Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền
kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu,
sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không
thể thoát khỏi những thách thức đầy cam go như các nước khác trong khu
vực. Tuy vậy, Việt Nam trong những năm qua khép lại bằng những thành tựu
kinh tế - xã hội đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó.
Nền kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, giá trị sản lượng công
nghiệp tăng nhanh chóng. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn
định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự
đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư
hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng
góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Riêng với ngành Dầu khí Việt
Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào đó ta
nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn đỉnh để
bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày 11.9.2001 đã
mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị Dầu khí toàn
cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động chính trị- quân sự
của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan trọng của năng lượng
Dầu khí.
Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một
tiềm năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát
triển ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ
đó, mà trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư
vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn
các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như sự
SV: Trần Quốc Hùng 1 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải
pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa
ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước và
khẳng định vị thế là ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót
và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết được
hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sỹ
Đinh Đào Ánh Thủy. Em xin chân thành cảm ơn cô.
Hà Nội, 11.2008.
SV: Trần Quốc Hùng 2 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn
đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự
phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu
tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công
cuộc đầu tư.
1. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1.1. Đầu tư và đầu tư phát triển.
“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hy
sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện
tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết quả
nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động,
tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản
tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm
việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất
xã hội.
Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi
lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những kết quả này
không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng.
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương
mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc
thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và
SV: Trần Quốc Hùng 3 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và, bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với
hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội,tạo ra việc làm và
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là
sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
1.1.1. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau:
Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn tồn
đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái giá
khá lớn của Đầu tư phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả
của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động
xảy ra.
Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với
các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do
đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực và tiêu cực) của các yếu tố
không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế …
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn
như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La
Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền AngcoVat của
Campuchia). Điều này nói lên giá trị của các thành quả Đầu tư phát triển.
Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt
động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình
SV: Trần Quốc Hùng 4 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng
sau này của các kết quả đầu tư.
Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng
nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của
không gian.
Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động
đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát
triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội
nói chung.
1.1.2. Vai trò của Đầu tư phát triển.
Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng
trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước.
* Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đên tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng
trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián thiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ
vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất,
cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam
Smith trong cuốn “của cải của các dân tộc” đó cho rằng vốn đầu tư là yếu tố
quyết định chủ yếu của số lao động hữư dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy
mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng ttrong việc gia tăng sản lượng quốc gia
và sản lượng bình quân mỗi lao động. Theo mô hình của Harrod-Domar, mức
tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư
thuần.
g =∆Y/Y =∆Y/y*∆K/∆K=∆Y/∆K*∆K/Y=1/ICOR*I/Y
=> ∆Y=1/ICOR*I
Trong đó: ∆Y: mức gia tăng sản lượng
SV: Trần Quốc Hùng 5 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
∆K: Mức gai tăng vốn đầu tư
I: Mức đầu tư thuần
K: Tổng quy mụ vốn của nền kinh tế
Y: Tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR: Là hệ số gia tăng vốn-sản lượng.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ trong tiến
trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đổi mới,
các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng
hoá và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng truởng của nền kinh tế đạt được cũng
rất thoả đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày
càng được cải thiện.
* Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên
(đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1
đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm,
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích
sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ,
phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường
chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế
giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa
kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch sang
D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả của các đầu
vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến E1.
SV: Trần Quốc Hùng 6 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư,
dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là
yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
* Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta
hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ
của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực.
Đầu tư và đặc biệt là ĐTPT trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và
năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy,
đâu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng
lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kĩ thuật của đầu tư, trong giai đoạn
vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của VN chiếm
khoảng 28% (xây dựng chiếm khoảng 57%).
Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH-HĐH, tuy nhiên nó cũng
là con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghê cho toàn bộ nền kinh tế. Đối
với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các
SV: Trần Quốc Hùng 7 Kinh tế Đầu tư 47C
D’
D
E
2
E
1
S
S’
E
0
Q
0
Q
1
Q2
P
0
P
2
P
1
Q
P
Đề án môn học
chương trình chuyển giao công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là
điểm đến của một số công nghệ và phương thức dản xuất mới. Đối với chi
đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu khoa học và phát triên công nghệ mới
mặc dù vẫn cũn nhỏ về quy mô, thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001-2005 là 7,6
nghìn tỷ đồng chiếm 0.9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một
trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và
tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu
nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ ren…)
* Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có
thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo
ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các ngành nông - lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn chế về
đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất
khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ nền kinh
tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về
phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi
tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa
thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh, làm bàn
đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Kết quả nghiên cứu của các
nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ phát triển ở mức trung bình thì tỷ lệ
đầu tư phải đạt từ 15% - 20% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước
ICOR = => ICOR =
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư.
