Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Chiến lược triển khai quyền lực mềm của Trung Quốc đối với khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.28 KB, 91 trang )

Phần I: Phần mở đầu.
1. Tính cấp thiết của để tài.
Hai mươi năm đầu của thế kỉ XXI là một thời kì cơ hội chiến lược mà Trung
Quốc có thể làm được nhiều việc. Nửa đầu thế kỉ XXI, Trung Quốc lại có mục tiêu
hùng vĩ nhằm vào xây dựng toàn diện xã hội khá giả, thực hiện hiện đại hóa. Do đó,
việc lựa chọn chiến lược phát triển như thế nào là một vấn đề ra đang được Trung
Quốc quan tâm.
Trong tình hình mới khi lợi ích quốc gia của các nước trên thế giới hiện nay
đan xen và hòa hợp cao độ, giữa các nước lớn cùng tồn tại sự đối kháng và hợp tác
cùng có nhu cầu với nhau, không bên nào có thể thay thế bên nào, không có hợp tác
hoàn toàn cũng không có đối kháng hoàn toàn, Trung Quốc phải nhận biết được xu
hướng thế giới mới nắm chắc quyền chủ động trong môi trường quốc tế đầy biến
động trong môi trường quốc tế đầy biến động phức tạp và cạnh tranh gay gắt.
Vấn đề Trung Quốc trỗi dậy đã trở thành một trong những chủ đề nổi bật và
đáng chú ý của nền chính trị quốc tế thời kì sau chiến tranh lạnh. Một Trung Quốc
đang trỗi dậy sẽ gây ra sự quan ngại không những cho các nước lớn như Mỹ, Nhật
Bản, hay Nga mà ngay cả cho những nước trong khu vực, những đối tượng chịu tác
động trực tiếp từ sự trỗi dậy này. Do đó, sự hoài nghi và cảnh giác cũng như dè
chừng trong quan hệ với Trung Quốc của các nước trong khu vực là điều không thể
tránh khỏi.
Do đó, hơn một thập kỷ qua, Trung Quốc đã có những bước điều chỉnh về mặt
chính sách nhằm xoa dịu sự lo sợ về cái gọi là “thuyết mối đe dọa Trung Quốc” đồng
thời xây dựng và củng cố hơn nữa lòng tin của các nước trong khu vực về hình ảnh
một Trung Quốc “ôn hòa”, sẵn sàng gánh vác và chia sẻ lợi ích cũng như trách
nhiệm trong việc giải quyết các vấn đề trong khu vực. Song song với việc gia tăng
quyền lực cứng cụ thể là sức mạnh quân sự tại khu vực Đông Nam đã và đang tập
trung xây dựng, thiết lập một chiến lược triển khai quyền lực mềm và trên thực tế,
chiến lươc này đã đem lại những lợi ích và thành công không nhỏ Trung Quốc.
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao và xuất phát từ cơ sở nào mà Ttrung Quốc tăng
cường triển khai quyền lực mềm ở Đông Nam Á trong khi vẫn duy trì thậm chí là
1


