đoàn kinh tế mạnh là một hướng đi đúng đắn trong phát triển kinh tế xã hội
và gia nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương này đang được Đảng và Nhà nước ta hết
sức quan tâm.
1.2 PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN TRONG TẬP ĐOÀN KINH
DOANH
1.2.1 Khái niệm về phương thức huy động vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn
được đầu tư vào sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, tức là làm tăng thêm
giá trị cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Quá trình cung ứng các nguồn vốn cho hoạt
động của các doanh nghiệp được gọi là sự tài trợ (financing), bao gồm các
phương thức huy động vốn, tạo nguồn và đảm bảo các nguồn lực tài chính để
doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. Khái niệm phương thức huy
động vốn của doanh nghiệp có thể hiểu như sau:
Phương thức huy động vốn của doanh nghiệp là hệ thống các phương
pháp và công cụ để khai thác, huy động các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp và đảm bảo nguồn vốn cho doanh nghiệp hoạt
động một cách có hiệu quả nhất.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Hiệu quả của phương thức huy động vốn có thể được đánh giá theo các
tiêu chí sau: Chi phí huy động vốn thấp; thời gian và số lượng vốn huy động đáp
ứng đầy đủ và tốt nhất cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ; các
công cụ vay vốn được sử dụng linh hoạt và cơ cấu các kênh huy động vốn đa
dạng.v.v...
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh
nghiệp có thể có các phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp
được đa dạng hoá, giải phóng các nguồn tài chính trong nền kinh tế, thúc đẩy sự
thu hút vốn vào các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế của Việt nam,
do thị trường tài chính phát triển chưa đầy đủ nên việc khai thác vốn có những
nét đặc trưng đáng chú ý.
Đối với tập đoàn kinh doanh, huy động vốn có những nét khác biệt đặc
trưng so với các doanh nghiệp thông thường khác. Các tập đoàn kinh doanh có
thể thu hút vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau thông qua sự trợ giúp của công ty
tài chính hoặc ngân hàng thành viên. Mô hình liên kết giữa công ty ‘mẹ’ và các
công ty ‘con’ tạo nên nét đặc trưng riêng trong phương thức huy động vốn nội
bộ và điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập đoàn. Bên cạnh đó, do quy mô
lớn của các tập đoàn kinh doanh nên khiến cho việc huy động vốn trở nên khó
khăn và phức tạp.
1.2.2. Vai trò của phương thức tạo lập và huy động vốn trong tập đoàn kinh
doanh
Trong quản lý tài chính của các tập đoàn kinh doanh, việc huy động vốn
có vai trò đặc biệt quan trọng vì khả năng tài chính của tập đoàn phụ thuộc trước
hết vào các nguồn vốn huy động được. Nếu hoạt động huy động vốn và cơ chế
tạo vốn không đáp ứng được yêu cầu về tài chính của từng doanh nghiệp thành

viên thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên cạnh đó, phương thức huy động vốn còn có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính.
Với tư cách là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính, phương thức huy
động vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế - xã hội và
phản ánh cơ chế quản lý kinh tế qua mỗi thời kỳ ở một mức độ nào đó. Tất
nhiên, mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào tính chất của từng nhân tố kinh tế,
chính trị, xã hội và không giống nhau.
Các hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ
tài chính giữa doanh nghiệp và thị trường tài chính, ở một mức độ bao quát hơn
là quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh doanh. Do đó, cơ chế huy
động vốn vừa là sản phẩm của cơ chế quản lý kinh tế vừa là một nhân tố thúc
đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Nếu thị trường tài chính phát triển
mạnh và đa dạng thì sẽ tạo điều kiện đa dạng hoá các hình thức và kênh thu hút
vốn cho doanh nghiệp. Qua kinh nghiệm của nhiều nước cũng như thực tiễn
phát triển kinh tế nước ta cho thấy: mối quan hệ giữa cơ chế hoạt động huy động
vốn và hệ thống tài chính là mối quan hệ biện chứng phụ thuộc lẫn nhau, tác
động bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia.
Đối với các tập đoàn kinh doanh, các tổng công ty cũng như các doanh
nghiệp nhà nước khác ở nước ta, cơ chế huy động vốn đã có những thay đổi nhất
định và được điều chỉnh phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế qua các thời kỳ khác
nhau. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách, quy định
về huy động vốn đã từng bước được điều chỉnh.
1.2.2 Nội dung phương thức huy động vốn của tập đoàn kinh doanh
a) Huy động vốn bằng đầu tư từ ngân sách Nhà nước:
Đối với tập đoàn kinh doanh, Nhà nước đóng vai trò như một cổ đông của
tập đoàn, thực hiện đầu tư vốn cho tập đoàn, thông qua đó quyết định mức độ sở
hữu của Nhà nước đối với tập đoàn kinh doanh.

Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở một số nước trong đó có Việt Nam, một số tập đoàn kinh doanh có tính
chất chiến lược trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân thì Nhà nước chiếm sở
hữu 100% hoặc trên 50% giá trị cổ phần của tập đoàn. Nhà nước thường tiến
hành đầu tư vốn cho các tập đoàn kinh doanh thông qua công ty ‘mẹ’, sau đó
công ty ‘mẹ’ tiếp tục huy động thêm vốn và đầu tư cho các công ty ‘con’. Vốn
mà công ty ‘mẹ’ đầu tư cho các thành viên không chỉ có vốn Nhà nước mà còn
là vốn đi vay, vốn của các chủ sở hữu khác. Vì vậy, Nhà nước không quản lý
vốn trong các công ty ‘con’ mà chỉ quản lý vốn nhà nước trong công ty ‘mẹ’.
Nhà nước nắm giữ công ty ‘mẹ’ thông qua sở hữu đa số cổ phiếu và đầu tư vốn
cho tập đoàn thông qua công ty ‘mẹ’.
b)Huy động vốn từ thị trường chứng khoán:
Các tập đoàn kinh doanh có thể huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán ra thị trường tài chính.Tuỳ theo nhu cầu và mục đích của việc huy động
vốn và tuỳ theo mô hình công ty mà các tập đoàn có thể phát hành các loại
chứng khoán ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Loại chứng khoán phát hành là cổ
phiếu hoặc trái phiếu công ty. Để lựa chọn hình thức huy động vốn bằng phát
hành trái phiếu hay cổ phiếu cần căn cứ trên những yếu tố sau (tất nhiên việc
phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện đối với công ty cổ phần):
Cổ phiếu Trái phiếu
Khái niệm:
Cổ phiếu là giấy xác nhận sự
tham gia góp vốn của một chủ thể
(gọi là cổ đông) vào một công ty, tức
là xác nhận cổ đông có quyền sở hữu
một phần đối với công ty theo tỷ lệ
phần trăm cổ phiếu của cổ đông đó.
Trái phiếu công ty là giấy tờ ghi nợ do
doanh nghiệp phát hành nhằm huy động

vốn trung và dài hạn với các điều kiện về
mệnh giá, lãi suất và thời hạn xác định.
Khi công ty phát hành trái phiếu tức là
công ty đó thực hiện một quan hệ tín dụng
thông qua việc mua bán các công cụ tài
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
chính ra thị trường chứng khoán.
Quan hệ sở hữu và quyền quản lý:
Cổ phiếu là công cụ quan trọng
để kiểm soát tập đoàn thông qua sở
hữu. Thông qua nắm giữ cổ phiếu, cổ
đông có quyền tham gia điều hành
công ty, nếu tỷ lệ cổ phiéu nắm giữ là
đa số thì cổ đông đó sẽ nắm quyền
kiểm soát công ty. Huy động bằng cổ
phiếu là tăng thêm vốn chủ sở hữu,
tăng mức độ an toàn và giảm nguy cơ
phá sản khi doanh nghiệp gặp khó
khăn.
Trái phiếu không làm thay đổi quan
hệ sở hữu trong công ty, tức là không ảnh
hưởng đến quyền quản lý và kiểm soát
công ty, do đó nó được coi là biện pháp an
toàn về mặt sở hữu để huy động vốn. Tuy
nhiên, nó có liên quan mật thiết với khả
năng tín dụng của công ty. Khi phát hành
thêm trái phiếu mà không thay đổi vốn chủ
sở hữu thì tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu với
vốn vay sẽ giảm, phản ánh độ tin cậy tín