SV: Trần Quốc Hùng 8 Kinh tế Đầu tư 47C
Vồn đầu tư
Mức tăng GDP
Vồn đầu tư
ICOR
Đề án môn học
Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư phát
triển có những vai trò sau:
* Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: đầu tư quyết định sự ra
đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà
xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến
hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn với sự
hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra.
Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau một thời
gian hoạt động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư
hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa
chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn
hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa
học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, mua sắm các thiết
bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu
tư.
* Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành
sửa chữa lớn định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi
phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt
động đầu tư.
Như vậy: Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát
triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy vốn
là gì? Vốn huy động từ đâu?
SV: Trần Quốc Hùng 9 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
1.2. Vốn và nguồn vốn.
1.2.1 Khái niệm về vốn.
Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để
chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng nhu cầu
chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn đầu tư
trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài.
Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư là
tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ, là tiền tiết
kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng
trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm
lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.2.2 Các nguồn vốn cơ bản:
1.2.2.1. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước của mỗi quốc gia được hình thành chủ yếu
từ: tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp
và vốn huy động thông qua các tài sản quốc gia.
* Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu
tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn chi của ngân sách Nhà nước
cho đầu tư. Đó là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia. Ngân sách Nhà nước được hình thành từ việc thu
thuế, phí, lệ phí, từ vay viện trợ ưu đãi của nước ngoài, vay trên thị trường
vốn quốc tế và vay trong dân dựa trên việc phát hành trái phiếu chính phủ.
Hiện nay có sự đa dạng vốn đầu tư Nhà nước, không có sự tách biệt giữa: Đầu
tư Nhà nước cho sự phát triển chung của xã hội và đầu tư Nhà nước cho sản
SV: Trần Quốc Hùng 10 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà phải xác định cụ thể nguồn vốn ngân sách
không thể đầu tư tràn lan được, mà phải hạn chế trong một số lĩnh vực chủ
yếu nhất định. Để làm tăng ngân sách Nhà nước, tức là tăng tiết kiệm chính
phủ thì phải tăng thu và tăng tiết kiệm trong chi ngân sách. Trong thu ngân
sách thì thu từ thuế chiếm tỷ trọng lớn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với
các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay
có trả, và phải trả với một lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay
vốn hay sau khi đầu tư (đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này
có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Hiện nay ở nước ta
chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm tập
trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm quan trọng,
then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm; giảm sự bao cấp
và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng cơ bản.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước là Nguồn vốn này được
xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh
nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Nguồn
vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do ngân sách Nhà
nước cấp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp (đầu tư mới), từ quỹ khấu hao của
doanh nghiệp đó (đầu tư thay thế), từ vốn vay (vay ngân hàng thương mại,
quỹ tín dụng đầu tư của cán bộ công nhân viên, từ cổ phần )…
* Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,
phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã và lượng kiều
hối.
SV: Trần Quốc Hùng 11 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của
dân cư, sau khi đó đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu
dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Phạm vi thu nhập của
dân cư bao gồm: thu nhập từ kết quả lao động, từ sản xuất và kinh doanh dịch
vụ của bản thân dân cư và gia đình họ, kể cả xí nghiệp gia đình cú quy mô
nhỏ (không phải là công ty); thu nhập do người thân từ nước ngoài gửi về; thu
nhập do thừa kế; thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ.
Tiết kiệm khu vực dân cư là một bộ phận quan trọng của tiết kiệm trong nước,
đóng góp vai trũ chủ yếu trong việc hỡnh thành vốn đầu tư của các quốc gia,
đây là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng.
Tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh là nguồn vốn bao gồm vốn chủ
sở hữu và tiết kiệm (các khoản thu nhập của doanh nghiệp sau khi trả thuế và
trả cổ tức); từ vốn đi vay hoặc tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu
mới. Phần tích luỹ của các doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tổng quy
mô vốn của toàn xã hội. Hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đạt hiệu
quả, tạo doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh
doanh đa ngành với nhiều lĩnh vực khác nhau, giải quyết công ăn vịêc làm
cho hàng triệu người lao động, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế -
xã hội đất nước.
1.2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động
được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Nó bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, vốn tín dụng thương mại, vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn từ thị trường
vốn quốc tế.
SV: Trần Quốc Hùng 12 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
1.2.2.2.1. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
* Nguồn vốn ODF (Official Development Finance): là nguồn tài trợ phát
triển chính thức do các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ cung cấp. Nguồn này
bao gồm: viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát
triển khác trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu.
* Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance) là nguồn tài chính
do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một
nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Nội dung viện trợ:
- Viện trợ không hoàn lại: yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay
được xác đinh dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn,
số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Đối với loại viện trợ này chiếm
25% tổng vốn ODA, thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công
nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc
tế. Đôi khi viện trợ này lại là viện trợ nhân đạo như lương thực, thuốc men
hoặc các loại hàng hoá khác... nên chúng rất khó huy động vào mục đích đầu
tư phát triển. Nhưng bên cạnh đó các khoản viện trợ này thường kèm theo
một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá...
- Viện trợ có hoàn lại: thực chất là cho vay ưu đãi với điều kiện “mềm”
có thể sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát triển. Tính chất ưu đãi thể hiện ở khía
cạnh đó là: lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài. Nhật Bản cho Việt Nam vay
trong thời gian là 30 năm, Ngân hàng thế giới là 40 năm; thời gian ân hạn từ
khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài, khoảng từ 5-10 năm trở lên,
Nhật Bản ân hạn là 10 năm.
- Viện trợ hỗn hợp: bao gồm phần cấp không và phần còn lại thực hiện
theo hình thức vay tín dụng ( có thể ưu đãi hoặc bình thường ).
SV: Trần Quốc Hùng 13 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
* Đặc điểm của nguồn vốn ODA.
- ODA là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài mà các nhà tài trợ
không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể gián tiếp tham gia dưới hình
thức nhà thầu hoặc chuyên gia. Danh mục các dự án ODA phải có sự thoả
thuận với nhà tài trợ.
- ODA gồm: viện trợ không hoàn lại và viện trợ có ưu đãi nhưng nếu
quản lý và sử dụng kém hiệu quả thì nó sẽ là gánh nặng nợ trong tương lai.
- Các nước nhận viện trợ ODA phải có đủ 1 số điều kiện nhất định thì
mới được nhận viện trợ. Điều này tuỳ thuộc vào quy định của từng nhà tài trợ.
Ví dụ: để nhận tài trợ ưu đãi của IMF nước chủ nhà phải có cổ phần đóng góp
vào IMF và số tiền vay sẽ phụ thuộc vốn cổ phần.
- Chủ yếu dành hỗ trợ cho dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: giao
thông vận tải, y tế giáo dục…
- Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ là các tổ chức viện trợ đa phương
và các tổ chức viện trợ song phương... Các nước cung cấp viện trợ nhiều nhất
hiện này là Mỹ, Nhật, Pháp, Anh, Úc, Thuỵ Điển...
1.2.2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một
thời gian sẽ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay, các nước cho vay
nhận lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn
không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào về chính trị xã hội và có toàn quyền
sử dụng vốn vay này. Tuy nhiên, điều kiện ưu đãi của nguồn vốn này không
dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA, thủ tục vay lại tương đối khắt khe và
nghiêm ngặt, có những quy định riêng về thời gian trả nợ, cộng với lãi suất
cao nên gây cản trở không nhỏ đối với các nước nghèo.
SV: Trần Quốc Hùng 14 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Đây là nguồn vốn vay với lãi suất thương mại, được đánh giá là lãi suất
tương đối cao, thêm vào nữa là sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng nên
nguồn vốn tín dụng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu
cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này
có thể được dùng cho mục đích đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia
tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng
trưởng của các nước đi vay là có triển vọng. Tuy nhiên, nếu các nước tiếp
nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì khả năng xảy ra tình trạng
mất khả năng chi trả dẫn đến vỡ nợ là rất cao.
