Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.78 KB, 72 trang )

Lời nói đầu
Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động ngoại thương nói
riêng ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất
nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như một mắt xích không thể thiếu
được trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của
các Ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó được coi là
công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế, và thương mại giữa các nước trên
thế giới.Tuy nhiên thanh toán quốc tế là hoạt động rất phức tạp, bởi các chủ
thể tham gia có sự cách biệt về địa giới cũng như chế độ chính trị, kinh tế xã
hội. Do đó, các bên tham gia luôn quan tâm đến việc tìm ra phương thức
thanh toán có hiệu quả nhất, tức là có ít rủi ro nhất đối với cả người mua lẫn
người bán. Và phương thức tín dụng chứng từ được các chủ thể chọn trong
thanh toán quốc tế bởi nó hội tụ được các yêu cầu từ cả hai phía người nhập
khẩu và người xuất khẩu. Với những ưu điểm vượt trội của mình, phương
thức tín dụng chứng từ ngày càng trở nên phổ biến trong hoạt động thanh
toán quốc tế. Tuy nhiên đây là phương thức thanh toán phức tạp, đa dạng
nên để hiểu và sử dụng tốt phương thức này là việc không đơn giản.
Qua quá trình thực tập về nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh
ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, em đã được tìm hiểu và nắm bắt được
phần nào về nghiệp vụ này. Em nhận thấy rằng việc mở rộng hình thức
thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ còn gặp phải không ít khó
khăn, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh chung của cả
Ngân hàng. Do vậy em đã chọn dề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHCT Hoàn Kiếm”
1
Với nhận thức còn hạn chế, thực tế còn ít, vì vậy đề tài còn nhiều khiếm
khuyết. Vậy em kính mong được sự tham gia chỉ dẫn của cô giáo P.Gs-Ts
Phan Thị Thu Hà và tập thể bộ môn, Ban lãnh đạo NHCT- HK và tập thể
CBCNV chi nhánh NHCT – HK góp ý kiến cho đề tài của em có được
những vấn đề xác thực nhất. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề


gồm 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng công thương HK
Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng công
thương HK
2
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ
1.1 Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
1.1.1 Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là một hoạt động chi trả bằng tiền (ngoại tệ thoả thuận)
liên quan tới hàng hoá, dịch vụ, tư bản của cá nhân, tổ chức, chính phủ nước
này đối với đối tác của mình trên thế giới bằng các hình thức chuyển tiền
hoặc bù trừ trên các tài khoản tại ngân hàng
Thanh toán quốc tế đã ra đời như một tất yếu khách quan trong quá trình
phát triển của nền kinh tế thế giới. Các quan hệ thanh toán quốc tế được chia
làm ba loại bao gồm thanh toán mậu dịch, thanh toán phi mậu dịch và thanh
toán nợ cũ. TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ là một hình thức của
thanh toán mậu dịch, một hình thức thanh toán phục vụ cho hoạt động xuất
nhập khẩu.
Hiện nay, trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN),
thanh toán quốc tế được hiểu là quá trình thực hiện các nghiệp vụ như:
chuyển tiền, thanh toán thẻ, nhờ thu, thanh toán L/C và các nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế khác bằng ngoại tệ trong nội bộ hệ thống NHCTVN, giữa
NHCI với các tổ chức tài chính khác ở trong và ngoài nước thông qua mạng
IBS (hệ thống nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của NHCTVN), mạng SwiFT
(mạng tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu) hoặc các hệ thống khác.

1.1.2. Điều kiện của TTQT
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện
TTQT. Các điều kiện đó là:
3
+ Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa
điểm đó có thể ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu.
+ Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và
thanh toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định
cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động.
+ Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn
phi lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền
thanh toán biến động. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền
muốn thu tiền nhanh còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi
đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào
những yếu tố như tình hình thị trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ giữa
các bên liên quan.
+ Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng
trong từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong
quan hệ mua bán Quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu
tiền hoặc để trả tiền như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng...
TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Trong các điều
kiện trên, phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức
thanh toán là người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách
nào để trả tiền. Trong quan hệ mua bán, người ta có thể chọn nhiều phương
thức khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn
phương thức thanh toán nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu
tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng
và đúng hạn.
4

