Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Tổng hợp và phân tích tình hình báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại trung tâm ADR phía bắc từ 7 2006 đến 12 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 53 trang )

B ộ YTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
:ỉc >Ịí * ?ỉc>ỉ< íỉí íỊí
Lưu THỊ TỐ NGA
TỎNG HỢP VÀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH BÁO CÁO
PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUÓC (ADR) TẠI TRUNG TÂM
ADR PHÍA BẮC TỪ 7/2006 ĐẾN 12/2007
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Dược sĩ KHOÁ 2003 - 2008
- Người hướng dẫn: ThS. Bùi Đức Lập
DS. Nguyễn Tứ Sơn
- Nơi thực hiện: Trung tâm ADR phía bắc
- Thời gian thực hiện: 2/2008 - 5/2008
Ị ị i i m ■
/7/cf.
HÀ NỘI, THÁNG 5, 2008
LỜI CẢM ƠN
Với tất cả sự kính trọng, em xỉn gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới:
ThS Bùi Đức Lập
DS Nguyễn Tứ Sơn
là những người thầy đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo cho em những bài học quí
giá không chỉ trong nghiên cứu khoa học mà cả trong cuộc sổng.
Em xin gửi lời cảm ơn đến ThS Phạm Thị Thuỷ Vân đã cố những ỷ kiến
góp ỷ quý báu trong quá trĩnh em hoàn thành khoá luận.
Em xỉn trân trọng cảm ơn:
- Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, các thầy, cô trong bộ môn Dược lâm
sàng trường Đại học Dược Hà Nội.
- Lãnh đạo Cục, các cô chú, anh chị phòng thông tin quảng cáo, Cục
quản lý Dược
đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện
đề tài.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình và bạn bè, những người


luôn quan tâm và khuyển khích em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2008
Sinh viên
Lim Thị Tổ Nga
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN Đ È 1
PHẦN 1 TỎNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Phản ứng có hại của thuốc 3
1.1.1 Định nghĩa 3
1.1.2 Tình hình ADR 4
1.2 Theo dõi và báo cáo phản ứng có hại của thuốc

6
1.2.1 Sự cần thiết phải theo dõi và báo cáo phản ứng có hại của thuốc 6
1.2.2 Mục đích 7
1.2.3 Tình hình theo dõi và báo cáo ADR

8
1.2.4 Hệ thống báo cáo ADR 11
1.2.5 Phản ứng có hại (hoặc nghi ngờ là phản ứng có hại) của thuốc cần
được báo cáo 13
1.2.6 Quá trình thu thập, tiếp nhận và xử lý báo cáo 14
1.2.7 Chất lượng báo cáo phản ứng có hại 16
PHẢN 2 ĐỐI TƯỌTVG v à p h ư ơ n g p h á p n g h iê n c ứ u

18
2.1 Đối tượng nghiên cứ u
18
2.2 Phương pháp nghiêii cứu

___
__
____
_
___
_____
__
_
___ ___
_
____
-18
2.3 Chỉ tiêu nghiên cứu

18
2.3.1 Tổng hợp thông tin từ báo cáo A DR 18
2.3.2 Phân tích sơ bộ chất lượng báo cáo 18
2.4 Phương pháp xử lý số liệu 19
PHẦN 3 KẾT QUẢ NGHIÊN c ứ u VÀ BÀN LUẬN
20
3.1 Tổng hợp báo cáo ADR 20
3.1.1 Số lượng báo cáo thu nhận trong thời gian 7/2006 đến 12/2007 20
3.1.2 Các đơn vị gửi báo cáo về trung tâm ADR 20
3.1.3 Tổng hợp báo cáo ADR theo độ tuổi 23
3.1.4 Tổng hợp báo cáo ADR theo giới tính

24
3.1.5 Tổng hợp báo cáo ADR theo đối tượng gửi báo cáo 25
3.1.6 Tổng hợp báo cáo ADR theo đường dùng thuốc 25
3.1.7 Tổng hợp báo cáo ADR theo thời gian xuất hiện 27

3.1.8 Tổng hợp báo cáo ADR theo nhóm thuốc nghi ngờ

28
3.1.9 Tổng hợp báo cáo ADR theo biểu hiện lâm sàng 32
3.2 Phân tích chất lưọng báo cáo 334
3.2.1 Tiêu đề

34
3.2.2 Thông tin về bệnh nhân 34
3.2.3 Thông tin về thuốc nghi ngờ gây ADR 35
3.2.4 Thông tin về thuốc dùng đồng thời về bệnh sử
37
3.2.5 Thông tin khác 40
KẾT LUẬN VÀ ĐẺ XUẤT 40
1. Kết luận 40
2. Đe xuất 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADE
ADR
FDA
NSAID
STT
WHO
Adverse drug event
Biến cố có hại của thuốc
Adverse drug reaction
Phản ứng có hại của thuốc
Food ang Drug Administration

Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mĩ
Thuốc giảm đau chống viêm không steroid
Số thứ tự
World Health Organization
Tổ chức y tế thế giới
ĐẶT VẤN ĐÈ
Thuốc dùng để phòng bệnh, chữa bệnh, là sản phẩm đặc biệt có sự đầu
tư trí tuệ và công nghệ cao, phải đạt yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, có
hiệu lực và an toàn. Mặc dù tất cả các loại thuốc trước khi đưa vào sử dụng
cho người bệnh đã được thử nghiệm, đăng ký sản xuất và lưu hành theo
những quy định chặt chẽ, nhưng trong nhiều chế phẩm, phản ứng có hại của
thuốc chỉ được phát hiện sau một thời gian. Phải mất nhiều thập kỷ thì tác
dụng độc hại của aspirin với đường tiêu hóa mới trở nên rõ ràng và cũng phải
lâu đến vậy người ta mới nhận ra rằng lạm dụng lâu dài phenacetin có thể gây
ra hoại tử nhú thận [9]. Chính vì thế nguy cơ xuất hiện phản ứng có hại là
không thể tránh khỏi và đã trở thành vấn đề thời sự của y học hiện đại.
Từ năm 1995, chi phí cho các sự cố liên quan đến thuốc (DRPs) đã tăng
gấp đôi, tổng chi phí cho bệnh tật và tử vong liên quan đến thuốc đã vượt quá
chi phí điều trị ban đầu [10]. DRPs được phát hiện ngày càng nhiều đến mức
nghiêm trọng và đáng báo động, tuy nhiên tới 28% các sự cố đó được cho là
có thể ngăn ngừa được [32]. Do đó các cán bộ y tế cần báo cáo mọi nghi ngờ
về phản ứng có hại của thuốc bởi lẽ điều đó có thể giảm được hậu quả và cứu
được tính mạng cho bệnh nhân của họ và cho những người khác.
Trong những năm qua công tác theo dõi phản ứng có hại của thuốc đã
được triển khai trên phạm vi cả nước. Hai trung tâm theo dõi phản ứng có hại
của thuốc ở phía bắc và phía nam đã được thành lập. Cho đến nay, các trung
tâm theo dõi ADR đã nhận và xử lý hàng nghìn báo cáo. Thực tế cho thấy
việc tiếp nhận thẩm định báo cáo ADR bước đầu đã giúp tăng cường công tác
sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ y tế
trong thực hành điều trị.

Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài '‘Tổng hợp và phân tích tình hình báo
cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại trung tâm ADR phía bắc từ
7/2006 đến 12/2007*’ nhằm mục đích:
1. Tổng hợp các báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại trung
tâm ADR phía bắc từ 7/2006 đến 12/2007.
2. Birớc đầu phân tích chất lượng báo cảo ADR được gửi đến trung
tâm trong thời gian 7/2006 -12/2007.
PHẦN 1
TỎNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 PHẢN ỬNG CÓ HẠI CỦA THUỐC
1.1.1 Định nghĩa
Có nhiều định nghĩa về ADR đã được đưa ra: định nghĩa của WHO,
Karch và Lasagana, Naranjo, FDA Các cơ quan cũng như các dược sĩ lâm
sàng sử dụng các định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu thực tiễn. Tổ
chức y tế thế giới (1972) đưa ra định nghĩa về phản ứng có hại của thuốc như
sau: ''Phản ứng cổ hại của thuốc (ADR) là một phản ứng độc hại, không được
định trước và xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh, chẩn
đoán hoặc chữa bệnh hoặc làm thay đối một chức năng sinh lỷ” [8],
Trong quá trình điều trị có những trường họp tai biến mà nguyên nhân
chưa xác định, không chỉ do thuốc gây ra mà có thể do các yếu tố khác như sự
tiến triển nặng thêm của bệnh hoặc do một bệnh khác phát sinh. Những
trường họrp như vậy gọi là biến cố có hại của thuốc (adverse drug event -
ADE) [8]. Điểm cơ bản ở đây là sự xảy ra đồng thời về thời gian mà không có
ngờ vực về quan hệ nhân quả [37].
Năm 2000, WHO dùng một định nghĩa khác về ADR; “Phản ứng cỏ hại
của thuốc là một phản ứng gây hại đáng kể hoặc bất lợi, xảy ra sau một can
thiệp có liên quan đên việc sử dụng dược phẩm. Một phản ứng có hại có thê
là cơ sở dự đoán được mức độ nguy hại của việc sử dụng thuốc này để phòng,
điều trị, hiệu chỉnh liều hoặc rút thuốc ”[9J.
Theo định nghĩa của FDA thì phản ứng có hại của thuốc là các biến cố

