Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ KÌM HÃM HÀNH ĐỘNG KHAI BÁO SỰ THẬT CỦA BỊ CAN TRONG MỘT SỐ VỤ ÁN: "TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.49 KB, 45 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Khối lượng nghiên cứu
Chương 1.
NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ KÌM HÃM HÀNH ĐỘNG KHAI BÁO SỰ THẬT CỦA
BỊ CAN TRONG MỘT SỐ VỤ ÁN: "TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ.
1.1 Bị can có tâm trạng lo sợ bị xử lý nặng vì đã bị khởi tố về một tội xâm
phạm an ninh quốc gia là yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị
can
1.2. Bị can có tâm lý tin rằng điều tra viên chưa biết hết hành vi phạm tội của
chúng nên cố tình không khai báo về những vấn đề chúng cho là điều tra viên chưa
có tài liệu, chứng cứ.
1.3. Nỗi lo sợ hành vi phạm tội của mình sẽ liên luỵ đến người thân trong gia
đình và người thân khác là yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị
can.
1.4. Bị can tin tưởng vào việc đổ tội cho đồng bọn cùng tham gia các vụ án
đồng phạm thì trách nhiệm hình sự của họ sẽ giảm đi là yếu tố tâm lý kìm hãm hành
động khai báo sự thật của bị can trước cơ quan điều tra.
1.5. Bị can lo sợ đồng bọn sẽ trả thù là yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai
báo sự thật của bị can.
Chương 2
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ KÌM HÃM
HÀNH ĐỘNG KHAI BÁO SỰ THẬT CỦA BỊ CAN TRONG NHỮNG VỤ ÁN "TÀNG
TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ"
2.1. Phương pháp quan sát
2.1.1. Quan sát bị can trong quá trình bắt, khám xét, đối chất, nhận dạng
2.1.2. Quan sát trong quá trình hỏi cong
2.2. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm


2.2.1. Nghiên cứu lời khai của bị can
2.2.2. Nghiên cứu lời khai của người bị hại, người làm chứng, lời khai của bị
can khác
2.2.3. Nghiên cứu vật chứng thu được
2.3. Phương pháp nghiên cứu lai lịch, tiểu sử bị can
2.4. Phương pháp trò chuyện
Chương 3
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG TÂM LÝ TRONG HỎI CUNG BỊ CAN
PHẠM TỘI "TÀNG TRỮ, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ" DO ĐIỀU TRA VIÊN THUỘC CƠ
QUAN ANĐT - CATP HÀ NỘI TIẾN HÀNH TRONG QUÁ TRÌNH HỎI CUNG
3.1. Phương pháp phân tích thuyết phục
3.2. Phương pháp truyền đạt thông tin
3.3. Phương pháp hướng dẫn tư duy
3.4. Phương pháp tác động tình cảm
3.5. Phương pháp ám thị gián tiếp
KẾT LUẬN & ĐỀ XUẤT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO NGHIÊN CỨU:
Hỏi cung là một hoạt động điều tra hình sự, do điều tra viên tiến hành tác
động trực tiếp vào tâm lý bị can, với mục đích thu được lời khai đúng, đầy đủ sự thật
về vụ án và những tin tức cần thiết khác.
Dưới góc độ tâm lý học, hỏi cung bị can không chỉ là khôi phục trí nhớ, không
chỉ hướng dẫn cho bị can khai báo (khai đúng, khai hết) mà đây còn là cuộc đấu
tranh lý từ với lý trí. Việc bị can có khai báo hay không và khai báo như thế nào điều
đó phụ thuộc vào mối quan hệ giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan. Sự hình
thành lời khai là một quá trình phức tạp về mặt chủ quan có sự chi phối của nhận
thức, tình cảm, nhu cầu, lập trường, lý tưởng...
Về mặt khách quan, sự hình thành lời khai của bị can phụ thuộc vào nhiều
yếu tố trong đó sự tác động của điều tra viên là nhân tố trung tâm chủ đạo. Giải

quyết những vắn đề trên thực chất là quá anh tác động tâm lý của điều tra viên đối
với bị can, việc làm của điều tra viên nhằm động viên, khích lệ hoặc giải toả những
yếu tố tâm lý của bị can. Do bị khởi tố là bị can cho nên ở bị can đã xuất hiện những
yếu tố tâm lý mới, trong đó có nhiều yếu tố kìm hãm việc khai báo thành khẩn của bị
can. Vì vậy, việc cán bộ điều tra phát hiện ra những yếu tố tâm lý kìm hãm hành
động khai báo sự thật của bị can và vận đụng phương pháp tác động phù hợp sẽ có
tác động mạnh đến tư tưởng, nhận thức của bị can. Đồng thời, làm xuất hiện những
cảm xúc nhất định ở bị can từ đó bị can có sự chuyển đổi thái độ khai báo, góp phần
mang lại hiệu quả trong công tác hỏi cung bị can.
Thực tế cho thấy từ năm 1996 đến nay trên địa bàn thành phố Hà Nội, trưng
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước xảy ra nhiều vụ án "Tàng trữ, lưu hành
tiền giả” . Theo tổng kết của phòng ANĐT - CATP Hà Nội thì loại án này chiếm 35%
tổng số các vụ án xảy ra trên địa bàn thành phố do phòng ANĐT thụ lý điều tra.
Hành vi tàng trữ, lưu hành tiền giả đã gây ảnh hưởng.xấu đến sự quản lý của gà
nước trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, gây tâm lý lo ngại cho nhân dân. hơn nữa điều
này càng trở nên nguy hiểm khi nó phù hợp với âm mưu diễn biến hoà bình của các
thế lực đế quốc và bọn nhảu cách mạng trong lĩnh vực kinh tế.
Qua nghiên cứu hồ sơ một số vụ án, chúng tôi thấy cán bộ điều tra đế chú ý
đến việc phát hiện những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị
can và vận đụng có hiệu quả các phương pháp tác động tâm lý trong hỏi cung bị can
phạm trội "tàng trữ, lưu hành tiền giả". Việc này đã mang lại hiệu quả cao trong điều
lửa loại án trên. Song đây còn là vấn đề phức tạp cần phải được tổng kết thành
những kinh nghiệm chung.
Tên đề tài là " Những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của
bị can trong các vụ án tang trữ, lưu hành tiền giả ở Hà Nội và phương pháp tác động
tâm lý trong hỏi cùng loại bị can này ".
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can khi khai
cung. Những phương pháp tác động tâm lý trong hỏi cung bị can phạm tội tàng trữ,