1.1.3. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ( Thư tín
dụng - Letter of Credit )
1.1.3.1 Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một
ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của một khách hàng
(người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác
(người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do
người này kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho
ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định để ra
trong thư tín dụn
Thư tín dụng (Letter of credit - L/C) là một chứng thư trong đó ngân
hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ
chứng từ phù hợp với nội dung L/C. Chính vì vậy, người ta còn gọi phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ là thanh toán L/C.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
+ Người mua: ( Người xin mở L/C (Applicant), người nhập khẩu, người
mắc nợ): Là người tiếp nhận hàng hoá, dịch vụ. Tại Việt Nam, theo Nghị
định số 63/1998/NĐ - CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về Quản lý ngoại
hối, Luật thương mại 1997, Nghị định số 57/1998 về vấn đề xuất nhập khẩu
trong thời kỳ mới, quy định người yêu cầu mở L/C là các doanh nghiệp được
thành lập và hoạt động theo pháp luật của Việt Nam có giấy phép kinh
doanh nhập khẩu hàng hoá phải phù hợp với chính sách của Nhà nước và
các quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan đến vay trả nợ nước
ngoài. Theo quy chế mở thư tín dụng hàng trả chậm được ban hành theo
Quyết định số 207 ngày 1/7/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
5
Nam thì đối tượng được Ngân hàng mở L/C trả chậm là: người yêu cầu mở
L/C có thể uỷ quyền cho một người khác, người đó là ngân hàng thương mại
ở nước người nhập khẩu yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài
phát hành L/C quá cảnh.

- Quyền lợi và nghĩa vụ của người mua: Lập bộ hồ sơ yêu cầu mở L/C
trên cơ sở các điều khoản trong hợp đồng thương mại và gửi đến ngân hàng
yêu cầu mở L/C. Tiếp nhận bộ chứng từ hàng xuất khẩu và thanh toán tiền
cho ngân hàng, sử dụng bộ chứng từ hàng xuất khẩu nhận được để nhận
hàng.
- Vai trò: Là một trong hai bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt
động thanh toán.
+ Người bán: ( người hưởng lợi, người xuất khẩu, chủ nợ) : là người cung
cấp hàng hóa, dịch vụ.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của người bán: Gửi hàng theo như hợp đồng, lập
bộ chứng từ hàng xuất khẩu theo các đIều kiện và điều khoản của L/C nhận
được, lập hối phiếu hoặc lệnh đòi tiền, gửi bộ chứng từ và hối phiếu hoặc
lệnh đòi tiền đó cho ngân hàng thông báo để chuyển đến ngân hàng mở L/C.
Được thanh toán tiền hàng khi ngân hàng mở L/C xác nhận là bộ chứng từ
hợp lệ.
- Vai trò: Là một trong hai bên làm phát sinh quan hệ mua bán và hoạt
động thanh toán.
+ Ngân hàng mở L/C ( Opening Bank or issuing Bank ): Là ngân hàng
được hai bên người mua và người bán thỏa thuận lựa chọn và quy định trong
hợp đồng thương mại quốc tế, nếu không quy định trong hợp đồng thì người
mua có quyền lựa chọn.
6
- Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: Căn cứ vào hồ sơ xin mở
L/C của người mua để lập L/C sau đó thông báo, gửi bản gốc L/C cho người
bán, thông thường việc thông báo và gửi L/C cho người bán phảI thông qua
một ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu, không loại
trừ trường hợp ngân hàng mở L/C thông báo và gửi trực tiếp L/C cho người
bán. Sửa đổi, bổ sung L/C theo yêu cầu bằng văn bản của người bán và
người mua nếu có sự đồng ý của cả hai bên. Kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất
khẩu của người bán gửi đến, nếu bộ chứng từ đó phù hợp với những đIều