bất lợi có liên quan đến việc sử dụng thuốc trên người bệnh (bất kể có hay
không có liên quan đến thuốc) bao gồm các biến cố xuất hiện trong quá trình
dùng thuốc, xuất hiện khi quá liều (vô tình hay có chủ ý), xuất hiện khi lạm
dụng thuốc hay khi ngưng sử dụng thuốc và bất kỳ thất bại điều trị xảy ra.
Như vậy khái niệm ADR của FDA rộng hơn, bao gồm cả quá liều cũng như
lạm dụng thuốc. Tuy nhiên các báo cáo được gửi tới FDA chủ yếu tập trung
vào các phản ứng có hại không mong muốn của thuốc (unexpected adverse
drug reaction) tức là các ADR không phổ biến, không thường gặp hay các
ADR mới [32],
Báo cáo ADR nhằm thu thập tất cả các phản ứng có hại được nghi ngờ của
thuốc (suspected adverse drug reaction report). Phản ứng có hại được nghi
ngờ là một phản ứng độc hại, không được định trước và xuất hiên là bất kỳ
liều nào của thuốc mà ở đó có khả năng hợp lý để nghi ngờ phản ứng có hại
được gây ra bởi thuốc [23].
Có sự khác biệt trong định nghĩa và cách gọi ADR của thuốc. Dược thư
quốc gia Việt Nam có ghi ADR là tác dụng không mong muốn của thuốc, một
số tài liệu khác có viết ADR là phản ứng bất lợi của thuốc. Trong phạm vi
khoá luận này chúng tôi sử dụng cách gọi của Cục quản lý Dược: ADR được
gọi là phản ứng có hại của thuốc.
1.1.2 Tình hình ADR
1.1.2.1 Trên thế giới
Phản ứng có hại của thuốc không phải là vấn đề mới. Từ thời cổ xưa các
nhà y học đã căn dặn cảnh giác với tác dụng có hại của thuốc, cân nhắc giữa
nguy cơ và lợi ích khi dùng thuốc. Đầu năm 1950, người ta mới khám phá ra
cloramphenicol có thể gây ra thiếu máu do suy tuỷ, đặc biệt với trẻ sơ sinh.
Năm 1962 tấn bi kịch của thời đại là việc dùng thalidomid cho phụ nữ có thai
và hàng nghìn trưÒTig hợp quái thai đã được thống kê trên thế quốc giới, chỉ
tính riêng ở Đức đã có hơn 6000 trường hợp, ở Anh gần 1000, và ở Nhật là
looorr
Năm 1966, Minocil - một thuốc làm gầy của hãng M.c Neil đã gây ra

hàng ngàn trường hợp tăng huyết áp động mạch phổi dẫn đến tử vong. Arsdel
(1978) thông báo có tới 10% số người bệnh dùng sulfamid bị dị ứng với loại
thuốc này [4].
ở Hoa Kỳ, người ta ước tính các phản ứng có hại của thuốc là nguyên
nhân đứng thứ tư đến thứ sáu trong số những nguyên nhân gây tử vong, ở
một số nước, số ca nhập viện do ADR có thể lên đến hơn 10% như Nauy:
11,5%, Pháp: 13,0% [9], [36]. Theo một cuộc khảo sát của tạp chí American
Pharmacists' Association, năm 2000 chi phí cho các trường hợp thương tật
và tử vong liên quan đến thuốc là 177 tỷ đô la [35]. Còn tại Anh, trong số
18820 bệnh nhân nhập viện thì có 1225 người là do liên quan đến ADR
(chiếm 6,5%), trong đó ADR là nguyên nhân trực tiếp chiếm đến 80%. Thời
gian nằm viện trung bình tăng thêm 8 ngày, tiêu tốn tới 466 triệu bảng (tương
đương 847 triệu đôla) [31'.
1.1.2.2 Tinh hình ADR ở Việt Nam
Trung tâm cảnh giác dược ở Việt Nam được thành lập vào giữa những
năm 1990 với sự bảo trợ của Thụy Điển. Năm 1999, Việt Nam tham gia
chương trình theo dõi thuốc quốc tế của WHO (WHO International Drug
Monitoring Programme) [34], [37].
Qua tổng kết, phản ứng có hại gặp ở hầu hết các nhóm thuốc và đường
dùng thuốc là một minh chứng cho thấy thuốc là con dao hai lưỡi.Với mô
hình của một nước có tỷ lệ bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm khuẩn cao, các
ADR tập trung vào nhóm thuốc kháng sinh với tỷ lệ 34,6%, thuốc chổng lao
14,7%, ngoài ra còn có thuốc chống viêm không steroid (NSAID) chiếm tỷ lệ
khá cao 9%. Nhóm thuốc cổ truyền và vitamin vốn được quan niệm là an toàn
và sử dụng rất rộng rãi cũng được ghi nhận có gặp ADR ngày càng nhiều [12\
Một số nguyên nhân gây ra ADR ở nước ta;
- Do tình trạng lạm dụng thuốc của người dân.
- Do trình độ hiểu biết về thuốc của người dân còn hạn chế và sự thiếu
trách nhiệm của một số cán bộ y tế.
- Do trình độ của các bác sĩ kê đơn: không nắm rõ hoạt chất nên kê nhiều