1.2.2.2.3.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức quốc tế mà chủ đầu tư
nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào quá trình sản xuất kinh doanh để
trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý vào quá trình sử dụng và thu hồi vốn
bỏ ra.
Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với các quốc gia phát triển
mà cả với những quốc gia đang phát triển. Theo báo cáo Đầu tư Thế giới năm
2005 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) thu
hút đầu tư nước ngoài (FDI) của các nước đang phát triển đã lên tới 233 tỷ
USD, tăng 40% so với năm 2003. Lượng FDI đổ vào các nước phát triển lại
giảm 14%, chỉ còn 380 tỷ USD. Tuy nhiên Mỹ vẫn là nước nhận được FDI
nhiều nhất thế giới, sau đó là Anh. Thu hút FDI ở châu Á và châu Đại Dương
đó đạt được 148 tỷ USD trong năm 2004, cao hơn 46 tỷ USD so với năm
2003 và trở thành nơi tiếp nhận nhiều FDI nhất trong các khu vực đang phát
triển. Trung Quốc một lần nữa là nước tiếp nhận nhiều FDI nhất so với các
quốc gia trong khu vực châu Á. Lượng FDI vào nước này trong năm ngoái đó
đạt con số kỷ lục mới là 60,6 tỷ USD. Lượng FDI đổ vào khu vực Đông Nam
Á cũng tiếp tục tăng, từ 17 tỷ USD năm 2003 lên 26 tỷ USD năm 2004.
SV: Trần Quốc Hùng 15 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
* Đặc điểm của nguồn vốn FDI.
- Việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp
nhận.
- Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào
nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển giao cả vốn hiện vật như máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu... (công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kĩ
thuật - công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị
trường...(công nghệ mềm)
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động... vào các nước tiếp nhận.
1.2.2.2.4. Thị trường vốn quốc tế.
Trái phiếu quốc tế: là trái phiếu phát hành bằng đồng tiền không phải là
đồng tiền Nhà nước, có nhà phát hành để vay vốn các nhà đầu tư nước ngoài.
Việc phát hành các trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế của các
quốc gia nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển hoặc bù đắp thiếu hụt về
cán cân thương mại quốc tế. Trái phiếu chính phủ cho phép các quốc gia huy
động vốn với khối lượng lớn, kỳ hạn dài. Ưu điểm của trái phiếu quốc tế cũng
như việc đi vay trong thị trường tài chính trong nước như nhà phát hành có
khả năng độc lập về tài chính, có thể chủ động sử dụng vốn vay mà không bị
phụ thuộc bởi những điều kiện đặt ra từ người cho vay. Tuy nhiên, việc phát
hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế có những đặc điểm riêng
cơ bản như:
- Thị trường trái phiếu chính phủ chịu ảnh hưởng của sự biến động của
thị trường vốn quốc tế, chịu sự ảnh hưởng cuả nền kinh tế thế giới và nhất là
sự phát triển kinh tế của các nước có ngoại tệ được sử dụng để định giá trái
phiếu hoặc khu vực nơi phát hành trái phiếu..
SV: Trần Quốc Hùng 16 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
- Trái phiếu chính phủ chịu sự biến động của tỷ giá ngoại tệ. Trái phiếu
quốc tế có thể mua bằng ngoại tệ, vay nợ và trả nợ bằng ngoại tệ nên khả
năng các quốc gia gặp rủi ro trong trả nợ bằng ngoại tệ là rất cao.
- Trái phiếu chính phủ không thể giãn nợ hoặc hoãn nợ, bắt buộc các
quốc gia phải bố trí vốn hoàn trả khi đáo hạn.
- Việc phát hành trái phiếu chính phủ phải tuân thủ những luật pháp và
thông lệ quốc tế, vậy nên yêu cầu phải có được sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ khi 2 bên ký kết hợp đồng.
Đối với trái phiếu của Việt Nam, những đặc điểm trên là những đặc điểm
cần được lưu ý trong khi phát hành bởi trái phiếu của chúng ta vẫn còn non
trẻ (chỉ chính thức phát hành từ năm 2005). Do vậy, cùng với việc học hỏi
kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng ta phải cố gắng để nâng cao định
mức tín nhiệm quốc gia.