kiện và đIều khoản của L/C thì tiến hành thanh toán tiền hàng cho người bán
hoặc ký chấp nhận hối phiếu do người bán lập ra, và sau đó sẽ lập lệnh đòi
tiền người mua, nếu bộ chứng từ không phù hợp thì từ chối thanh toán, hoặc
từ chối ký chấp nhận hối phiếu và thông báo cho ngân hàng thông báo biết
những điểm không phù hợp đó. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục
phí mở L/C hoặc sửa đổi L/C và thu phí dịch vụ thanh toán. Ngân hàng được
miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào hoàn cảnh bất khả kháng như
chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa….nếu L/C đến đúng lúc đó,
ngân hàng không chịu trách nhiệm thanh toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu
đó, trừ khi đã có những qui định dự phòng.
- Vai trò: Là trung gian thanh toán đồng thời là người đảm bảo thanh
toán bộ chứng từ hàng xuất khẩu nếu nó phù hợp với các đIều kiện và đIều
khoản của L/C.
+ Ngân hàng thông báo ( Advising Bank ) : Thường là ngân hàng đại
lý của ngân hàng mở L/C tại nước xuất khẩu.
Quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng này: Khi nhận được điện ( hoặc thư)
thông báo của ngân hàng mở L/C, tiến hành kiểm tra mẫu điện, (hoặc mẫu
chữ ký được ủy quyền trên thư) , nếu phù hợp thì chuyển đIện (hoặc thư)
7
thông báo và bản gốc L/C cho người bán. Ngân hàng thông báo chỉ có nghĩa
vụ chuyển nguyên văn bức đIện ( hoặc thư) và L/C đến cho người bán mà
không có nghĩa vụ phảI dịch hay chuyển ra tiếng địa phương, ngân hàng
không chịu trách nhiệm với bất kỳ sai sót nào trong việc dịch và chuyển ra
tiếng địa phương bức đIện (hoặc thư) và L/C này. Khi nhận được bộ chứng
từ hàng xuất khẩu từ người bán và hối phiếu ( hoặc lệnh đòi tiền ) do người
bán lập ra thì chuyển ngay cho ngân hàng mở L/C, ngân hàng không chịu
trách nhiệm về những hậu quả phát sinh do chậm trễ hoặc mất mát bộ chứng
từ trên đường đI đén ngân hàng mở L/C, miễn là chứng minh được mình đã
gửi nguyên vẹn và đứng hạn bộ chứng từ đó qua bưu đIện. Ngân hàng thông
báo được hưởng một khoản phí thông báo.

Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp, còn có thể có các ngân hàng khác tham
gia vào phương thức thanh toán L/C như ngân hàng xác nhận (Confirming
bank), ngân hàng chiết khấu (Negotiating bank), ngân hàng chấp nhận
(Accepting bank), ngân hàng hoàn tiền (Reimbursing bank).......
Sự khác biệt giữa thanh toán tín dụng chứng từ với các phương thức
thanh toán khác được thể hiện rõ nét ở những ưu, nhược đIểm của phương
thức thanh toán này, ngoàI những khác biệt rõ nét như phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ đảm bảo công bằng cho người xuất khẩu và người
nhập khẩu hơn các phương thức khác, phạm vi áp dụng rộng hơn nhưng
ngược lại lại phức tạp và tốn kém cho người xuất khẩu và người nhập khẩu
hơn các phương thức thanh toán khác, phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ bắt buộc có sự tham gia của bên thứ ba là ngân hàng.
1.1.3.2. Các loại thư tín dụng chủ yếu.
a. Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C)
8
Là loại thư tín dụng mà người yêu cầu mở có toàn quyền đề nghị ngân
hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không cần báo
trước cho người hưởng lợi biết (đương nhiên việc đó phải diễn ra trước khi
thư tín dụng được thanh toán).Như vậy loại thư tín dụng có thể huỷ ngang
thuộc loại cam kết không bị ràng buộc trách nhiệm pháp lý. Đứng trên giác
độ quyền lợi của bên bán, loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi
cho họ; do đó ngày nay nó ít được sử dụng trong thương mại quốc tế .
b.Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( Irrevocable L/C ).
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi nó đã được mở ra thì mọi việc liên
quan tới sửa đổi bổ sung hoặc huỷ bỏ nó ngân hàng mở chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở sự thoả thuận của các bên có liên quan.
Như vậy, nếu không có sự nhất trí của người hưởng lợi về những nội
dung cần tu chỉnh trong thư tín dụng thì ngân hàng mở không được phép
thực hiện theo yêu cầu đơn phương của người yêu cầu mở. Do đó, quyền lợi
của bên bán được đảm bảo.