thuốc cùng hoạt chất, kê không đúng thời gian điều trị, không rõ tác
dụng dược lý nên kê đơn sai chỉ định, kê nhiều thuốc trên một đơn thuốc
mà không nắm rõ tương tác thuốc [12], [13].
1.2 THEO DÕI VÀ BÁO CÁO PHẢN ỨNG c ó HẠI CỦA THUỐC
1.2.1 Sự cần thiết phải theo dõi và báo cáo phản ứng có hại của thuốc
Nguy cơ xuất hiện ADR là hậu quả không thể tránh khỏi của việc sử
dụng thuốc. Hầu như các thuốc có hiệu lực, dù được sử dụng cẩn thận đến
mấy đều có thể gây ra ADR. cần phải theo dõi phản ứng có hại của thuốc,
chất lượng thuốc vì những lý do sau:
- Các thử nghiệm trên động vật không đủ để tiên lượng sự an toàn trên
người
- Thử nghiệm lâm sàng hạn chế về số lượng bệnh nhân, điều kiện sử dụng
thuốc khác so với thực tế, giai đoạn thử nghiệm hạn chế về thời gian.
- Vào thời gian cấp phép lưu hành số lượng người phơi nhiễm với thuốc
dưới 5000 cho phép chỉ phát hiện ADR thông thưòng, trong khi cần tới
30.000 người mới đảm bảo không bỏ qua ADR với tỷ lệ mắc 1/10.000
cá thể phơi nhiễm.
- Không có hoặc có rất ít thông tin về các phản ứng có hại hiếm gặp hay
nghiêm trọng đối với các đối tượng đặc biệt (trẻ em, phụ nữ có thai,
người cao tuổi ) và tương tác thuốc [8], [9'.
Vì thế giám sát hậu mại rất quan trọng, cho phép phát hiện ra những
ADR không phổ biến nhưng đôi khi rất nghiêm trọng [9].
1.2.2 Mục đích
1.2.2.1 Mục đích lâu dài [9], [32], [36]
• Phát hiện những phản ứng có hại của thuốc càng sớm càng tốt, đặc
biệt là các phản ứng không thường xuyên, những phản ứng nặng hoặc
những tương tác chưa biết đến.
• Xác định tỷ lệ và tần số của những phản ứng có hại của thuốc, kể cả
những phản ứng đã biết và mới phát hiện.
• Nhận biết và xác định các yếu tố nguy cơ và cơ chế có thể gây nên

các phản ứng có hại.
• ước lượng những khía cạnh trong phân tích lợi ích/ nguy cơ và phổ
biến những thông tin cần thiết để cải thiện việc kê đơn và quản lý
thuốc.
1.2.2.2 Mục đích trực tiếp[9], [32], [36]
• Phản hồi thông tin và cảnh báo rộng rãi về các ADR và sự tương tác
giữa các thuốc cho cán bộ y tế nhằm hạn chế tối đa việc xảy ra các
phản ứng có hại của thuốc.
• Thiết lập cơ sở dữ liệu về ADR cho từng quốc gia và liên quốc gia để
nâng cao hơn nữa kiến thức về lĩnh vực này trên toàn thế giới.
• Ngăn chặn các tác động không tốt đến người bệnh, cải thiện việc
chăm sóc và an toàn cho bệnh nhân liên quan đến việc sử dụng thuốc.
Có thể nói mục đích của việc theo dõi và báo cáo ADR đều nhằm mục
tiêu sử dụng thuốc hiệu quả, an toàn và họp lý.
7
1.2.3 Tình hình theo dõi và báo cáo ADR
1.2.3.1 Báo cáo quốc tế về ADR
Năm 1960, FDA bắt đầu thu thập báo cáo ADR và tài trợ cho chương
trình theo dõi thuốc mới tại các bệnh viện. Cơ quan quản lý thuốc và thực
phẩm của Mỹ nhận được gần 472,000 báo cáo về biến cố bất lợi của thuốc
trong năm 2006 [42],
Thức từứi sau thảm họa Thalidomid một trung tâm của WHO đã được
thành lập vào năm 1968 nhằm tìieo dõi ADR. Đến tháng 12 năm 2007 đã có
84 nước là tíiành viên chính thức tham gia vào chương trình ứieo dõi ứiuốc
của WHO, và 23 thành viên cộng tác [40], Hiện nay trung tâm này được đặt
tại Uppsala - Thụy Điển, hàng năm nhận được khoảng 200.000 báo cáo, số
lưọng báo cáo tính đến ngày 4 tháng 9 năm 2006 là 3.760.836 [41]. Ta có ứiể
thấy được tốc độ tăng số lượng báo cáo gửi về trung tâm Uppsala qua biểu đồ
sau:
Tnnrnnn