lưu hành tiền giả
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu vấn đề trên qua khảo sát 25 bị can trong 10 vụ án: tàng
trữ, lưu hành tiền giả do cơ quan ANĐT - CATP Hà Nội thụ lý điều tra từ năm 1996
đến nay.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU..
Đề tài nhằm thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tìm hiểu những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can
phạm tội "Tàng trữ, lưu hành tiền giả" tại địa bàn Hà Nội.
- Tìm hiểu những phương pháp mà điều tra viên đã sử dụng để phát hiện ra
những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can phạm tội nói
trên.
Tìm hiểu những phương pháp tác động tâm lý mà điều tra viên thuộc cơ quan
ANĐT - CATP Hà Nội đã thực hiện trong quá trình hỏi cưng bị can, nhằm giải toả
những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can nói trên.
- Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá kết quả thu được sẽ nêu ra một
vài ý kiến đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..
Để thực hiện những nhiệm vụ trên chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ lài liệu.
Đây là phương pháp chính mà chúng tôi đã sử dụng trong quá trình nghiên
cứu đề tài. Chóng tôi lựa chọn, tập trung nghiên cứu hồ sơ 10 vụ án: "Tàng trữ, lưu
hành tiền giả” kể cả các vụ cơ quan ANĐT - CATP Hà Nội đang thụ lý điều tra. Đó là
những tài liệu phản ánh về quá rình phạm tội của bị can, những tài liệu có liên quan
đến nhân thân bị can, những tài liệu khác có trong vụ án. Ngoài ra chúng tôi còn
nghiên cứu những tài liệu liên quan đến vấn đề lý luận của đề tài nghiên cứu.
4.2. Phương pháp điều tra bằng Ankét.
Phương pháp diều tra bằng Ankét cũng là phương pháp chính được chúng tôi
sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Bằng cách sử dụng hệ thống câu hỏi về những

yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can được thể hiện trong
phiếu trưng cầu. Các phiếu trưng cầu được chúng tôi gửi đến từng điều tra viên đã
trực tiếp tham gia hỏi cung bị can. Bằng phương pháp này chúng tôi đã thu được
khối lượng tài liệu phong phú, có giá trị với những nội dung thường không thể hiện
trên bản cung. Điều đó rất cần thiết cho việc nghiên cứu của chúng tôi.
4.3. Phương pháp hội thảo, toạ đàm, trò chuyện.
Phương pháp này được chúng tôi tiến hành bằng cách hội thảo, toạ đàm, trò
chuyện trực tiếp với các đồng chí lãnh đạo phòng và các đồng chí điều tra viên trực
tiếp tham gia hỏi cung bị can. Mục đích thu thập những tri thức, những số liệu thông
tin phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
4.4. Phương pháp quan sát.
Chúng tôi trực tiếp tham gia hỏi cung bị can phạm tội "Tàng trữ, lưu hành tiền
giả", chúng tôi đã trực tiếp quan sát bị can trong hỏi cung. Thông qua đó chúng tôi có
thêm những hiểu biết thực tế về tâm lý bị can. Cũng từ đó điều tra viên cung cấp cho
chúng tôi những kinh nghiệm trong việc phát hiện ra những yếu tố tâm lý kìm hãm
hành động khai báo sự thật của bị can và cần sử dụng phương pháp tác động tâm lý
nào sao cho có hiệu quả nhất.
5. KHỐI LƯƠNG NGHIÊN CỨU.
Đề tài chúng tôi nghiên cứu gồm 51 trang đánh máy. Ngoài phần mở đầu,
phần kết luận và đề xuất, phần nội dung có 3 chương sau:
- Chương 1.: Những yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị
can phạm tội: “Tàng trữ, lưu hành tiền giả".
- Chương 2.: Những phương pháp phát hiện ra những yếu tố tâm lý kìm hãm
hành động khai báo sự thật của bị can phạm tội "Tàng trữ, lưu hành tiền giả".
Chương 3: Những phương pháp tác động tâm lý trong hỏi bị can phạm tội
"Tàng trữ, lưu hành tiền giả" do điều tra viên thuộc cơ quan ANĐT - CATP Hà Nội
tiến hành trong quá trình hỏi cung.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ KÌM HÃM HÀNH ĐỘNG KHAI BÁO SỰ