Thư tín dụng không thể huỷ ngang là loại được áp dụng rất phổ biến
trong thương mại quốc tế ngày nay.
Theo qui định trong bản “ Quy tắc và thực hành thống nhất về tín
dụng chứng từ ” : Nếu không có ghi chú đặc biệt gì khác về loại thư tín dụng
muốn mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ
ngang.
c.Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirm
irrevocable L/C).
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng
khác đảm bảo trả tiền cho người thụ hưởng theo yêu cầu của ngân hàng mở
thư tín dụng đó.
9
Do có hai ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi
cho nên loại thư tín dụng này được coi là rất đảm bảo quyền lợi cho bên bán.
Tuy nhiên, cũng cần lưu là để có sự xác nhận như vậy đương nhiên phải
thanh toán một khoản phí (phí xác nhận) nhất định đối với ngân hàng xác
nhận. Trên thực tế, nhu cầu xác nhận thư tín dụng này phụ thuộc nhiều yếu
tố song chủ yếu tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm và tình hình tài chính của
ngân hàng mở thư tín dụng .
d. Thư tín dụng không thể huỷ ngang, miễn truy đòi (Irrevocable
without recourse L/C).
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người thụ
hưởng đã được trả tiền thì ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong
bất kỳ tình huống nào.
Khi sử dụng loại thư tín dụng này, người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu
“miễn truy hồi người ký phát“. Đồng thời trong thư tín dụng cũng phải ghi
như vậy.
e. Thư tín dụng chuyển nhượng (Irrevocable transferable L/C).
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền
được phép trả toàn bộ hay một phần số tiền của thư tín dụng cho một hay

nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
Một thư tín dụng muốn được chuyển nhượng phải có lệnh đặc biệt của
ngân hàng mở và trên thư tín dụng phải ghi “có thể chuyển nhượng được“.
Lưu ý rằng việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện một lần cho thư tín dụng
đó.
f. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C).
Là loại thư tín dụng mà sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời
hạn hiệu lực lại tự động có giá trị như cũ và được tiếp tục sử dụng sau một
10
thời gian nhất định.
Thư tín dụng tuần hoàn cần được chỉ rõ, ngày hết hạn hiệu lực cuối
cùng, số lần tuần hoàn và giá trị mỗi lần đó. Đồng thời, cũng phải qui định
rõ số dư của hạn ngạch L/C dùng chưa hết lần trước được hay không được
cộng đồn vào hạn ngạch L/C sử dụng lần kế tiếp.
g. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C)
Là loại thư tín dụng được mở ra dựa trên cơ sở số tiền của một thư
tín dụng khác đã được mở trước đó. Loại thư tín dụng này thường được
sử dụng nhiều trong phương thức giao dịch mua bán qua trung gian,
chuyển khẩu. Việc vận hành quá trình thanh toán theo loại thư tín dụng
này nói chung khá phức tạp; đặc biệt là những điều kiện về thời hạn, về
bộ chứng từ …
h. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C).
Là loại thư tín dụng chỉ có giá trị hiệu lực khi thư tín dụng của bên
đối tác cũng đã được mở ra.
Trong hai thư tín dụng có liên quan sẽ có một thư tín dụng được mở
trước, nó thường được ghi như sau: “ Tín dụng này chỉ có giá trị khi người
hưởng lợi đã mở ra một thư tín dụng đối ứng cho người mở tín dụng này …”
Đồng thời, bên mở tín dụng đối ứng cũng sẽ ghi: “ Tín dụng này đối ứng với
thư tín dụng số…mở ngày…tại ngân hàng…. “ và thông báo kịp thời cho
bên đối tác biết.

k.Thư tín dụng thanh toán dần (Deferred L/C ).
Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở sẽ thanh toán dần dần trị giá
thư tín dụng cho người hưởng lợi theo tiến trình chuyển giao hàng hoá của
họ với bên mua. Loại thư tín dụng này thích ứng với các hợp đồng giao hàng
nhiều lần .
11
l. Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C).
Là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt, thể hiện ở chỗ:
người yêu cầu mở cho phép người thụ hưởng được nhận một số tiền nhất
định trong tổng số tiền của thư tín dụng đã mở, ngay cả khi người này còn
chưa thực hiện nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người mua.
m. Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C).
Là loại thư tín dụng được phát hành với mục tiêu nhằm trực tiếp
bảo vệ quyền lợi cho bên mua.
Bên mua yêu cầu bên bán thông qua ngân hàng phục vụ mình mở thư
tín dụng dự phòng cho bên mua hưởng. Trong trường hợp bên bán vi phạm
hợp đồng thương mại đã ký kết gây thiệt hại cho họ thì ngân hàng mở thư tín
dụng dự phòng sẽ thanh toán tiền đền bù những thiệt hại đó.
1.1.3.3. Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng
từ.
a. Quy trình thanh toán L/C theo tinh thần của UCP – 500.