, 1 _ ^ ^ r - i m r - i n i II u u [| u II II II u II II u u II L u L u II II 11 u II u li II u u
Hình 1.1: sổ lượng báo cáo gửi về trung tầm Uppsala qua các năm [40]
8
Theo yêu cầu của trung tâm các nước phải gửi báo cáo vế ít nhất là 4 lần
trong một năm. Những nước có hệ thống theo dõi ADR được đánh giá có tỷ lệ
báo cáo tốt nhất khi có hơn 200 báo cáo trên 1 triệu dân một năm, và hơn 150
báo cáo trên 1000 bác sĩ mỗi năm. Tỷ lệ trung bình khoảng 100/1.000.000 và
50/1000 [10].
Tổ chức y tế thế giới đã phát triển chương trình cảnh giác dược để giúp
ngăn chặn thương tật và tử vong liên quan đến thuốc, và việc thu thập các báo
cáo ADR là chìa khoá thành công của công tác này. New Zealand là một
trong những thành viên sáng lập của chương trình giám sát thuốc quốc tế.
Trung tâm theo dõi thuốc quốc gia đã tiến hành thu thập và đánh giá các báo
cáo ADR tình nguyện của thuốc, vaccine, thảo dược, các chế phẩm của máu.
Hiện nay trong hệ thống dữ liệu quốc gia có hơn 48.000 báo cáo, hỗ trợ tích
cực cho việc thực hiện các quyết định lâm sàng khi có dấu hiệu bất thường
liên quan đến thuốc [39]. Theo báo cáo năm 2003 của Australia thì tới 1/3 số
trường hợp nhập viện do ADE là hoàn toàn có thể ngăn chặn được. Cũng theo
một nghiên cứu đã được công bố của Journal of the American Medical
Association, việc theo dõi ADR của các dược sỹ tại bệnh viện đã giúp giảm
được 66% các sai sót có liên quan đến thuốc gặp trong điều trị và tiết kiệm
được 270.000 đôla mỗi năm [32]. Điều này đã phần nào cho thấy ý nghĩa của
việc theo dõi và báo cáo ADR nói riêng cũng như công tác cảnh giác dược nói
chung.
1.2.3.2 Báo cáo ADR tại Việt Nam
Trong những năm qua công tác theo dõi phản ứng có hại của thuốc đã
được triển khai trên phạm vi cả nước. Sự hình thành và phát triển của hai
Trung tâm theo dõi phản ứng có hại của thuốc, Quyết định thành lập Hội đồng
thuốc và điều trị tại bệnh viện của Bộ Y tế là những nhân tố quan trọng trong
việc triển l<diai và thúc đẩy hoạt động theo dõi ADR tại các cơ sở khám chữa