Tóm lại, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư được thể hiện qua bảng số liệu
sau:
Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam
Tổng số 2001 2002 2003 2004 2005 2006
NSNN 23.6% 22.7% 23.7% 22.8% 21.9% 22.5%
Tín dụng TM 16.8% 16% 12.5% 10.9% 9.2% 9.1%
DN nhà nước 17% 16.8% 13.9% 14.8% 15.3% 15.2%
Vốn ngoài quốc
doanh
25% 27.2% 29.7% 31.8% 33% 32.4%
Vốn FDI 17.6% 17.3% 16.3% 16.1% 16.3% 15.4%
Vốn khác - - 3.9% 3.6% 4.3% 5.4%
SV: Trần Quốc Hùng 17 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo nguồn vốn
Tổng số
Chia ra
Vốn ngân
sách Nhà
nước
Vốn vay
Vốn của các
doanh nghiệp Nhà
nước và nguồn
vốn khác
Giá thực tế Tỷ đồng
1995 30447 13575 6064 10808
1996 42894 19544 8280 15070
1997 53570 23570 12700 17300
1998 65034 26300 18400 20334
1999 76958 31763 24693 20502
2000 89417 39006 27774 22637
2001 101973 45594 28723 27656
2002 114738 50210 34937 29591
2003 126558 56992 38988 30578
2004 139831 69207 35634 34990
2005 161635 87932 35975 37728
2006 185102 100201 37000 47901
Sơ bộ 2007 208100 106200 41000 60900
2. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành
dầu khí.
2.1. Đặc điểm của ngành dầu khí.
“Dầu khí” là thuật ngữ gọi tắt cho “dầu mỏ” và “khí đốt”. Chúng là
những hợp chất hữu cơ tự nhiên. Riêng khí đốt còn gọi là khí tự nhiên. Khí
này tồn tại cùng với dầu thô gọi là “khí đồng hành”. Dầu khí không chỉ là
SV: Trần Quốc Hùng 18 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
nhiên liệu mà còn là nguyên liệu nên nó ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế
thế giới. Khác với than đá, hay các khoáng sản khác, việc thăm dò - khai thác
chế biến phân phối dầu thô đã rất nhanh chóng mang tính toàn cầu. Do đó về
mặt công nghệ, trình độ công nghiệp dầu khí ở tất cả các nước đều gần như
nhau, không phân biệt đó là nước phát triển cao hay lạc hậu.
Ngành dầu khí là ngành công nghiệp bao gồm rất nhiều công đoạn
không những thăm dò, khai thác mà còn phải chế biến từ dầu thô trở thành
dầu tinh. Theo thông lệ, ngành dầu khí được chia là ba nhóm loại hình hoạt
động gọi là thượng nguồn, trung nguồn, và hạ nguồn. Nhóm thượng nguồn
gồm các hoạt động nghiên cứu địa chất, tìm kiếm, thăm dò, khai thác mỏ.
Nhóm trung nguồn gồm các hoạt động tàng trữ vận chuyển. Và nhóm hạ
nguồn gồm các hoạt động xử lý, chế biến (lọc dầu, hoá dầu, hoá khí) và phân
phối. Ba nhóm này có những đặc điểm riêng nhưng gắn kết với nhau tạo
thành một vòng khép kín của một ngành công nghiệp hoàn chỉnh.
Trong ngành công nghiệp dầu khí để khai thác được một tấn sản phẩm
thì phải mất nhiều năm từ việc thăm dò khai thác, khảo sát địa chất công trình,
thẩm định trữ lượng, đánh giá tiềm năng, phát triển đưa mỏ vào khai thác
cũng phải qua rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó điều kiện địa lý thiên nhiên
ngày càng xấu đi, việc khai thác vận chuyển đòi hỏi chi phí tăng nhanh. Nói
cách khác, đối với ngành dầu mỏ càng khai thác được nhiều thì ngày càng khó
khai thác. Một vấn đề nữa của ngành dầu khí là công nghệ rất hiện đại, vốn
đầu tư cực kỳ lớn, rủi ro cao, lợi nhuận nhiều và tính quốc tế cao. Vì các đặc
điểm đó mà cho đến giữa thế kỷ 20, ngành này hoàn toàn nằm trong tay các
nước phát triển cao, cùng các tập đoàn siêu quốc gia mang tính độc quyền.
Cho nên các quốc gia đang phát triển dù có một tiềm năng lớn về tài nguyên
dầu khí thì vấn đề phát triển dầu khí vẫn còn khó khăn.