12
NH mở L/C NH thông báo L/C
Người nhập
khẩu
Người xuất khẩu
(7)
(4)
(3)

(4)
(1)
(5)
(9)
(2)
(6)
(10) (8)
1. Người nhập khẩu ( người mua, Importer ) yêu cầu Ngân hàng phát
hành mở L/C.
2. Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng phát hành sẽ lập một L/C và
gửi cho ngân hàng đại lí của mình ở nước người xuất khẩu (Ngân
hàng thông báo) để yêu cầu ngân hàng này thông báo L/C cho người
xuất khẩu ( người bán, exporter ).
3. Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C cho người xuất khẩu.
4. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng,
nếu không thì đề nghị sửa đổi L/C.
5. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo qui định của
thư tín dụng xuất trình cho ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng
thông báo hoặc một ngân hàng khác theo qui định của L/C để đòi tiền
ngân hàng phát hành.
6. Ngân hàng thông báo gửi chứng từ đòi tiền cho ngân hàng phát hành
L/C.
7. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì tiến
hành thanh toán hoặc kí chấp nhận thanh toán. Nếu không phù hợp thì
xin ý kiến của người nhập khẩu.
8. Ngân hàng thông báo hoàn trả tiền cho người xuất khẩu.
9. Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ
cho người nhập khẩu. Người nhập khẩu nhận chứng từ để đi nhận
hàng.
13

10.Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín
dụng thì hoàn tiền lại cho ngân hàng mở thư tín dụng hoặc kí chấp
nhận thanh toán, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.
b. Quy trình thanh toán L/C theo tập quán của Ngân hàng thương mại
Việt Nam.

1. Người nhập khẩu ( người mua, Importer ) yêu cầu Ngân hàng phát
hành mở L/C.
2. Ngân hàng phát hành sẽ lập một L/C, thông báo L/C cho người xuất
khẩu thông qua Ngân hàng thông báo.
3. Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C cho người xuất khẩu.
4. Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng,
nếu không thì đề nghị sửa đổi L/C.
5. Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo qui định của
thư tín dụng xuất trình chứng từ qua ngân hàng thông báo đòi tiền
14
NH mở L/C NH thông báo L/C
Người nhập
khẩu
Người xuất khẩu
(8)
(4)
(3)
(9) (1)
(5)
(6)
(2)
(5) L/C
(7) (8)
ngân hàng phát hành L/C. Ngân hàng thông báo kiểm tra bộ chứng từ

và chuyển cho Ngân hàng phát hành.
6. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ và thôngbáo cho người
nhập khẩu.
7. Người mua kiểm tra lần nữa, nếu thấy phù hợp thì chấp nhận thanh
toán.
8. Ngân hàng phát hành chấp nhận thanh toán hoặc trả tiền cho người
xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo.
9. Người mua hoàn trả tiền cho ngân hàng phát hành, ngân hàng phát
hành giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu để đi nhận hàng.
Nói tóm lại, về cơ bản quy trình nghiệp vụ thanh toán theo tập quán của
Việt Nam hay theo tập quán của các nước tư bản đều phù hợp với thông lệ
quốc tế và tính đặc thù của từng quốc gia. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ phát
triển mạnh mẽ.
1.1.6.4. Nội dung cơ bản của thư tín dụng.
a. Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C.
+ Số hiệu:
Mỗi thư tín dụng đều có số hiệu riêng của nó, nhằm tạo thuận tiện
trong việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao
dịch thanh toán. Số hiệu này cũng được dùng để ghi vào các chứng từ liên
quan trong bộ chứng từ thanh toán .
15
+ Địa điểm mở L/C: Là nơi mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả
cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng
khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó
+ Ngày mở L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mỏ
L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và
cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực
hiện việc mở L/C có đụng hạn như đã qui định trong hợp đồng không.
b. Tên, địa chỉ của người có liên quan đến phương thức tín dụng