THẬT CỦA BỊ CAN TRONG MỘT SỐ VỤ ÁN: "TÀNG TRỮ, LƯU
HÀNH TIỀN GIẢ "
Các nhà tâm lý học khẳng định rằng tâm lý con người được hình thành, biểu
hiện trong hoạt động. Hành động khai báo hay không khai báo sự thật của bị can là
một hành động có ý chí. bởi vì bị can phải trải qua quá trình đấu tranh tư tưởng để đi
tôi quyết định và thực hiên quyết định khai báo hay không khả; báo. Những vấn đề
như: khai để làm gì, nếu không khai thì nhằm mục đích gì, khai như thế nào là có lợi,
không khai thì sẽ làm như thế nào...đã được bị can cân nhắc, tính toán. Trong quá
trình đấu tranh đó động cơ tâm lý nổi lên chi phối đến hành động khai bảo hay không
khai báo. Nếu như động cơ tích cực-thúc đẩy nổi lên thì nhanh chóng dẫn bị can tới
hành động khai báo. Còn như động cơ tiêu cực-kìm hãm nổi lên, thắng thế thì dân bị
can tới hành động khai báo không thành khẩn. Vấn đề đặt ra đối với cán bộ xét hỏi là
phải biết phân tích, phán đoán, nhận biết áo động cơ có thể chi phối hành động khai
báo của bị can để có phương pháp tác động phù hợp trong quá trình hỏi cung.
Qua khảo sát một số vụ án: "Tàng trữ, lưu hành tiền giả” do cơ quan ANĐT
-CATP Hà Nội thụ lý điều tra, chúng tôi thấy bị can phạm tội này trong điều kiện bị
khởi tố, bị bắt giam ở giai đoạn điều tra ban đầu đã xuất hiện một số yếu tố tâm lý đã
kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can trong quá trình khai cưng. Đó là:
1.1 Bị can có tâm trạng lo sợ xử lý nặng vì đã bị khởi tố về một tội xâm phạm
an ninh quốc gia là yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can.
An ninh quốc gia là sự yên ổn, ổn định của một nhà nước, một chế độ về mặt
đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh. Các tôi xâm phạm an ninh quốc gia là những tội xâm phạm đến an toàn đối nội,
đối ngoại của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tội tàng trữ, lưu hành tiền giả là tội
xâm phạm đến an ninh quốc gia được quy định tại điều 98 trong chương I- các tội
xâm phạm an ninh quốc gia - Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam. Tội phạm
này xâm hại đến những qui định về việc lưu hành tiền tệ của Nhà nước, làm ảnh
hưởng đến lĩnh vực tài chính tiền tệ của quốc gia. Khi bị khởi tố với tư cách là bị can
phạm tội tàng trữ, lưu hành tiền giả thì bị can rất lo sợ bị xử lý nặng vì chúng biết
chúng đã phạm tội trong mục các tội xâm hại an ninh quốc gia.

Qua khảo sát 25 bị can phạm tội: "Tàng trữ, lưu hành tiền giả” tại địa bàn Hà
Nội chúng tôi thấy 25/25 bị can chiếm 100% bị can đều có đặc điểm tâm lý này và
chính là yếu tố tâm lý đã kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can trước cơ
quan ANĐT.
SỞ đi bị can phạm tội: "Tàng trữ, lưu hành tiền giả" có yếu tố tâm lý trên bởi
vì qua khảo sát chúng tôi được biết hầu hết bị can đã nhận thức được việc làm của
mình là vi phạm pháp luật của Nhà nước, gây nguy hại cho sự lưu thông tiền tệ của
Nhà nước. Theo các nhà tâm lý học thì nhận thức giúp con người hiểu biết về thế
giới khách quan và là cơ sở định hướng cho hành động của con người. Thông
thường con người có nhận thức đúng thì đây là cơ sở để hành động đứng. Song để
dẫn tới hành động thì không chỉ có yếu tố nhận thức mà còn nhiều yếu tố khác tham
gia như nhu cầu, hứng thú, tình cảm, tinh thần trách nhiệm...Những bị can phạm tội:
"Tàng trữ lưu hành tiền giả” mà chúng tôi đã khảo sát có tới 88% bị can đã nhận
thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Ví dụ bị can Nguyễn Tiến Trung
trong vụ án Nguyễn Tiến Trung cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả khai nhận:
"Tôi đã suy nghĩ nhiều và rất ân hận về hành động của tội. Việc làm của tội là vi
phạm pháp luật, vì túng thiếu, tham tiền mà phạm tội”. (Biên bản hỏi cung ngày 13 -
12 - I 9 96).
Số bị can mà chúng tôi khảo sát nói trên không những đã nhận thức được
việc làm của mình là vi phạm pháp luật mà họ còn biết rõ đã phạm vào tội xâm phạm
an ninh quốc gia, các tội mà khách thể bị xâm hại liên quan đến an ninh quốc gia, sự
vững mạnh của chế độ, của đất nước như trường hợp bị can Nguyễn Đức Thuận
trong vụ án Nguyễn Thị Chuyền cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả. Bị can
Thuận am hiểu pháp luật và từng làm công an nên y rất sợ bị xử với tội danh tàng
trữ, lưu hành tiền giả.
Như vậy 88% số bị can phạm tội "Tàng trữ, lưu hành tiền giả” mà chúng tôi đã
khảo sát thú nhận bản thân mình đã biết hành vi của mình vi phạm pháp luật, xâm
phạm đến lĩnh vực an ninh quốc giáo Đây là trường hợp nhận thức đúng, song điều
mà bị can nhận thức được đã không đủ sức mạnh để dẫn họ đến hành động đúng.
Trong những trường hợp này chúng tôi thấy nhu cầu cần có tiền để sinh sống hơn

thế nữa là vì lòng tham, hám lợi đã trở thành động cơ mạnh mẽ thúc đẩy hành vi
"Tàng trữ, lưu hành tiền giả” của họ. Nhu cầu cần có tiền để sinh sống thì ai cũng có
song ở đây các bị can nói trên đã thực hiện hành vi "Tàng trữ, lưu hành tiền giả”, một
hành vi vi phạm pháp luật của Nhà nước làm phương thức thoả mãn nhu cầu của
mình. Họ thuộc vào trường hợp nhận thức đúng song hành động lại sai.
Nhận thức của bị can biết mình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật song họ
vân cứ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật này. Như trường hợp bị can Nguyễn Thị
Chuyền vì hám lợi, vì gia đình khó khăn không có tiền nên bị can Chuyền đã đi vay
tiền thật 20.000.000Đ của Lê Thị Khu Lanh để đổi lấy tiền giả với tỷ lệ 10/14. Tại bản
cung ngày 29-10-1998 bị can Chuyền khai: "Khi mua tiền giả về để tiêu thụ tôi biết
việc làm này là vi phạm pháp luật của Nhà nước. Những gia đình tôi quá nghèo và
số tượng tiền đổi được lớn nên tôi cố làm để kiếm tiền nuôi chồng con".
Với 88% số bị can nhận thức được việc làm của họ là vi phạm pháp luật, sau
khi được cán bộ điều tra phân tích hành vi của họ đã xâm phạm an ninh quốc gia thì
tất cả các bị can đều có tâm trạng sợ bị xử lý nặng. Nỗi lo sợ này là yếu tố tâm lý
kiên hãm hành động khai báo sự thật của bị can. Bị can nghĩ rằng nếu mình thành
khẩn khai báo sự thật về hành vi phạm tội của mình và đồng bọn thì cơ quan điều tra
sẽ nhanh chóng kết luận họ có tội và như vậy sẽ bị đi tù, bị phạt giam, gia đình bị tan
nát, sau này không có cơ hội làm ăn nữa. hình yếu tố đó thúc đẩy bị can tới chỗ khai
báo quanh co, nhỏ giọt, khai báo sai hoặc đổ tội cho yếu tố khách quan khác.
Trong thực tế, một số bị can khai nhận rằng chúng không biết hành vi của
chúng là vi phạm pháp luật của Nhà nước. Đó chẳng qua chỉ là sự nguy biện cho
bản thân mà thôi, là thủ đoạn trốn tránh trách nhiệm như trường hợp bị can Nguyễn
Văn Cường trong vụ án Nguyễn Văn Cường tàng trữ, lưu hành hai tờ đô la giả loại
10ọ USD. Cường khai nhận: "Tôi nhặt được 02 tờ đô la loại 100 USD, tôi không biết
là tiền giả và không biết nành đã lưu hành đền gia . (Bản cung ngày 13-01-1998).
Cũng do tâm trạng sợ tội nặng ở một số bị can có hành vi kiên quyết không
chịu khai báo đến cùng, chẳng hạn bị can Nguyễn Thị Thắng tàng trữ lưu hành
2.000.000Đ tiền giả loại 20.000Đ. Hoặc bị can Đặng Hữu Hưng tàng trữ, lưu hành 04
tờ tiền giả loại 50.000 đ. Nhưng qua quá trình điều tra, thu thập chứng cứ chứng