SV: Trần Quốc Hùng 19 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.
Từ nhiều năm nay dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn
nhất. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan
trọng đối với nền kinh tế nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí,
đặc biệt là trong môi trường thềm lục địa và tiềm năng dầu khí của Việt Nam,
cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư có hạn. Vì vậy vấn đề huy động vốn
đầu tư vào phát triển ngành dầu khí không những phục vụ cho lĩnh vực thăm
dò khai thác dầu thô, mà điều quan trọng nữa là chúng ta cần vốn để trang bị
công nghệ, kiến thức tơi tinh lọc dầu. Khi đó mới hy vọng đất nước đi theo
con đường CNH - HDH mà ngành dầu khí là ngành dẫn đầu.
Nếu đặt nền kinh tế Việt Nam trong quỹ đạo kinh tế thế giới: ta thấy hiện
nay năng lượng và nhiên liệu luôn được coi là đầu tàu cho sự phát triển kinh
tế - xã hội, vậy mà vẫn chưa tìm ra một năng lượng, nhiên liệu nào thay thế
than, dầu khí. Theo các chuyên gia của OPEC, nhu cầu tiêu thụ dầu của thế
giới trong 20 năm nữa sẽ tăng lên khoảng hơn 113 triệu thùng/ngày, số lượng
xăng dầu sử dụng tăng rất nhiều so với hiện nay. Các chuyên gia dự tính năm
nay, thế giới sẽ tiêu thụ bình quân khoảng gần 87 triệu thùng/ngày. Theo nhận
định của các chuyên gia, trong những năm tới, các nước đang phát triển sẽ
tiêu thụ xăng dầu nhiều hơn so với các nước phát triển. Lượng tiêu thụ dầu
mỏ của thế giới tăng từ 83 triệu thùng/ngày năm 2004, lên 84.9 triệu thùng
/ngày năm 2006, 85.7 triệu thùng ngày năm 2007.
SV: Trần Quốc Hùng 20 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Sơ đồ sau đây là dự báo ngắn hạn
Cũng theo EIA, đến năm 2030, lượng tiêu thụ sẽ là khoảng 118 triệu
thùng/ngày, trong đó 2/3 lượng tăng trưởng này được dành cho khu vực vận
tải.
Chính vì nhu cầu cao về dầu trên thế giới Việt Nam cần có sự ưu tiên
trong vấn đề khai thác dầu khí, nguồn năng lượng mà thiên nhiên ban tặng.
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay trong vấn đề phát triển ngành dầu mỏ
là: chúng ta chỉ mới tập trung thăm dò và khai thác dầu khí, còn khâu chế biến
thành dầu tinh hầu như ta chưa có khả năng. Một trong những nguyên nhân
của vấn đề này là ta chưa có nguồn vốn đủ lớn để tập trung công nghệ và trí
tuệ chế biến dầu tinh. Mặt khác nếu chỉ riêng vấn đề khai thác thăm dò và
khai thác chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu vốn, thiếu máy móc thiết
bị. Vì vậy việc huy động vốn vào ngành dầu khí là việc cần thiết.
SV: Trần Quốc Hùng 21 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Chương II: Thực trạng tình hình huy động vốn đầu tư vào
ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1. Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.
1.1. Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua.