chứng từ.
Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ nói
chung chia làm hai loại: một là các thương nhân, hai là các ngân hàng.
Các thương nhân chỉ bao gồm những người nhập khẩu, là người yêu
cầu mở L/C, người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C.
Các ngân hàng tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có
ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác
nhận...
c. Ngân hàng mở L/C (Opening Bank hay Issuing Bank)
Là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và
qui định trong hợp đồng, nếu chưa có sự qui định trước, người nhập khẩu có
quyền lựa chọn,
Quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng này như sau:
+ Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C
và tìm cách thông báo L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất
khẩu.
16
Thông thường, việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải
thông qua một ngân hàng đại lý của nó ở nước người xuất khẩu (trường hợp
này ít dùng).
+ Sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C của người
xuất khẩu đối với L/C đã được mở nếu có sự đồng ý của họ.
+ Kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy các
chứng từ đó phù hợp với những điều qui định trong L/C và không mâu thuẫn
nhau thì trả tiền cho người xuất khẩu và đòi tiền lại người nhập khẩu, ngược
lại thì từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi
đến, ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra "bề ngoài" của chứng từ xem
có phù hợp với L/C hay không, chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính
chất pháp lí của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ...Mọi sự tranh
chấp về tính chất "bên trong" của chứng từ là do người nhập khẩu và người

xuất khẩu tự giải quyết.
+ Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào
đúng các bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt
lội, động đất, hoả hoạn... Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng
không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó,
trừ khi đã có những qui định dự phòng.
+ Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu
trách nhiệm. Ngân hàng được hưởng một khoản thủ tục phí mở L/C từ
0,125% đến 0,5% trị giá L/C.
d. Ngân hàng thông báo (Advising Bank)
Thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất
khẩu. Quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của ngân hàng thông báo như sau:
17
+ Khi nhận được điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C, ngân
hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được của người xuất khẩu
dưới hình thức vân bản.
+ Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức
điện đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn
ra tiếng địa phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã
nhận được thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. Chính vì vậy, trong cuối bức
thư thông báo L/C, bao giờ cũng có câu "Please note we assume no
responsibility for any error and/or omission in the transmision and/or
translation of the cable", tức là "Xin lưu ý, chúng tôi không chịu trách nhiệm
về bất cứ một lỗi lầm hay thiếu sót trong chuyển và dịch bức điện này".
+ Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân
hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới ngânhàng mở L/C.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do
sự chậm trễ và/hoặc mất mát chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở L/C,
miễn là chứng minh rằng mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ
đó qua bưu điện.

e.Ngân hàng trả tiền (Negotiating Bank hoặc Paying Bank)
Là ngân hàng mở L/C và có thể là một ngân hàng khác do ngân hàng
mở L/C uỷ nhiệm.
Nếu địa điểm trả tiền qui định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng
trả tiền thường là ngân hàng thông báo. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền
giống như ngân hàng mở L/C khi nhận được bộ chứng từ của người xuất
khẩu gửi đến.
f. Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank)
18
Là ngân hàng đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu
của nó. Ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị
trường tín dụng và tài chính quốc tế. Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu một
ngân hàng khác xác nhận cho mình sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng mở
L/C. Muốn xác nhận, ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí (confirming
charges) rất cao và đôi khi còn phải đặt trước (cash cover), mức đặt tiền
trước có thể đạt tới 100% trị giá của thư tín dụng (full cash cover).
g. Số tiền của thư tín dụng
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và
thống nhất với nhau. Không thể chấp nhận một thư tín dụng có số tiền bằng
số và chữ mâu thuẫn nhau.
Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đồng Đôla
nhưng trên thế giới có nhiều loại đồng Đôla khác nhau như: đô la Mỹ, đô la
úc, đô la Hồng Kông...
Theo bản "Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
1993" qui định thì những từ "khoảng chừng" (about), "độ khoảng" (circa)
hoặc những từ ngữ tương tự được dùng để chỉ mức độ số tiền của thư tín
dụng nên hiểu là cho phép xê dịch hơn kém không quá 10% của tổng số tiền
đó.
Ngoài ra, bản qui tắc còn qui định "trừ khi thư tín dụng qui định số
lượng hàng giao không được hơn kém, còn lại thì sẽ được phép có một