tăng cường khả năng sử dụng quyền lực cứng ở khu vực này đã được triển khai như
thế nào và đạt kết quả ra sao? Phải chăng, thực chất của việc triển khai quyền lực
mềm là nhằm giải tỏa nỗi lo lắng của các nước Đông Nam Á trước sức mạnh quân
sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc đồng thời biến các nước này thành khu vực
sân sau, thành khu vực ảnh hưởng riêng của Trung Quốc? Các nước Đông Nam Á sẽ
phản ứng thế nào và Việt Nam một quốc gia nằm trong khu vực này, nên ứng xử ra
sao trước việc Trung Quốc tăng cường quyền lực mềm ở Đông Nam Á?
Tuy nhiên, trước khi đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi và giả thiết trên
chúng ta cần đi sâu tìm hiểu và phân tích một số lí luận quan hệ quốc tế xoaay quanh
khái niệm quyền lực mềm: như quyền lực mềm là gì? quyền lực mềm được biểu hiện
như thế nào thông qua các lý luận quan hệ quốc tế? Bởi đây cũng là một khái niệm
khá mới mẻ và chỉ được áp dụng trong 10 năm trở lại đây. Thông qua việc xây dựng
một tập hợp những lý luận cơ bản về quyền lực mềm, chúng ta có thể đối chiếu và
so sánh với việc triển khai quyền mềm của Trung Quốc trên thực tế, để có cái nhìn
cụ thể chính xác nhất những kết quả mà chiến lược triển khai quyền lực mềm tại khu
vực Đông Nam Á đã đem lại cho Trung Quốc.
Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “ Chiến lược triển khai quyền lực mềm của
Trung Quốc đối với khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn hiện nay”, nhằm tập
trung phân tích và đánh giá chiến lược quyền lực mềm của Trung Quốc trong 10
năm trở lại đây tại khu vực Đông Nam Á, cụ thể là sau cuộc khủng hoảng tài chính-
tiền tệ năm 1997 dựa trên những lí luận quan hệ quốc tế về quyên lực và quyền lực
mềm từ đó đưa ra một số kiến nghị chính sách cho Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu về một vấn đề còn khá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu
về vấn đề này còn hạn chế ở nước ta hiện nay, tiêu biểu có một số công trình như:
- Ngô Xuân Bình: “ Bàn về sức mạnh của Trung Quốc”, tạp chí nghiên
cứu Đông Bắc Á, số 1( 83), số 1- 2008. Tác giả đưa ra lí luận chung về sức mạnh
quân sự, sức mạnh kinh tế ( quyền lực cứng) và sức mạnh vô hình( quyền lực
mềm) của Trung Quốc. Tác giả cũng phân tích làm rõ những ưu thế và hạn chế
trong việc sử dụng quyền lực cứng, đồng thời nhấn mạnh quyền lực mềm là

2
phương thức phù hợp cho Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Nó ngoài việc phát
huy tính hiệu quả của nó, thì nó còn giữ vai trò hỗ trợ quyền lực cứng. Nâng tầm
ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tác giả mới phân tích
một cách sơ lược về hai loại quyền lực này, và tác giả chưa phân tích được mối
quan hệ giữa hai loại quyền lực này trong thực tế.
- Nguyễn Minh: “Sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế ”, tạp chí Cộng
sản, số 808 (tháng 2 năm 2010). Tác giả đưa ra khái niệm sức mạnh cứng và sức
mạnh mềm, từ đó tác giả phân tích việc triển khai sức mạnh mềm ở mỗi quốc gia
có sự khác nhau. Tác giả cho rằng nước càng lớn càng cần sức mạnh mềm và tác
giả phân tích rõ tiềm năng sức mạnh mềm của Việt Nam. Tuy nhiên việc phân tích
hai loại quyền lực này mới chỉ dừng lại việc đưa ra mà chưa phân tích sâu. Tác giả
chủ yếu phân tích việc triển khai quyền lực mềm ở các nước phát triển cao mà chưa
nhấn mạnh việc triển khai loại quyền lực sự cần thiết và có hiệu quả cả ở những
nước đang phát triển.
- Nguyến Đức Tuyến, “Về sức mạnh mềm của Trung Quốc ở Châu Á”,
tạp chí nghiên cứu Quốc tế, số 72. bài viết này tác giả đưa ra việc phân tích khái
niệm sức mạnh mềm, và phản ánh thấy việc đang tận dụng sự “ hấp dẫn” của
Trung Quốc để gây ảnh hưởng lên các nước Châu Á. Hoạt động này giúp Trung
Quốc tránh được sự nghị kị của các nước Châu Á nhất là các Đông Nam Á đối với
ý đồ Bắc Kinh. Ở bài này tác giả phần lớn chủ yếu lại nghiêng phần nhiều về phân
tích sự mở rộng sức mạnh mềm của Trung Quốc, mà phần khái niệm chỉ đưa ra rất
sơ lược về phần khái niệm, để thấy được sự tích cực và hạn chế của nó.
- Hồng Yến: “ Nguồn sức mạnh mềm của Trung Quốc”, tạp chí những
vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới số 3( 143), 2008. Tác giả đưa ra khái niệm về
sức mạnh mềm là gì và tác giả đưa ra các nguồn sức mạnh mềm của Trung Quốc.
Tác giả nghiêng về việc đưa ra các nguồn sức mạnh mềm mà chưa phân tích sự
triển khai các nguồn lực sức mạnh để chuyển hóa thành quyền lực hiện thực.
Đây là những công trình nghiên cứu mang trình độ tư duy và sự khảo cứu
tìm tòi đầy khoa học. Tuy nhiên, các tác giả phân tích chủ yếu nghiên cứu về sức