minh lỗi cố ý biết là tiền giả vẫn lưu hành buộc chúng phải thừa nhận tội lỗi. Đối với
bị can khác trong quá trình hỏi cung điều tra viên sử dụng những phương pháp tác
động tâm lý kết hợp với các chiến thuật hỏi cung, cuối cùng các bị can phải khai báo
về hành vi phạm tội của chúng.
Qua khảo sát chứng tôi thấy có 7/25 bị can chiếm 28% số bị can đã có tiền án
tiền sự hoặc đã có hành vi bị xử lý hành chính trước đó. Với số bị can này thì tâm
trạng lo sợ bị xử lý nặng càng tăng lên, điều đó đã kìm hãm rất nhiều việc khai báo
thành khẩn của bị can. Ví dụ bị can Vương Song Tú, Bùi Mạnh Hùng, Bùi Văn Hoà
trong vụ Vương Thanh Thuỷ tàng trữ, lưu hành tiền giả... Nhưng không có trường
hợp nào đã từng bị xử lý về tội "Tàng trữ, lưu hành tiền giả". Chúng nghĩ rằng nếu bị
kết tội lần này sẽ bị xử lý nặng hơn. Hoặc như bị can Nguyễn Đức Thuận trong vụ
Nguyễn Thị Chuyền cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả. Thuận là người đã
từng phục vụ trong ngành công an, trong vụ án Thuận lại là khâu then chết, là đầu
mối của các bị can khác do đó Thuận rất sợ tội nặng.
Tóm lai:. Nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật và hiểu biết
được sự trừng phạt của pháp luật đối với hành vi phạm tội này đã làm cho một số bị
can mà chúng tôi khảo sát có tâm trạng lo sợ bị xử lý nặng. Điều đó là yếu tố tâm lý
nổi bật nhất ở các bị can phạm tội: "Tàng trữ lưu hành tiền giả” mà chứng tôi đã
khảo sát, nghiên cứu đã kìm hãm hành động khai báo sự thật của bị can khi khai
cung.
1.2. Bị can có tâm lý tin rằng điều tra viên chưa biết hết về hành vi phạm tội
của chúng nên cố tình không khai báo về những vấn đề mà chúng cho rằng điều tra
viên chưa có tài liệu chứng cứ.
Hỏi cung là một hoạt động giao tiếp đặc biệt giữa điều tra viên và bị can Mục
đích của hỏi cung nhằm khai thác từ bị can những thông tin để làm rõ sự thật vụ án,
chứng minh tội phạm. Về phía bị can luôn hiểu rằng những thông tin mà họ khai báo
liên quan chặt chẽ đến trách nhiệm hình sự mà họ phải gánh chịu. Vì vậy trong đa số
các trường hợp họ thờ ơ, né tránh hoặc chấp nhận giao tiếp. Song mọi nỗ lực tâm lý
của bị can lại hướng vào việc tìm hiểu tiến trình điều tra, về sự hiểu biết của cán bộ
điều tra và cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của mình, do đó trong quá trình giao