khoản dung sai trong phạm vi hơn kém 5%, miễn là tổng số tiền chi trả luôn
luôn không được vượt quá số tiền của thư tín dụng. Không được áp dụng
dung sai này khi thư tín dụng qui định số lượng tính bằng đơn vị bao, kiện
đã được nói rõ hoặc tính bằng đơn vị chiếc".
19
h. Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi
trong thư tín dụng.
* Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C
cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ
chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những điều qui định trong L/C.
Thời hạn hiệulực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở L/C (date of issue) đến
ngày hết hiệu lực L/C (expiry date).
Cần phải chú ý là, có nước qui định rằng nếu thời hạn hiệu lực L/C
dưới 3 tháng, thì phí thông báo L/C chỉ phải chịu là 0,1%; còn trên 3 tháng
đến 6 tháng thì là 0,2%. Vì vậy cần phải xác định một thời hạn hiệu lực của
L/C cho hợp lý, có nghĩa là nó vừa tránh đọng vốn cho người nhập khẩu vừa
không gây khó khăn cho việc xuất trình chứng từ của người nhập khẩu. Việc
xác định này cần thoả mãn các nguyên tắc sau đây:
+ Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không
được trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C.
+ Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lí, không
được trùng với ngày giao hàng. Thời gian hợp lý này được tính tối thiểu
bằng tổng số của từng ngày cần phải có để thông báo mở L/C, số ngày lưu
L/C ở ngân hàng thông báo, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập.
Nếu hàng xuất là mặt hàng phức tạp, phải điều động từ xa ra cảng và phải tái
chế biến lại trước khi giao, nếu thời điểm giao hàng xuất là hàng sản phẩm
công nghiệp thì không cần thiết đòi hỏi số ngày chuẩn bị quá lớn.
+ Ngày hết hạn hiệu lực L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian
hợp lý. Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ nơi giao hàng đến
có quan của người xuất khẩu, số ngày lập bộ chứng từ, ố ngày vận chuyển

20
chứng đến ngân hàng mở L/C (hay ngân hàng trả tiền), số ngày lưu giữ
chứng từ tại ngân hàng thông báo và 7 ngày làm việc để ngân hàng thể hiện
ý chí chấp nhận hay từ chối trả tiền.
*Thời hạn trả tiền của L/C (date of payment) là thời hạn trả tiền ngay
hay trả tiền sau. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào qui định của hợp đồng.
Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được qui định ở yêu
cầu ký phát hối phiếu.
Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C, nếu như
trả tiền ngay hoặc có thề là nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C, nếu như trả
tiền có ký hạn. Song điều quan trọng là, những hối phiếu có kỳ hạn phải
đựơc xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.
*Thời hạn giao hàng (date of delivery) cũng được ghi trong L/C và do
hợp đồng mua bán qui định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng có
quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá
cả, qui cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu... cũng được ghi trong thư tín
dụng.
1.2 Mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ
1.2.1.Vai trò của hoạt động TTQT đối với hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ trong
nước, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế ra đời và phát triển, trong đó TTQT là mảng hoạt động có
21
vai trò quan trọng đối với mỗi ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh quyết
liệt giữa các ngân hàng.
Thứ nhất, TTQT là nghiệp vụ bổ sung, hỗ trợ cho các mặt hoạt động
khác của ngân hàng, chẳng hạn như khi phát triển hoạt động TTQT sẽ tăng