mạnh mềm của Trung Quốc mà chưa thấy được cái mà cha đẻ Joseph. S. Nye muốn
3
nói đến ở đây là vấn đề quyền lực mềm. Rõ ràng, cho đến nay vẫn thiếu một công
trình nghiên cứu về đề tài đảm bảo tính khoa học và công phu, phân tích sâu đóng
góp vào hoạt động lí luận và đưa ra những phương thức ứng xử phù hợp hoạt động
thực tiễn trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, bài khóa luận này bước đầu đặt ra và giải
quyết vấn đề từ góc độ chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
- Mục đích : đề tài nhằm là sáng rõ khái niệm quyền lực mềm trong lí
luận quan hệ quốc tế, hoạt động triển khai quyền lực mềm của Trung Quốc ở khu
vực Đông Nam Á, từ đó cho thấy được những tác động tới Việt Nam.
- Nhiệm vụ: tìm hiểu khái niệm quyền lực mềm trong quan hệ quốc tế;
phân tích toàn diện hoạt động triển khai quyền lực mềm của Trung Quốc đối với
khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn hiện nay; đánh giá tác động của chiến lược
triển khai quyền lực mềm của Trung Quốc và đưa ra kiến nghị ứng xử cho Việt
Nam.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lí luận: đề tài sử dụng những quan điểm biện chứng của chủ
nghĩaMác, Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lí luận của Đặng Tiểu Bình, lí luận
của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngoài ra đề tại còn dựa trên các lí luận của các học giả chính trị hiện đại
trên thế giới.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp để thực hiện mục tiêu nghiên
cứu đề tài cũng như phần triển khai, kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa phương pháp
logic lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
phân tích số liệu…được sử dụng trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm hệ thống các quan điểm về quyền lực
mềm, và những tác động của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á bằng việc

triển khai quyền lực mềm.
4
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung về việc nghiên cứu sự triển khai
quyền lực mềm của Trung Quốc với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đồng thời nghiện cứu những tác động của chiến lược đó với khu vực Đông Nam
Á và đưa ra kiến nghị với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu.
Khóa luận có kết cấu như sau: Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài có ba
chương:
Chương I: Quyền lực mềm trong lí luận quan hệ quốc tế
Chương II: Trung Quốc với chiến lược triển khai quyền lực mềm tại Đông
Nam Á
Chương III: tác động của chiến lược triển khai quyền lực mềm của Trung
Quốc ở Đông Nam Á và kiến nghị ứng xử với Việt Nam
5
Phần II- Phần nội dung.
Chương I- Quan điểm của Trung Quốc về quyền lực mềm
1.1. Quyền lực mềm trong lí luận quan hệ quốc tế
1.1.1 Khái niệm quyền lực.
Cho đến nay, trong giới khoa học vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau xung
quanh khái niệm quyền lực. Quyền lực theo tiếng Latinh là potere, tiếng anh là
power, thêm tiếng Nga là vlast ( tiếng Anh không có động từ “ ảnh hưởng” hoặc “
thi hành” ). Dù quan niệm, cách tiếp cận về quyền lực còn có những quan điểm
khác nhau, nhưng các ngôn ngữ đều có điểm thống nhất: quyền lực liên quan đến
sức mạnh, sự ảnh hưởng, định hướng, kiểm soát, quản lý, thống trị…
Để làm rõ khái niệm quyền lực, có nhiều cách tiếp cận khác nhau:
- Theo tiếng Hán, thuật ngữ quyền lực được hình thành từ hai từ ghép lại:
quyền và lực. Lực là sức mạnh, khái niệm chỉ một thuộc tính của bất kỡ hệ vật chất
nào xột trong tương tác với hệ vậ chất khác, có khả năng duy trỡ sự tồn tại hoặc tạo
nên sự biến đổi; là cái vốn có của bất kỡ hệ vật chất nào nhưng lại hiện hỡnh trong