Ngành dầu khí Việt Nam đến nay đã được xây dựng hoàn chỉnh, bao
gồm các hoạt động đầu tư thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ chức được xếp
vào Tập đoàn dầu khí Việt Nam là:
Tổng công ty Tài chính Dầu khí
(PVFC)
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu
khí (PV Insurance)
Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ - Kỹ
thuật Dầu Khí (PTSC)
Tổng công ty thăm dò khai thác Dầu
khí (PVEP)
Tổng công ty cổ phần Vận tải Dầu
khí (PV Trans)
Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt
Nam (PVPC )
Tổng công ty cổ phần khoan và dịch
vụ khoan dầu khí (PV Drilling)
Tổng công ty cổ phần dịch vụ tổng
hợp dầu khí ( PETROSETCO)
Tổng công ty khí Việt Nam (PV
GAS)
Tổng công ty TNHH một thành viên
Thương mại Dầu khí(PETECHIM
CORP)
Công ty cổ phần bất động sản Dầu
khí (PETROWACO)
Công ty Cổ phần Chế tạo giàn khoan
Dầu khí (PVSHIPYARD)
Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu
Khí (PV Securieties)
Công ty cổ phần Dầu khí Tản Viên
(PVT)
Công ty cổ phần đầu tư Dầu khí Sao
Mai - Bến Đình (PVSB)
Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng và Đô
thi Dầu Khí (Petroland)
Công ty cổ phần đầu tư khu CN DK
- IDICO Long Sơn - (PIV - Long
Son J.S. C)
Công ty Cổ phần đầu tư phát triển
KCN và Đô thị IDICO - Dầu khí
Công ty Cổ phần Đầu tư PV
INCONESS (PVI)
Công ty cổ phần đầu tư tài chính công
đoàn Dầu khí (PVFI)
Công ty cổ phần Đầu tư và Thương
mại Dầu khí Sông Hồng (PVSH)
Công ty cổ phần Dịch vụ - Vận tải Dầu
khí Cửu Long (CGT J.S.C)
SV: Trần Quốc Hùng 22 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Công ty cổ phần dung dịch khoan và
hoá phẩm dầu khí (DMC JSC)
Công ty Cổ phần kinh doanh khí hoá
lỏng Miền Bắc (PVGAS NORTH)
Công ty Cổ phần kinh doanh khí hoá
lỏng Miền Nam (PVGAS SOUTH)
Công ty Cổ phần Kinh doanh kho chứa
khí hoá lỏng Vũng Tàu (PGS)
Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa
chất Dầu khí (PVFCCo)
Công ty cổ phần phân phối khí thấp áp
(PVGAS DJSC)
Công ty cổ phần Truyền thông Dầu
khí (PV Media)
Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư và
Thiết kế Dầu khí (Petrovietnam
Engineering JSC)
Công ty cổ phần xây dựng Dầu Khí
Nghệ An (PVNC)
Công ty cổ phần xây lắp dầu khí (PV
Construction)
Công ty du lịch dầu khí Phương
Đông (PTC)
Công ty nhựa và hoá chất Phú Mỹ
(PMPC)
Công ty TNHH 1 thành viên Quản lý
và Khai thác tài sản Dầu (PVA)
Công ty TNHH dầu khí Mê Kông
(PETROMEKONG)
Công ty TNHH một thành viên Chế
biến và Kinh doanh sản phẩm dầu
mỏ(PDC Co Ltd)
Công ty TNHH một thành viên Cung
ứng Nhân lực và Dịch vụ Dầu Khí
( PETROMANNING)
Công ty TNHH một thành viên điện
lực Dầu khí Cà Mau (PVCMPC)
Viện Dầu Khí Việt Nam (VPI)
Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí
Nhơn Trạch 2 (PVNT2)
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
Chế biến Dầu khí (PVPro)
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
An toàn và Môi trường Dầu Khí
(RDCPSE)
Trung tâm thông tin tư liệu Dầu khí
(PIC)
Trung tâm Công nghệ thông tin,
Viễn thông & Tự động hoá (PITAC)
Trung tâm lưu trữ Dầu khí (PAC)
Trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu
khu vực Miền Nam - (Petrovietnam
NAOS)
Trường đào tạo nhân lực Dầu khí
(PVMTC)
Ban chuẩn bị đầu tư Công trình
đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn
Ban chuẩn bị đầu tư công trình Liên
hợp Lọc Hóa Dầu Nghi Sơn
Ban chuẩn bị đầu tư Nhà máy lọc
dầu số 3
Ban quản lý các dự án thuỷ điện
Ban quản lý dự án Các công trình
xây dựng phía Bắc
Ban quản lý dự án các công trình xây
dựng phía nam
SV: Trần Quốc Hùng 23 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
Ban quản lý dự án cụm Khí điện đạm
Cà Mau (CPMB)
Ban quản lý dự án Khí Điện Nhơn
Trạch
Ban quản lý dự án nhà máy lọc dầu
Dung Quất (DQR)
Ban quản lý dự án nhà số 1 & 5 Lê
Duẩn
Ban Quản lý Dự án Trung tâm
Thương mại Dầu khí Hà Nội
(PVTC)
Ban trù bị thành lập Ngân hàng thương
mại cổ Dầu khí (PV-Bank)
Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ.
Cùng với việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt
Nam cũng từng bước phát triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp
đèn, sau 34 năm thành lập, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã đưa ngành công
nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng của nó.
Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam trong những
năm qua:
“Ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát
huy nội lực, kết hợp tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư về khoa học
và công nghệ của nước ngoài. Với mục tiêu xác định tiềm năng và gia tăng
trữ lượng dầu khí, phát hiện thêm nhiều mỏ mới, đảm bảo nhu cầu về sản
lượng dầu khí cho đất nước, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã không
ngừng mở rộng khu vực tìm kiếm, thăm dò thông qua các hợp đồng phân chia
sản phẩm, hợp đồng liên doanh, hợp đồng điều hành chung hoạt động tự đầu
tư, tự điều hành tìm kiếm thăm dò, có nhiều phát hiện quan trọng, đưa nhanh
các mỏ đã được phát hiện vào khai thác và áp dụng các công nghệ tiên tiến để
nâng cao sản lượng, tăng hệ số thu hồi dầu khí, bảo vệ môi trường tài nguyên.
Kết quả công tác tìm kiếm thăm dò cho đến nay đã xác định được bể trầm tích
Đệ Tam có triển vọng dầu khí: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn
Sơn, Malay - Thổ Chu, Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa và Hoàng
Sa, trong đó các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu và Sông
Hồng gồm cả đất liền (miền võng Hà Nội) đã phát hiện và đang khai thác dầu
khí. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã tiến hành khảo sát trên 300
SV: Trần Quốc Hùng 24 Kinh tế Đầu tư 47C
Đề án môn học
nghìn km tuyến địa chấn 2D, gần 40 nghìn km2 địa chấn 3D, khoan 600 giếng
tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng và khai thác với tổng số mét khoan trên 2.0
triệu km. Một số giếng khoan có phát hiện dầu khí quan trọng trong thời gian
gần đây đã mở các quan điểm tìm kiếm thăm dò mới, gia tăng trữ lượng dầu
khí, tạo ra sự quan tâm của các nhà đầu tư: phát hiên khí tại giếng Đông Quan
D-1X, vùng trũng Hà Nội, phát hiện dầu tại giếng Rồng Tre 1X, lô 11-2, phát
hiện dậu tại GK 16-1-TGT-1X lô 16-1 và 15-1-SN-1X lô 15-1, 15-R, 103-
BAL-1X, 12E-CS-1X đảm bảo gia tăng trữ lượng 35-40 triệu tấn quy dầu/
năm. Bên cạnh việc mở rộng hoạt động thăm dò, khai thác ở trong nước, Tập
đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã và đang triển khai thành công hoạt động
tìm kiếm, thăm dò, khai thác ở nước ngoài để đánh giá tiềm năng dầu khí
tổng thể của Việt Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý, vật lý vùng
thềm lục địa Việt Nam... Tổng công ty đã triển khai một số đề án độc lập đạt
kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả năng quản lý và điều hành của mình.
Như ở Inđônêxia (lô Madura I và II), Malaysia (lô PM 304, SK-305), Angiêri
(lô 433a và 416b), Irắc, Mông Cổ, bước đầu mang lại những thành công đáng
khích lệ như việc khai thác dầu từ Cendoz (lô PM-304 Malaysia), phát hiện
mới các mỏ dầu ở Lô SK-305 (Malaysia) hay lô 433a và 416b (Angiêri.
Ngoài ra, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam còn đang tích cực nghiên cứu
đánh giá tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại một số khu vực có tiềm năng ở Châu
Phi, Nam Mỹ, Trung Đông, Đông Nam Á và các nước thuộc Liên Xô cũ
“Ở hoạt động khai thác dầu khí” Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam hiện đang khai thác dầu khí tại 09 mỏ ở trong nước và ngoài nước :
Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, PM3-CAA/Cái Nước, Hồng Ngọc, Rạng Đông,
Lan Tây – Lan Đỏ, Tiền Hải C, mỏ Sư Tử Đen, Rồng Đôi, Rồng Đôi Tây,
Cendoz thuộc lô PM-304, Malaysia. Sản lượng khai thác trung bình của Tập
đoàn Dầu khí đạt trên 350 nghìn thùng dầu thô/ngày và khoảng 18 triệu m3
khí/ngày. Tính đến hết 12/2006 đã khai thác trên 235 triệu tấn quy trong đó
SV: Trần Quốc Hùng 25 Kinh tế Đầu tư 47C