cường được khả năng huy động và sử dụng vốn ngoại tệ của ngân hàng.
Thứ hai, tiến hành hoạt động TTQT tốt sẽ giúp ngân hàng đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó nâng cao được uy tín của mình.
TTQT là một nghiệp vụ phức tạp, trong TTQT ngân hàng không chỉ là trung
gian tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa người mua và người bán thông qua
quan hệ của mình với các ngân hàng khác mà các ngân hàng cần phải đẩy
mạnh công tác tư vấn, giúp khách hàng lựa chọn phương thức, công cụ thanh
toán hiệu quả nhất. Quá trình thanh toán diễn ra thuận lợi, người bán nhận
đủ tiền, người mua nhận được hàng hoá đúng số lượng, chất lượng và thời
gian sẽ chứng tỏ được khả năng của ngân hàng trong hoạt động của mình.
Thứ ba, TTQT sẽ giúp ngân hàng mở rộng quan hệ hợp tác với các
ngân hàng khác trên thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đổi mới công
nghệ ngân hàng, từ trang bị kỹ thuật đến đào tạo chuyên viên, góp phần đưa
ngân hàng trở thành ngân hàng đa năng, hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn
nhu cầu của khách hàng.
Thứ tư, TTQT là dịch vụ trung gian, phí thu được từ hoạt động TTQT
không phải là thu nhập chủ yếu nhưng cũng góp phần đáng kể vào tổng thu
nhập của ngân hàng. Hơn nữa, mức phí trong hoạt động TTQT cũng là công
cụ để ngân hàng thực hiện chiến lược lôi cuốn khách hàng
Nói tóm lại, TTQT là mảng hoạt động rất quan trọng của ngân hàng,
nó không chỉ tạo ra thu nhập mà còn là nhân tố giúp ngân hàng nâng cao uy
22
tín, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng qui mô nghiệp vụ hoạt động cũng
như tăng cường mối quan hệ của mình với các ngân hàng khác trên toàn thế
giới.
1.2.2.Các tiêu chí phản ánh việc mở rộng hoạt động TTQT theo phương
thức tín dụng chứng từ
Hướng tới các mục tiêu:
 Thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng về thanh toán quốc tế: Đáp ứng
nhu cầu khách hàng về các hình thức L/C, số lượng, qui mô, địa điểm,

thời gian trong hoạt động thanh toán quốc tế.
 Thu hút tối đa khách hàng cho hoạt động thanh toán quốc tế bằng
phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và cho hoạt động kinh doanh
của NH nói chung.
 Đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng
phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng.
 Nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng đối với khách hàng và các đối
tác nước ngoài.
1.2.3. Các nhân tố tác động đến việc mở rộng hoạt động thanh toán
quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ bao gồm các nhân tố sau:
+ Các nhân tố chủ quan ( Xuất phát từ phía các ngân hàng ):
- Dự trữ ngoại tệ
- Tỷ giá hối đoái
- Uy tín của ngân hàng trong TTQT
- Đội ngũ cán bộ và công nghệ thanh toán
- Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
+ Các nhân tố khách quan:
23
- Chính sách của chính phủ và ngân hàng nhà nước về TTQT
- Chịu sự điều chỉnh của các bộ luật quốc tế như : Các Qui tắc và
thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (Uniform Customs and Practice
for Documentary credit - UCP) của phòng thương mại quốc tế, bản đang có
hiệu lực hiện nay là UCP No.500, bản sửa đổi năm 1993; Các điều kiện
thương mại quốc tế (Incorterms); Luật điều chỉnh hối phiếu và kỳ phiếu
quốc tế do Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hiệp quốc, kỳ họp thứ
15, New York, ngày 26 tháng 7 – 6 tháng 8 năm 1982 ban hành.
1.2.4.Các biện pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ
- Nghiên cứu đa dạng hoá các hình thức L/C
- Mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý

- Đổi mới công nghệ ngân hàng
24
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Ngân hàng công thương hoàn kiếm
2.1.Tổng quan về Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm (NHCTHK) là một chi nhánh của
NHCTVN, có trụ sở chính đặt tại 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Trước tháng3/1988, NHCTHK thuộc về NHCT thành phố Hà Nội thực hiện
nhiệm vụ chính được giao là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán,
đồng thời vừa đảm bảo nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và
các tập thể trên địa bàn quận Hoàn kiếm. Nhưng kể từ sau khi chỉ thị số
218/ct ban hành ngày 13/7/1987 của HĐBT, thực hiện Điều lệ của
NHCTVN, ngày 26/3/1988, NHCTHK chính thức tách ra khỏi NHCT thành
phố Hà nội để trở thành NHCTHK như ngày nay.
Không giống như các chi nhánh, thoạt tiên chi nhánh NHCTHK được
hình thành trên cơ sở là quỹ tiết kiệm. Như vậy là xuất phát điểm của chi
nhánh là tương đối thấp. Điều này ban đầu cũng là một khó khăn không nhỏ
đối với chi nhánh. Do NHCTHK là một chi nhánh của NHCTVN nên bên
cạnh việc thực hiện đầy đủ các chức năng của một chi nhánh thì ngoài ra
NHCTHK còn thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ như
một NHTM.
NHCTHK là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối phụ thuộc
vào NHCTVN, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở
tài khoản giao dich tại NHNN cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả
nước. Kể từ khi thành lập cho đến nay, NHCTHK đã và đang hoạt động trên
25

×