tiếp này, bị can thu thập thông tin về sự hiểu biết của cơ quan điều tra và của điều
tra viên. Khi tiến hành hoạt động tàng trữ, lưu hành tiền giả bị can đã có sự tính toán
trước nhằm che dấu hành vi phạm tột của nính. Vì lẽ đó chúng có tâm lý tin rằng
điều tra viên chưa biết hết hoặc không thể biết hết về hành vi phạm tội của chúng.
Qua nghiên cứu 25 bị can trong 10 vụ án: "Tàng trữ, lưu hành tiền giả” có
18/25 bị can chiếm 72% số bị can có đặc điểm tâm lý này. Bị can phạm tội trên đều ý
thức được rằng càng che dấu được bao nhiêu thì trách nhiệm hình sự của chúng
càng giảm. Vậy chúng thường che dấu vấn đề gì? Đây là câu hỏi khá phức tạp đòi
hỏi điều tra viên tìm lời giải đáp.
Nghiên cứu 25 bị can phạm tội: "Tàng trữ, lưu hành tiền giả" chúng tôi thấy
điều cất lõi là điều tra viên chứng minh được ý thức chủ quan tức ý thức của bị can
khi tàng trữ, lưu hành tiền giả qua hành vi khách quan bộc lộ ra hành vi bên ngoài
của chứng. Thủ đoạn hoạt động của bị can tinh vi, đa dạng, chúng tìm mọi cách để
trốn tránh các cơ quan chức năng: Chúng tiêu thụ tiền giả vào lúc trời tối, đem đi tiêu
thụ nhiều lần, đổi tiền giả có mệnh giá lớn lấy tiền thật, trong khoảng thời gian nhanh
chóng, chớp nhoáng. Như trường hợp bị can Vương Thanh Thuỷ sau ba lần đổi tiền
giả 50.000Đ lấy tiền thật đến lần thứ ba vào lúc 17h khi đang mua lạc sườn thì bị
bắt. Bị can Phạm Thị Thắng dùng tờ 20.000Đ tiền giả mua bánh trị giá 2.500đ vào
lúc 18h ngày 11 -3 - 1999 của một bà cụ bán hàng ở phủ Tây Hồ thì bị phát hiện...
Chúng lợi dụng chỗ quen biết, lợi dụng lòng tin để tiêu thụ tiền giả bằng cách
kẹp lẫn tiền giả với tiền thật. Như trường hợp bị can Lê Thị Khu Lanh nhiều lấn kẹp
tiền giả loại 50.000Đ lẫn tiền thật trả cho người bán vật liệu xây dựng, bán thực
phẩm và họ đều là chỗ quen biết của bị can Lanh.
Với những thủ đoạn hoạt động khác trong các vụ án đồng phạm có tổ chức
chặt chẽ thì sự tinh vi. xảo quyệt bộc lộ càng rõ nét. Như vụ án Vương Thanh Thuỷ
cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả với số lượng lớn 84 triệu tiền giả, hoặc
trong vụ Nguyền Thị Chuyền cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả. giữa các đối
tượng trong vụ án được tổ chức chặt chẽ từ khâu đổi tiền thật lấy tiền giả rồi đi phân
phát và lưu hành. Trong vụ án này: nguồn tiền giả từ Đào Gia Ngư qua. người trưng
gian đưa mẫu tiền giả 5.000 đ cho Thuận, Thuận đưa tiền cho Chuyền, Chuyền đưa

cho Lanh xem tờ mẫu thấy đạt tiêu chuẩn Lanh mới nhận đổi tiền thật lấy tiền giả.
Cách thức chuyển giao tiền rất tinh vi: Thuận đưa cho Chuyền 30 triệu tiền giả tại
nhà mẹ vợ Thuận số 19 ngõ Tô Tiền- Khâm Thiên- Hà Nội. Chúng để tiền vào hộp
cát tông hòng che dấu sự chú ý của người ngoài. Để đảm bảo an toàn đợi đến lúc
trời tối chúng vận chuyển tiền giả bằng xe ôm đến nhà Chuyền và theo kế hoạch tại
đây mẹ con Lê Thị Khu Lanh đã chờ sẵn...
Với những thủ đoạn hoạt động tinh vi, những mánh khoé trốn tránh sự phát
hiện của cơ quan chức năng đây c inh là cơ sơ để bị can tin rằng cơ quan điều tra
chưa biết hết hoặc không thể biết hết về hành vi phạm tội của chúng. Việc chúng bị
bắt chỉ chứng minh lần cuối cùng chứng phạm tội, còn quá trình chúng phạm tội như
thế nào, bao nhiêu lần, số lượng bao nhiêu... thì phải qua quá trình điều tra mới làm
rõ được. Chính sự tin tưởng này chúng chỉ khai báo những gì bị can cho rằng cơ
quan điều tra đã biết.
Còn chúng củng cố cương quyết không khai báo những gì mà chúng cho rằng
cơ quan điều tra không có tài liệu chứng cứ.
Thủ đoạn là như vậy còn bị can che dấu những gì? Qua nghiên cứu chúng tôi
thấy bị can thường che dấu những vấn đề cơ bản sau:
- Chúng che dấu nguồn tiền giả, chúng không chịu khai báo nguồn gốc số
tiền giả do đâu mà có, chúng khai quanh co, gian dối gây khó khăn cho việc truy xét
nguồn tiền. Có tới 18/25 bị can chiếm 72% số bị can không khai rõ nguồn tiền, còn
28% khai báo nguồn tiền do bạn bè, người nhà cung cấp.
Bị can che dấu không khai báo số lượng tiền giả đã tiêu thụ hoặc còn cất giấu,
không khai báo về đồng bọn trong các vụ án đồng phạm như trường hợp: Nguyền
Thị Chuyền, Trương Trọng Phương không chịu khai báo về số tiền giả chúng đã tiêu
thụ hoặc còn cất giấu vì sợ tội nặng và tin vào việc cơ quan điều tra không thể biết
chúng cất giấu ở đâu. Khi khai cung cả hai bị can đều khai chúng đã huỷ số tiền giả
khi không tiêu thụ được Che dấu đồng bọn như trường hợp bị can Nguyễn Thị Cúc
không khai Phan Văn Tuynh là đồng bọn trong vụ án V167/97. Bị can Cúc vừa khai
về nguồn gốc số tiền giả là do bán ngô mà thực chất không phải như vậy, vừa che
dấu cho Tuynh là con rể của Cúc.