dụng giảm.
Chi phí vốn của việc phát hành:
Chi phí vốn của việc phát hành
cổ phiếu gồm cổ tức chia cho người
nắm giữ cổ phiếu (cổ đông) và các
chi phí phát hành. Cổ tức trả cho cổ
đông lấy từ lợi nhuận sau thuế nên
không được đưa vào chi phí tài chính
của doanh nghiệp.
Chi phí vốn của việc phát hành trái
phiếu bao gồm lợi tức trái phiếu phải trả
cho người mua trái phiếu (trái chủ) và các
chi phí phát hành. Chi phí này thuộc nhóm
chi phí lãi vay, được hạch toán vào chi phí
tài chính của doanh nghiệp và có được
khoản tiết kiệm nhờ thuế.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Tính linh hoạt:
Đối với công ty, sử dụng công
cụ cổ phiếu thì tính linh hoạt thấp hơn
so với trái phiếu.
Trái phiếu có thời hạn xác định và có
thể điều chỉnh khối lượng phát hành tuỳ
theo nhu cầu về vốn và tình hình thực tế.
Chia sẻ rủi ro:
Các cổ đông đều tham gia chia sẻ
rủi ro với công ty vì họ là những chủ
đồng sở hữu công ty. Khi công ty phá
sản thì cổ tức se được phân chia san

khi đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
các món vay.
Các trái chủ thì được công ty bảo
đảm quyền được nhận lợi tức trái phiếu 1
cách ổn định, không phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh của công ty. Được ưu tiên
thanh toán trước khi công ty phá sản.
Ngoài ra việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu đều phải tính đến hàng
loạt yếu tố khác như: các quy định của nhà nước, điều kiện phát hành, trạng thái
của nền kinh tế, thị trường tài chính, lãi suất...
Đối với tập đoàn kinh doanh, phát hành trái phiếu và cổ phiếu là công cụ
quan trọng để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, cổ phiếu là công
cụ quan trọng để kiểm soát tập đoàn thông qua sở hữu. Để nghiên cứu cấu trúc
sở hữu cổ phần của các tập đoàn kinh doanh có thể tham khảo trường hợp của
các tập đoàn kinh doanh ở Hàn Quốc như trong bảng:
Bảng 1.1: Quyền sở hữu của các TĐKD Hàn Quốc phân theo thành viên trong
nội bộ (tỷ lệ % so với các cổ phần hiện có)
Tập đoàn
Cổ đông
sáng lập
Cổ đông
khác
Các công ty
thành viên
Tổng số
Huyn dai 3,7 12,1 44,6 60,4
Sam sung 1,5 1,3 46,3 49,3
LG 0,1 5,6 33 39,7
Dae woo 3,9 2,8 34,6 41,4
(Nguồn: Đông Á - Con đường dẫn đến hồi phục,WorldBank 1999)

Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
Có thể thấy, nhờ cơ chế sở hữu cổ phiếu đan xen lẫn nhau nên các gia
đình của Hàn Quốc có thể kiểm soát chặt chẽ toàn bộ tập đoàn kinh doanh lớn
mà không nhất thiết phải nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu lớn trong tập đoàn. Người sáng
lập công ty và những người thân trực tiếp có thể nắm một tỷ lệ nhỏ của các cổ
phần (từ 3-15%) của Cheabol, nhưng quyền sở hữu liên công ty của các công ty
thành viên Cheabol làm tăng tổng sở hữu nội bộ có thể lên tới 60% như trong
bảng.
Tuy nhiên, vấn đề thâu tóm quyền kiểm soát các công ty là một vấn đề
phức tạp. Việc cho phép sử dụng vốn của chính các công ty ‘con’ để sở hữu lại
công ty ‘mẹ’ có thể làm thay đổi trật tự trong việc kiểm soát. Công ty ‘con’ có
thể lớn mạnh và dành quyền kiểm soát tập đoàn và trở thành công ty ‘mẹ’, làm
thay đổi chủ sở hữu nắm quyền kiểm soát tập đoàn kinh doanh.
Bên cạnh đó, có thể sử dụng sở hữu nội bộ khiến cho các nhà quản lý có
cổ phần trong công ty tích cực hơn trong việc tạo ra lợi nhuận, tuy nhiên, việc sử
dụng vốn vay để mua cổ phần của các công ty nhằm nắm quyền kiểm soát sẽ
làm cho hệ số nợ của tập đoàn tăng lên. Nếu hệ số nợ tăng quá mức dễ dẫn đến
nguy cơ phá sản khi công ty gặp khó khăn, mất khả năng thanh toán hoặc trong
điều kiện nền kinh tế suy thoái. “Lực đòn bẩy tăng lên - kết quả của những vụ
nắm quyền kiểm soát hay LBO (Leveraged by out: mua hết cổ phần bằng vay
nợ) có thể khiến cho nền kinh tế dễ đổ vỡ và mất ổn định”. (F.Mishkin)
c)Huy động vốn bằng hình thức tín dụng:
Các nguồn vốn tín dụng thông thường là: Vốn vay ngân hàng thương mại
(hay tín dụng ngân hàng), tín dụng thương mại, vốn vay các công ty tài chính.
Trong các quan hệ tín dụng của tập đoàn kinh doanh thì tín dụng ngân
hàng đóng vai trò quan trọng nhất. Bởi vì ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vay
vốn đa dạng với quy mô và thời gian khác nhau của tập đoàn. Nói chung, giao
dịch vay vốn ngân hàng thường thuận lợi hơn và có chi phí thấp hơn so với việc
vay vốn của các tổ chức và cá nhân khác. Tính đa dạng, mức độ an toàn, thuận

Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
lợi và hiệu quả cao đã làm cho nguồn vốn tín dụng ngân hàng chiếm vị trí quan
trọng nhất đối với các công ty cũng như các tập đoàn trên thế giới.
Với xu hướng hiện nay, hầu hết quá trình tín dụng trong các tập đoàn kinh
doanh được phân cấp và tự do hoá; trong đó mở rộng vai trò của các công ty
thành viên để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Trong tập
đoàn, các công ty thành viên được chủ động vay vốn và phát triển theo định
hướng chiến lược của tập đoàn.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, hạn chế của nguồn vốn tín dụng là
mức độ rủi ro và khả năng gây tổn thất khi không đáp ứng được khả năng thanh
toán khi đến hạn. Vì thế, để đảm bảo sự an toàn chung của cả hệ thống , các tập
đoàn kinh doanh phải thực hiện những biện pháp nhằm kiểm soát hoạt động vay
vốn tín dụng, nhất là tín dụng ngân hàng và việc phát hành trái phiếu công ty.
Một trong những vấn đề trọng tâm của cơ chế kiểm soát tín dụng là: mối
quan hệ giữa tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả và sự an toàn về tín dụng của tập
đoàn. Một số biện pháp thường được áp dụng là:
- Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty thành viên và hệ
thống kiểm soát quản trị của toàn bộ tập đoàn.
- Thiết lập các giới hạn tín dụng và các chỉ tiêu kiểm tra ngăn ngừa việc
vay vốn không có hiệu quả hoặc không an toàn.
- Hệ thống quản lý toàn bộ quy trình tín dụng của mỗi doanh nghiệp bao
gồm việc xây dựng luận chứng vay vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Đối với tập đoàn kinh doanh, để huy động bằng hình thức tín dụng thì vai
trò của công ty ‘mẹ’ và công ty tài chính là rất quan trọng. Để vay được vốn
ngân hàng với lãi suất thấp, tín dụng thương mại với các đối tác kinh doanh, vay
vốn từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước thì công ty ‘mẹ’ thường sử
dụng uy tín và tiềm lực của mình để vay vốn về cho tập đoàn sau đó thông qua
công ty tài chính cho các công ty ‘con’ vay lại.
Thương hiệu và sức mạnh tài chính của công ty ‘mẹ’ sẽ giúp công ty này