bệnh. Gần đây, luật Dược và các văn bản dưới luật có liên quan đã có quy
định cụ thể về trách nhiệm theo dõi và báo cáo phản ứng có hại của thuốc.
Nhiều lớp tập huấn về cảnh giác dược, theo dõi ADR được tổ chức và công
tác này đã được các cán bộ y tế chú ý hơn so với mười, mười lăm năm trước.
Theo tổng kết của trung tâm thì trong các năm 1995 - 2001 số báo cáo trên cả
nước là 4394, từ tháng 1/2003 đến tháng 6/2006 có 37 đơn vị gửi báo cáo về
trung tâm ADR tại Hà Nội với 948 báo cáo, trong đó có 20 trưòng họfp là
khuyết tật thuốc, 52 trường hợp là các sai sót gặp trong điều trị [12]. Còn tại
trung tâm ADR phía nam từ năm 1999 đến 5/2003 đã có 32 đơn vị gửi báo
cáo, số lượng báo cáo được thẩm định là 1839, trung bình khoảng 1,5 báo cáo
cho mỗi tỉnh trong một tháng [13 .
Tuy nhiên công tác theo dõi và báo cáo ADR còn chưa đồng đều giữa
các đơn vị trong toàn quốc cũng như trong mỗi tỉnh. Các đơn vị sản xuất,
phân phối thuốc, các công ty nước ngoài có giấy phép hoạt động về thuốc và
nguyên liệu làm thuốc vẫn chưa ý thức được đầy đủ về nghĩa vụ của mình đối
với việc theo dõi và báo cáo kịp thời các phản ứng có hại của thuốc cho các
cơ quan có thẩm quyền. Điều này đã hạn chế nhiều đến hiệu quả của công tác
theo dõi và báo cáo ADR, công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân và
đặc biệt ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng, người bệnh.
10
1.2.4 Hệ thống báo cáo ADR
Hình 1.2: Hệ thống bảo cáo ADR [37]
Trong hệ thống trên ta có thể tìm hiểu nhiệm vụ của hai cơ quan chính
tham gia vào hệ thống báo cáo tại Việt Nam là Hội đồng thuốc và điều trị tại
bệnh viện và Trung tâm theo dõi ADR.
11
• Hội đồng thuốc và điều trị tại bệnh viện:
- Theo dõi sát sao với những thuốc đã biết phản ứng có hại.
- Cảnh giác với những thuốc chưa biết phản ứng có hại.
- Hội chẩn và thảo luận để đi đến kết luận về các phản ứng có hại

của thuốc và các sai sót trong dùng thuốc ở bệnh viện.
- Làm báo cáo để giám đốc bệnh viện ký gửi Sở y tế, Bộ Y tế,
trung tâm theo dõi phản ứng có hại của thuốc về các vấn đề liên
quan đến thuốc trong bệnh viện [9’.
• Trung tâm theo dõi ADR:
- Thu thập, phân loại và thẩm định báo cáo ADR.
- Nhận biết các dấu hiệu ADR nghiêm trọng dựa trên nguồn báo
cáo và thông báo cho Cục quản lý dược Việt Nam.
- Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về ADR.
- Xuất bản các sách về ADR.
- Phân phát các tờ rơi cảnh báo về phản ứng có hại của thuốc.
- Gửi báo cáo đến trung tâm theo dõi ADR của WHO [9].
Người báo cáo là các nhân viên y tế như bác sĩ, dược sĩ, y tá, điều
dưỡng Có một số quan điểm đặc biệt tin tưởng rằng sự tham gia một cách
trực tiếp báo cáo từ phía người bệnh trong những vấn đề liên quan đến thuốc
sẽ làm tăng hiệu quả của hệ thống cảnh giác dược và bù đắp những thiếu sót
của hệ thống khi chỉ đơn thuần dựa trên các báo cáo từ các nhà chuyên môn
26]. Nghiên cứu tại Anh cho thấy rằng đã có 9 ADR mới được phát hiện bởi
bệnh nhân và nhân viên y tế, và trong mỗi trường họp các ADR do người
bệnh báo cáo đến sóm hơn, trung bình là 273 ngày [26], [27]. Tuy nhiên điều
12
quan trọng là tất cả các bên đối tác nhận thức được rằng cần phải có trách
nhiệm trong việc thực hiện các hoạt động liên quan tới công tác cảnh giác
dược và làm tốt công tác thông tin trong lĩnh vực này [22].
1.2.5 Phản ứng có hại (hoặc nghi ngò’ là phản ứng có hại) của thuốc cần
được báo cáo
• Đối với các thuốc mới đưa ra thị trường, phải báo cáo mọi phản ứng
đáng ngờ, kể cả các phản ứng nhẹ (nhiều nước một thuốc coi là mới
khi thời gian đưa ra thị trường là 5 năm).
• Đối với những thuốc đã được biết rõ hoặc nghiên cứu đầy đủ: Báo

cáo tất cả các nghi ngờ về một ADR nghiêm trọng hoặc chưa được
ghi nhận trước đó.
• Báo cáo khi một phản ứng nào đó xuất hiện ngày càng nhiều.
• Báo cáo tất cả các ADR nghi ngờ liên quan đến tương tác thuốc-
thuốc, thuốc - thức ăn, hoặc thuốc - thực phẩm bổ sung (kể cả các
sản phẩm được làm từ dược liệu và thuốc bổ).
• Báo cáo các ADR trong những lĩnh vực được quan tâm đặc biệt như
lạm dụng thuốc, thuốc dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.
• Báo cáo những nghi ngờ về ADR khi liên quan đến một việc ngừng
thuốc.
• Báo cáo các phản ứng xảy ra do dùng quá liều hay do sai sót trong
điều trị.
• Báo cáo khi thuốc không có hiệu quả điều trị hoặc do nghi ngờ có
sai sót về sản phẩm [9].
Như vậy có thể nhận thấy có sự khác biệt về phạm vi ADR trong định
nghĩa ADR và yêu cầu báo cáo, cụ thể là các phản ứng có hại được yêu
cầu báo cáo chính là các ADE.
13
1.2.6 Quá trình thu thập, tiếp nhận và xử lý báo cáo
1.2.6.1 M ụcđích[llJ
Quy trình này nhằm quy định thống nhất trình tự thu thập, tiếp nhận và xử
lý báo cáo phản ứng có hại của thuốc, đảm bảo thực hiện đúng các quy định
liên quan đến việc thu thập, tiếp nhận và xử lý báo cáo phản ứng có hại của
thuốc.
1.2.6.2 Sơ đồ [11]
Ị.2.6.3 M ôtả[ll]
• Thu thập
14
Trung tâm theo dõi ADR là nơi thu thập báo cáo về phản ứng có hại của thuốc
từ các nguồn:

- Bệnh nhân.
- Cơ sở khám chữa bệnh, Bác sĩ, Dược sĩ, Y tá, Điều dưỡng
- Các đơn vị sản xuất kinh doanh dược, Văn phòng đại diện các
công ty nước ngoài.
Cán bộ của Trung tâm vào sổ theo dõi các báo cáo tiếp nhận được về phản
ứng có hại của thuốc.
• Phân loại
Cán bộ Trung tâm theo dõi ADR tiến hành:
- Mã hóa các báo cáo tiếp nhận được theo quy định của WHO.
- Phân loại báo cáo theo nhóm thuốc nghi ngờ gây ra phản ứng có
hại.
Chuyển nhóm thẩm định báo cáo (nhóm thẩm định được thành lập theo quyết
định của Lãnh đạo Cục)
• Thẩm định
Nhóm thẩm định tiến hành xem xét:
- Thu thập thêm thông tin liên quan đến thuốc nghi ngờ gây phản
ứng như liều dùng, số lô, hạn dùng của thuốc , chi tiết diễn
biến phản ứng có hại xảy ra (nếu cần thiết) qua việc liên hệ trực
tiếp với đơn vị gửi báo cáo.
- Tra cứu tài liệu chuyên môn liên quan.
- Xác định mối quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng thuốc và phản
ứng có hại.
15
Sau khi có kết luận về phản ứng có hại, nhóm thẩm định chuyển lại kết
quả cho cán bộ trung tâm theo dõi ADR. Do khó khăn về tài chính, Hội đồng
thẩm định chỉ họp thường kỳ sáu tháng một lần. Tuy nhiên trong những
trường hợp phản ứng nghiêm trọng và l<hông định trước, Hội đồng có thể tiến
hành họp thẩm định trong vòng 5 ngày kể từ khi nhận được báo cáo, và phản
hồi ngay cho đơn vị báo cáo và cơ quan quản lý.
• Tổng hợp kết quả và nhập số liệu

- Tổng hợp kết quả: Cán bộ của trung tâm theo dõi ADR vào biểu
theo dõi thông tin phản ứng có hại, lưu hồ sơ tại Trung tâm theo
dõi ADR.
- Nhập số liệu: Cán bộ Trung tâm ADR nhập toàn bộ số liệu, kết
quả thẩm định báo cáo ADR theo phần mềm WINADR của
Trung tâm Uppsala - Thụy Điển.
• Gửi kết quả phản hồi
- Phản hồi kết quả thẩm định tới đơn vị gửi báo cáo.
- Phản hồi kết quả thẩm định tới các cơ quan chức năng có liên
quan.
- Báo cáo phản ứng có hại (đã được thẩm định và kết luận) sang
trung tâm theo dõi ADR của WHO tại Uppsala, Thụy Điến.
1.2.7 Chất lượng báo cáo phản ứng có hại
Số lượng các báo cáo về phản ứng có hại không ngừng tăng lên qua các
năm nhưng con số này chỉ chiếm khoảng 1 -10% số phản ứng có hại trên thực
tế [29]. Tuy nhiên số lượng báo cáo không quan trọng bằng nội dung và chất
lượng báo cáo. Đó là những cái chúng ta cần quan tâm khi xem xét và phân
tích các báo cáo phản ứng có hại của thuốc [38].
16
Các thông tin được ghi trong báo cáo ADR sẽ là cơ sở để thẩm định một
biến cố có hại của thuốc là ADR thực sự hay không thông qua đánh giá nhân
quả. Có nhiều cách để đánh giá nhân quả như thuật toán Naranjo, đánh giá
nhân quả của WHO và các cách đánh giá này chỉ có thể được thực hiện
hiệu quả khi thông tin được ghi nhận một cách đầy đủ. Sau l<chi đánh giá nhân
quả các báo cáo trường hợp sẽ được tổng hợp để phát hiện và đưa ra các tín
hiệu về phản ứng có hại của thuốc đồng thời xử trí các rủi ro có nguy cơ xảy
ra [9]. Nhiều thay đổi trong nhãn thuốc, chống chỉ định, cảnh báo, tác dụng
không mong muốn của thuốc là kết quả từ việc thu nhận các thông tin từ báo
cáo phản ứng có hại của thuốc. Ngoài ra các thông tin trong báo cáo có thể
ghi nhận được các trường họp sai sót trong điều trị, khuyết tật thuốc, quá