Bị can che dấu số lần lưu hành tiền giả vì chúng nghĩ rằng việc chúng tiêu thụ
ở đâu, như thế nào cơ quan điều tra không thể biết được và nếu có biết chỉ biết lần
cuối cùng khi chúng bị bắt. Như trường hợp bị can Trần Thị Hương trong vụ Trần Thị
Hương tàng trữ, lưu hành tiền giả loại 20.000Đ và 50.000Đ. Hương chỉ khai nhận 02
lần lưu hành tiền giả ở Hà Nội, không khai nhận 04 lần bị can đã lưu hành tại quê
Anh sơn- Nghệ an...
Bị can không chỉ tin vào thủ đoạn tàng hờ, lưu hành tiền giả để không khai
nhận về hành vi phạm tội của chóng. Trong quá trình khai báo, chúng còn quan sát,
nhận xét về thái độ, cách đặt câu hỏi và biểu hiện khác của điều tra viên để phán
đoán tình hình và điều chỉnh thái độ khai báo.
Niên bị can nhận thức được rằng tiến trình điều tra đang gặp khó khăn, cơ
quan điều tra chưa có chứng cứ đầy đủ thì bị can có thái độ quanh co, khai báo nhỏ
giọt. Như trường hợp bị can Nguyễn Đức Thuận trong vụ án Nguyễn Thị Chuyền
cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả, do từng là công an, am hiểu pháp luật nên
ngay từ đầu Thuận tỏ ra ngoan cố. Y nhận định rằng chứng cứ về hành vi phạm tội
của y còn "non". Thực tế đúng như vậy Song sau quá trình điều tra thu thập tài liệu,
chứng cứ và tiến hành tác động tâm lý buộc y phải thừa nhận tội lỗi.
Tóm lai: qua khảo sát chúng tôi thấy 18/25 bị can chiếm 72% số bị can phạm
tội "Tàng trữ, lưu hành tiền giả”có tâm lý tin rằng cơ quan điều tra chưa biết hết về
hành vi phạm tội của chúng nên không chịu khai báo thành khẩn. Nhưng với những
chứng cứ phạm tội quả tang và qua quá trình điều tra thu thập các tài liệu, chứng cứ
khác, cán bộ điều tra đã chứng minh làm rõ hành vi tàng trữ, lưu hành tiền giả của bị
can là có ý thức, có chủ đích từ đó buộc bị can phải thừa nhận tội lỗi.
1.3. Nỗi lo sợ hành vi phạm tội của mình sẽ liên luỵ đến người khác trong gia
đình và người thân khác là yếu tố tâm lý kìm hâm hành động khai báo sự thật của bị
can.
Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình được tạo nên từ các thành viên.
Mối quan hệ giữa thành viên trong gia đình với các thành viên khác trong xã hội tạo
nên mối quan hệ họ hàng, làng xã, cộng đồng...không có cá nhân nào tách bạch
trong mối quan hệ đó, vì vậy mỗi hành vi của cá nhân dù tích cực hoặc tiêu cực đều

có ảnh hưởng sâu sắc hoặc mờ nhạt tuỳ thuộc vào mối quan hệ ràng buộc của con
người. Điều này đã được khoa học và thực tế chứng minh, nó phủ nhận quan điểm
của chủ nghĩa duy tâm, thần học cho rằng con người là sản phẩm của đấng vô hình,
siêu nhiên nào đó.
Trên quan điểm duy vật biện chứng xét trong mối quan hệ giữa cái chung với
cái riêng, cá nhân với cộng đồng cho thấy tính tất yếu của việc bị can phạm tội:
"Tàng trữ, lưu hành tiền giả” sẽ có nỗi lo sợ hành vi phạm tội của họ liên luỵ đến
người thân trong gia đình và người thân khác. Bị can sợ việc khai nhận sự thật, thừa
nhận tội lỗi thì cha, mẹ, anh em, vợ con và gia đình họ sẽ bị xung quanh tính rẻ, sợ
bị chê cười. Họ sợ liên luỵ đến họ hàng, bạn bè vì thông thường những người thân
của bị can biết hoặc có liên quan đến hành vi phạm tội của bị can. Thậm chí ở một
số bị can khi bị bắt, bị khởi tố mới tỏ ra ân hận về hành vi rủ rê, lừa cả người thân
cùng tham giạ là đồng phạm.
Qua nghiên cứu, khảo sát 10 vụ án: "Tàng trữ, lưu hành tiền giả do cơ quan
ANĐT - CATP Hà Nội thụ lý điều tra từ năm 1996 đến nay có 4/10 vụ án có đồng
phạm với số bị can 19/25 chiếm 76% tổng số bị can có người nhà hoặc người thân
của bị can cùng tham gia phạm tội. Như vụ Vương Thanh Thuỷ tàng trữ, lưu hành
tiền giả, cả bọn chị em gái của Thuỷ cùng phạm tội: Vương Thanh Hằng, Vương
Song Tú, Vương Thu Hiền. Cùng trong vụ án này có Trương Trọng Tống là cậu ruột
của Thuỷ, Trương Trọng Phương là con trai của Trương Trọng Tống và Bùi Mạnh
Hùng, Bùi Văn Hoà là anh chồng cũ của Hằng và là anh ruột của Hùng.Tổng số tiền
giả Hừng đưa cho 7 người cả người nhà và người quen tiêu thụ 84.800.000Đ.
Công tác đấu tranh lấy lời khai của Thuỷ lúc đầu rất khó khăn vì Thuỷ là người
bị bắt đầu tiên. Bị can Thuỷ bị hàng rào tâm lý cản trở khai báo vì nếu Thuỷ khai báo
thi toàn bộ 7 người của nhà Thuỷ đều bị bắt. Quá trình khai cung của Thuỷ nhiều lần
xin khai lại, thay đổi nội dung lời khai, thái độ ngoan cố, quanh co.
Trường hợp khác trong vụ án Nguyễn Thị Cúc và Phan Văn Tuynh tàng trữ,
lưu hành tiền giả. Bị can Cúc lúc đầu tỏ ra ngoan cố không chịu khai nhận hành vi
phạm tội của mình và khai gian dối. Các bản cung bị can Cúc khai mâu thuẫn nhau
dựa vào đó điều tra viên phân tích vạch mâu thuẫn buộc bị can Cúc phải khai nhận