vay vốn dễ dàng hơn các công ty ‘con’, đó chính là ưu điểm của mô hình tập
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
đoàn kinh doanh. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, công ty mẹ có thể vay vốn của
các tổ chức tín dụng với các lãi suất thấp trong thời gian dài, sau đó đầu tư cho
các công ty ‘con’ hoặc cho các công ty ‘con’ vay lại thông qua công ty tài chính.
Bên cạnh đó, công ty tài chính của tập đoàn dựa vào uy tín của công ty ‘mẹ’, kết
hợp với khả năng chuyên môn để tiến hành huy động vốn dưới nhiều hình thức
tín dụng khác nhau. Công ty tài chính sử dụng khả năng của mình liên kết với
các tổ chức tài chính - tín dụng trong và ngoài nước để huy động nguồn vốn tín
dụng về cho tập đoàn kinh doanh. Vì vậy công ty ‘mẹ’ và công ty tài chính của
tập đoàn kinh doanh có vai trò quan trọng là tạo nguồn, tạo kênh dẫn vốn cho
các công ty ‘con’ của tập đoàn.
d)Huy động vốn bằng hình thức khai thác nguồn vốn nội bộ:
Tự huy động nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn vốn của
các tập đoàn kinh doanh được áp dụng khá phổ biến, nhờ đó các công ty phát
huy được năng lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, nhất là
khi có các biến động trên thị trường tài chính. Tự huy động bằng nguồn vốn nội
bộ gồm hai hình thức chính đó là nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại và lưu
chuyển vốn nội bộ.
Nhiều công ty coi trọng biện pháp tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, trong kế
hoạch hàng năm công ty đặt ra mục tiêu tỷ lệ phần trăm vốn tái đầu tư cần đạt
được nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên đối với các công
ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận có liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm.
Khi công ty để lại lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư tức là không dùng số lợi
nhuận đó để chia lãi cổ phần. Các cổ đông không nhận được tiền lãi nhưng bù
lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng thêm của công ty.
Lưu chuyển vốn giữa công ty ‘mẹ’ với các công ty ‘con’, hoặc giữa các
công ty chi nhánh với nhau có các hình thức khác nhau như: Tín dụng nội bộ,
trao đổi các tài sản, đầu tư nội bộ, điều hoà và cấp phát vốn.v.v... Trong đó hình

thức tín dụng nội bộ được áp dụng phổ biến nhất. Sự lưu chuyển vốn nội bộ tạo
ra khả năng điều hoà và sử dụng tối ưu nguồn lực tài chính của tập đoàn. Đây là
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A
Chuyên đề tốt nghiệp
một trong những đặc trưng tài chính chỉ có ở tập đoàn kinh doanh mà các doanh
nghiệp khác không có.
Đối với thức tín dụng nội bộ, các tập đoàn kinh doanh thường có các công
ty tài chính làm nhiệm vụ điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập đoàn. Các
công ty tài chính sẽ điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở quan hệ
tín dụng bình đẳng giữa các thành viên của tập đoàn. Lãi suất vay vốn nội bộ là
lãi suất thoả thuận và là nhân tố kích thích sự di chuyển có hiệu quả nguồn vốn
từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Vì thế nguồn vốn trong tập đoàn sẽ được
phân phối điều hoà và sử dụng có hiệu quả hơn.
Trong các tập đoàn đa quốc gia, do phạm vi phân bố và hoạt động ở nhiều
quốc gia khác nhau nên các hoạt động khai thác và lưu chuyển các nguồn tài
chính nội bộ rất phức tạp và có ý nghĩa quan trọng. Giữa các công ty thành viên
với nhau và công ty mẹ phải thiết lập được một hệ thống trao đổi các nguồn tài
chính (được gọi là Internal financial transfer-IFT). Hệ thống IFT cho phép thực
hiện các hoạt động lưu chuyển, điều hoà vốn trong nội bộ tập đoàn với chi phí
thấp và có hiệu quả cao. Một số tập đoàn nguồn tài chính nội bộ có thể chiếm tỷ
trọng rất cao từ 40% đến 50% thậm chí đến 70% trong tổng nguồn vốn của các
công ty.
1.3 MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN
ĐỐI VỚI CÁC TẬP ĐOÀN KINH DOANH TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1 Kinh nghiệm từ các mô hình quản trị của một số tập đoàn kinh doanh
trên thế giới
a) Kinh nghiệm của tập đoàn France Telecom (FT) của Cộng hoà Pháp
Năm 1987, cộng hoà Pháp thực hiện mở cửa thị trường viễn thông. Sau
khi thực hiện chính sách này, trên thị trường của Pháp có tới trên 900 doanh
nghiệp với tư cách là nhà cung cấp hoặc là nhà khai thác dịch vụ bưu chính viễn

thông.
Lê Quang Vinh - Tài chính doanh nghiệp 44A

×