liều, và góp phần nâng cao quản lý chất lượng thuốc, đồng thời có định
hướng để tập huấn cho các cán bộ y tế nhằm giảm thiểu các biến cố có hại có
thể ngăn chặn được [24].
Việc đánh giá chất lượng báo cáo ADR được thực hiện bước đầu thông
qua đánh giá tính đầy đủ của thông tin được ghi nhận lại, sau đó đánh giá chất
lượng của thông tin được đưa ra. Trong phạm vi có hạn của đề tài chúng tôi
chỉ phân tích được sơ bộ chất lượng các báo cáo được gửi đến trung tâm trong
thời gian 7/2006 - 12/2007.
m
17
PHÀN 2
ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứ u
2.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Cục quản lý Dược Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu; Các báo cáo phản ứng có hại của thuốc được gửi
về trung tâm ADR phía bắc trong thời gian 7/2006 đến 12/2007. (Đây đều là
các báo cáo chưa được các chuyên gia thẩm định).
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
Mô tả hồi cứu các trường hợp gặp ADR ghi nhận trong các báo cáo được
gửi đến trung tâm ADR phía bắc trong thời gian 6/2006 - 12/2007.
Tiến hành đọc và tổng hợp, phân tích các báo cáo, thông tin thu được từ
các báo cáo sẽ được điền vào bảng theo nội dung nghiên cứu (phụ lục 1).
2.3 CHỈ TIÊU NGHIÊN c ứ u
2.3.1 Tổng hợp thông tin từ báo cáo ADR
Tổng hợp các báo cáo phản ứng có hại bao gồm:
Báo cáo ADR theo đơn vị gửi báo cáo.
Báo cáo ADR theo giới và tuổi.
Báo cáo ADR theo đường dùng, thời gian xuất hiện.
Báo cáo ADR theo người báo cáo.
Báo cáo ADR theo nhóm thuốc.

Báo cáo ADR theo biểu hiện lâm sàng; phân loại biểu hiện lâm sàng
theo WHO Adverse Reaction Terminology (2002).
2.3.2 Phân tích sơ bộ chất lượng báo cáo
Ghi nhận tính đầy đủ về các thông tin được ghi trong báo cáo theo 3 mức
độ:
18
- Đầy đủ; ghi nhận thông tin theo đúng yêu cầu báo cáo.
- Không đầy đủ: ghi nhận một phần thông tin được yêu cầu báo cáo.
- Không báo cáo.
2.4 PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ s ố LIỆU
Toàn bộ số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học bằng SPSS
13.0 và Excel 2003.
19
PHẦN 3
KÉT QUẢ NGHIÊN cứ u VÀ BÀN LUẬN
3.1 TỔNG HỢP BÁO CÁO ADR
3.1.1 Số lượng báo cáo thu nhận trong thời gian 7/2006 đến 12/2007
Tổng số báo cáo ADR nhận được trong thời gian 7/2006 đến 12/2007
do các đơn vị gửi đến trung tâm ADR phía bắc : 558 báo cáo, trong đó:
• 138 báo cáo 7/2006 - 12/2006.
• 420 báo cáo 1/2007 - 12/2007.
Với 558 báo cáo trong thời gian 18 tháng ta có thể rút ra được những nhận
định về tình hình ADR gây ra do việc dùng thuốc nói chung và từng nhóm
thuốc nói riêng, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm sử dụng thuốc an toàn, hợp
lý và hiệu quả giúp nhằm giảm thiểu tối đa các ADR.
3.1.2 Các đon vị gửi báo cáo về trung tâm ADR
Bảng 3.1: Tông hợp ADR theo đơn vị gửi báo cáo
STT
Đơn vi


Sô báo cáo
Tỷ lệ
1. Bình Định
1 0,2
2.
Băc Ninh
10
1,8
3.
Cao Băng
3
0,5
4.
Đăc Lăc
1
0,2
5. Đăc Nông
1 0,2
6.
Điện Biên
6
1,0
7. Đà Năng
23
4,2
8. Hà Tĩnh
1 0,2
9. Hoà Bình
14
2,5

10. Hải Dương
14
2,5
20

×