là:" Tôi thừa nhận là tôi đã có hành vi vi phạm pháp luật của Nhà nước là tàng trữ,
lưu hành tiền giả loại giấy bạc 50.000đ. Tôi phạm tội thì tôi chịu trách nhiệm trước
pháp luật, chứ tôi không muốn vì tôi mà liên luỵ đến các con rể của tội. Bởi tôi nghĩ
tôi không đẻ ra chúng nên tôi không có quyền làm chúng khổ, bị liên quan đến pháp
luật .
Trong số bị can phạm tội:"Tàng trữ, lưu hành tiền giả” trong 10 vụ án có 16/25
bị can chiếm 64% số bị can làm chủ gia đình. Nếu họ bị ngồi tù thì chồng, vợ, con họ
sẽ khổ và trong số bị can này phần lớn đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Hơn nữa
bị can sẽ để lại ấn tượng xấu, gây mặc cảm cho người thân của họ. hình vì lẽ đó mà
bị can không chịu khai báo sự thật về hành vi phạm tội của họ và đồng bọn, nếu có
thì chỉ khai những gì có lợi cho bị can để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tóm lai: kết quả khảo sát 25 bị can trong 10 vụ án: "Tàng trữ, lưu hành tiền
giả” chúng tôi thấy dù là chủ gia đình hay không, các bị can đều có "nỗi lo sợ hành vi
phạm tội của họ sẽ liên luỵ đến người thân trong gia đình và người thân khác". Xem
xét khách quan toàn diện ở góc độ này ta thấy đây là yếu tố tâm lý kiên hãm hành
động khai báo sự thật của bị can.
Ở góc độ khác, đây lại là biểu hiện tình cảm của bị can với người thân,ruột thịt
của mình, tức là ở họ còn có lương tri, tình cảm và đây chính là điểm để điều tra viên
tiến hành tác động tình cảm gây dựng, làm thức tình ở bị can những tình cảm tốt đẹp
dẫn tới sự thay đổi thái độ khai báo của bị can.
1.4. Bị can tin tưởng vào việc đổ tội cho đồng bọn cùng tham gia trong các vụ
án đồng phạm thì trách nhiệm hình sự của chúng sẽ giảm đi là yếu tố tâm lý kìm
hãm hành động khai báo sự thật của bị can trước cơ quan điều tra.
Bị can phạm tội: “tàng trữ, lưu hành tiền giả” nói riêng và bị can trong các vụ
án xâm phạm an ninh quốc gia nói chung ở các vụ án đồng phạm thường có tâm lý
này. Sở dĩ bị can đổ tội cho đồng bọn vì chúng lo lắng cho chính bản thân và nghĩ
rằng nếu đổ tội cho đồng bọn thì trách nhiệm hình sự của bị can sẽ giảm nhẹ. Một
đặc điểm tâm lý của bị can trong các vụ án đồng phạm là chúng yên tâm trong quá
trình thực hiện hành vi phạm tội vì mỗi tên đảm đương một phần còng việc. Hoặc
chứng tin rằng nếu có bại lộ thì tất cả đều phải chịu tội chứ đâu có riêng một cá nhân

nào.
Ngược lại, nhược điểm của tâm lý "tập thể cùng chịu là do xuất phát từ những
hoàn cảnh khác nhau, động cơ phạm tội khác nhau, giữa các bị can khi khai cung
bộc lộ những nhược điểm và mâu thuẫn từ đó điều tra viên khai thác, tấn công chia
rẽ ý tưởng ngoan cố đến cùng của chúng.
Yếu tố tâm lý "tin tưởng vào việc đổ tội cho đồng bọn cùng tham gia vào các
vụ án đồng phạm" trong loại án "Tàng trữ, lưu hành tiền giả” tưởng chừng mâu thuẫn
với yếu tố tâm lý sợ liên luỵ đến người thân, bao che cho đồng bọn " nhưng không
phải như vậy. Do sợ tội nặng, do động cơ phạm tội khác nhau, do được cán bộ điều
tra tác động tâm lý buộc bị can suy nghĩ về bản thân từ đó khai báo về đồng bọn.
Nghiên cứu 4 vụ án đồng phạm với 19 bị can chứng tôi thấy có 14/19 bị can chiếm
72% số bị can có tâm lý này.
Bị can thường đổ tội cho đồng bọn dưới các dạng sau:
Bị can cho rằng mình phạm tội do bị lôi kéo, rủ rê. Trường hợp này có 9/14 bị
can chiếm 64%. Điều đó thể hiện ro nét đặc điểm loại án tiền giả. Các bị can có quan
hệ gia đình hoặc quen biết vì hám lợi, tham tiền và sợ bị bại lộ nên chúng thường rủ
rê, lôi kéo người nhà cùng tham gia với ý nghĩ "được cùng nhung". Như trường hợp
bị can Vương Thanh Hằng rủ rê lôi kéo ba người em gái của mình cùng tàng trữ, lưu
hành tiền giả với thoả thuận Hằng đưa tiền giả chỉ thu về một nửa là tiền thật. Hoặc
như trường hợp Nguyễn Thị Chuyền, Lê Thị Kiến Lanh trong vụ án Nguyễn Thị
Chuyền cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả. Để trốn tránh trách nhiệm Lanh
đổ tội cho Chuyền là rủ rê, lôi kéo Lanh phạm tội. Nếu không có Chuyền dưa ra tờ
5.000Đ giả giống như thật thì Lanh đâu có ý đồ mua tiền giả với số lượng lớn để lưu
hành. Còn Chuyền lại đổ tội cho Nguyễn Đức Thuận, vì có Thuận Chuyền mới biết
tiền giả và tin theo lời Thuận rằng tiền in như thật thì sợ gì bị phát hiện. Hơn nữa vì
kinh tế, vì lòng tham Chuyền chấp nhận đổi tiền thật lấy tiền giả để lưu hành với tỷ lệ
10/14.
Bị can cho rằng mình phạm tội do quá tự tin vào đồng bọn vì đồng bọn là chỗ
quen biết, là người thân trong gia đình. Trường hợp này có 5/14 bị can chiếm 36%.
Như trường hợp bị can Trương Trọng Tống trong vụ án Vương Thanh Thuỷ cùng

đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả. Bị can Tống không chịu khai báo, không thừa
nhận việc y tiêu tiền giả của cháu Vương Thanh Hằng số tiền giả 500.000Đ loại
50.000Đ. Bị can Tống khai rằng:" do ấn cháu nên không kiểm tra số tiền Hằng trả nợ
. Thực tế đây là số tiền giả mà Hằng đã đưa cho Tống để tiêu thụ và Hằng còn
hướng dẫn cho Tống biết cách tiêu thụ tiền giả sao cho không bị phát hiện.
Bị can trốn tránh trách nhiệm bằng cách chỉ khai nhận mình là một khâu trưng
gian chứ không phải là một mắt xích c lính trong đường dây tàng trữ, lưu hành tiền
giả. Như bị can Trần Thị Kim Cương và Nguyễn Đức Thuận trong vụ án Nguyễn Thị
Chuyền cùng đồng bọn tàng trữ, lưu hành tiền giả. Cả hai bị can đều khai nhận là
khâu trưng gian, môi giới chứ không rực tiếp tham gia.
Như vậy, bị can tin tưởng vào việc đổ tội cho đồng bọn để trốn tránh trách
nhiệm hình sự không phải có ở tất cả các bị can trong vụ án "Tàng trữ, lưu hành tiền
giả” có đồng phạm. Song tý lệ bị can có tâm lý này khá cao 14/19 bị can chiếm 72%
và yếu tố tâm lý này được biểu hiện ở ba dạng khác nhau như trên chúng tôi đã trình
bày. Điều đó gây khó khăn cho cán bộ điều tra nhưng không phải không có cách giả
quyết. Trong tính hai mặt của một vấn đề: bị can càng khai báo, đổ tội cho đồng bọn,
thì cơ quan điều tra càng thu thập được nhiều tài liệu, chứng cứ về đồng bọn của bị
can.
Do tính liên quan của tội phạm, chứng cứ phạm tội của bị can khác sẽ là
chứng cứ buộc tội bị can có thái độ khai báo gian dối, che dấu tội lôi của luật
Xuất hiện tâm lý trên chứng tỏ bản năng cá nhân cái "tôi" hẹp hòi ở bị can trỗi
dậy. Điều đó tạo điều kiện cho cán bộ điều tra tác động tâm lý, qua hướng dẫn, giải
thích chính sách khoan hồng của pháp luật để bị can khai báo về đồng bọn. Còn việc
chúng khai hay không khai về hành vi phạm tội của chúng sau khi củng cố chứng cứ
ta sẽ có biện pháp dấu tranh.
1.5. Bị can lo sợ đồng bọn sẽ trả thù là yếu tố tâm lý kìm hãm hành động khai
báo sự thật của bị can.
Một trong những nguyên nhân tâm lý cản trở sự khai báo của bị can là bị can
sợ nếu khai ra sự thật sẽ bị đồng bọn trả thù, xử phạt. Tâm lý sợ đồng bọn trả thù
thường xẩy ra trong các vụ án đồng phạm. Trong quá trình hình thành của các nhóm

tội phạm chúng có qui ước, luật lệ riêng hễ kẻ nào phản bội sẽ bị trừng trị theo luật
rừng... Bị can nghĩ rằng nếu mình thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản
thân và đồng bọn thì chính bản thân, hoặc người nhà đang sống ở ngoài xã hội sẽ bị
đồng bọn trả thù hoặc người nhà chúng trả thù. Hơn nữa sau này ra tù không cố cơ
sở để tiếp tục làm ăn
Với loại án: tàng trữ, lữ hành tiền giả" trên địa bàn Hà Nội từ năm 1996 đến
nay cho thấy bị can có tâm lý sợ đồng bọn trả thù tuy không nhiều nhưng lại xẩy ra ở
những bị can có vị trí quan trọng đóng vai trò điểm nút của vụ án. Như trường hợp bị
can Nguyễn Đức Thuận trong vụ án Nguyễn Thị Chuyền tàng trữ, lưu hành tiền giả
(AK430/98). Thuận là khâu chính yếu, y chuyển tiền giả 5.000Đ cho Chuyền. Nhưng
ngày đi cưng đầu y tỏ ra lì lợm, ngang bướng, thách thức cơ quan diều tra. Qua quá
trình tìm hiểu ta biết Thuận không giám khai vì sợ liên luỵ đến vợ con, sợ bị đồng
bọn trả thù. Trong bản cung ngày 30/10/1998 Thuận khai: "Trước đáy tôi không khai
là vì những người liên quan là người trong gia đình tôi, anh Toàn, anh Ngư là người
nhà của chị dâu tôi và tôi cũng sợ bị trả thù nên không khai báo ". Qua trao đổi với
cán bộ điều tra vụ án trực tiếp hỏi cung bị can Thuận chúng tôi dược biết đúng như
Thuận đã khai, sự sợ hãi của y là có cơ sở. Đó là việc y có liên quan đến đường dây
buôn lậu ma tuý từ Trưng Quốc có cả Đào Gia Ngư là đồng bọn cùng tham gia.
Ở hình thái khác giữa các đối tượng trong cùng vụ án còn thể hiện sự đe doạ
lẫn nhau khiên người bị đe doạ suy nghĩ, trăn trở. Như trường hợp Nguyễn Thị
Chuyền khi đưa tiền giả để lấy tiền thật của mẹ con Lanh và Cương, Cương đe doạ
Chuyền: nhà tôi có nhiều công an lắm nếu chị làm ăn không đúng đắn thì cứ liệu...".
Thực chất Cương và Lanh có quen biết ai đâu.
Cách giải quyết yếu tố tâm lý sợ đồng bọn trả thù khá phức tạp, ngoài hướng
dẫn cho bị can khai báo thành khẩn cán bộ điều tra cần gây được sự tin tưởng của
bị can với điều tra viên, với Nhà nước và pháp luật theo hướng "Pháp luật trừng trị
kẻ có tội, khoan hồng với ai biết lập công chuộc tội"
Tóm lai: sau khi nghiên cứu khảo sát chúng tôi thấy năm yếu tố tâm lý đã trình
bày ở trên là năm yếu tố tâm lý phổ biến của loại bị can phạm tội: "Tàng trữ, lưu
hành tiền giả” đã kìm hãm hành động khai báo sự thật của chúng. Tuy nhiên không

phải bị can nào cũng thể hiện đầy đủ cả năm yếu tố tâm lý đó mà trong từng hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể sẽ có một, hai... yếu tố tâm lý nổi bật kìm hãm hành động khai
báo sự thật của bị can. Việc nắm bắt, phát hiện ra đâu là yếu tố tâm lý kiên hãm
hành động khai báo sự thật của bị can có ý nghĩa rất quan trọng trong hỏi cung bị
can.

×