cỏc mối quan hệ tương tác(cơ- lí- hóa- sinh); khả năng duy trỡ sự tồn tại hoặc tạo
sự biến đổi. tương tự, các cộng đồng người cũng tiềm ẩn các lực, sức mạnh nhất
định. Quyền là khỏi niệm chỉ mối quan hệ trong xó hội, là khả năng thực hiện
những hành vi, là cái người khác trao cho mỡnh hay sự thừa nhận của người khác
đối với mỡnh; là thế lực cú thể đoạt được việc này hay việc khác. Trong quan hệ
cộng đồng, quyền tồn tại với các điều kiện xó hội nhất định nhất là có sự thừa nhận
của cộng đồng
1
Như vậy, quyền lực là sự thống nhất giữa “ quyền’ và “ lực”, và nó chỉ được
hỡnh thành khi cú đủ hai yếu tố này. Trên thực tế, vẫn tồn tại hiện tượng có lực
nhưng không có quyền; hoặc có quyền nhưng không có lực. Quan hệ quyền lực sinh
ra hoặc triệt tiêu, ngược lại lực tạo ra hoặc phủ định quyền. theo cách tiếp cận này,
có thể hiểu quyền lực là “ khả năng được bảo đảm bằng sức mạnh để thực hiện
1
Dương Xuân Ngọc( chủ biên), Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1999, tr 106.
6
những hành vi hoặc buộc người khác phải thực hiện những hành vi nhất định theo ý
chớ của người có quyền hoặc được trao quyền”
2

- Thời kỡ cổ đại, Platon quan niệm quyền lực là cái mà người có nó có khả
năng buộc người khác hành động theo ý chớ của mỡnh. Cỏi mà người khác có đó là
trí tuệ, bạo lực. Theo Platon, trí tuệ là quyền lực, của người có khả năng chi phối,
dẫn dắt người khác bằng sự thông minh trí tuệ của mỡnh; quyền lực bạo lực là dựng
sức mạnh để bắt buộc người khác phải phục tùng ý chớ của mỡnh.
- Các quan niệm kinh điển coi quyền lực như đấng tối cao trong hiện thực
chính trị với tư cách là mục đích tối cao và là nguyên nhân đầu tiên của hành vi
chính trị.
- M. Weber cho rằng “ quyền lực là phương tiện để cưỡng bức được sử dụng
trong quá trỡnh xung đột. quyền lực là khả năng dựa trên bất kỳ cơ sở nào của một

chủ thể trong mối quan hệ xó hội sẽ ở vào một vị thế thực hiện được ý chớ của mỡnh
bất chấp sự phản kháng tại vị trí để thực hiện ý chí”. Ông đó khụng chỉ giới hạn cỏc
hỡnh thức biểu hiện của quyền lực bởi cưỡng bức và bạo lực, mà cũn thừa nhận vai
trũ của chớnh kiến, ảnh hưởng uy tín …phạm trù quyền lực được Ông phân tích từ
góc độ khác nhau: tâm lí học, xó hội học, kinh tế học, chớnh trị học…
3
- Theo Đantra, quyền lực là cái giúp ta buộc người khác phải phục tùng.
Lipson cho rằng: “ quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ hoạt động phối hợp”.
4

A. Grazia khái quát: “quyền lực là khả năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng
đến thái độ con người”. B. Russel lại hiểu “quyền lực là cái làm cho người khác hoạt
động theo sự lựa chọn của ta, là khả năng tạo ra sản phẩm có chủ ý”. A.Toffler nhấn
mạnh: “ quyền lực là cái buộc người khác phải hành động theo ý của ta”; bạo lực, của
cải, tri thức là ba dạng phổ biến và cũng là phương thức cơ bản để đạt quyền lực.
2
Lê Minh Tâm: bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước vàâ sự phân công phối hợp trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tạp chí luật học, số 5- 2002, tr 40- 48.
3
Max Weber: quyền lực, sự thống trị và tính hợp pháp ( trong “ Quyền lực trong cỏc xó hội hiện
đại”, Nxb S. Phancisco, 1993( bản dịch), tr 31.
4
Xem, Dương Xuân Ngọc( chủ biên), Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1999, tr
105
7
- Theo G. Wassrman: “quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng đến hành vi của
người khác, là khiến cho người khác làm một việc mà họ không muốn làm”.
5
- Theo “Bách khoa toàn thư” ( Liên Xô), quyền lực là phạm phù dùng để chỉ
khả năng thực hiện ý chớ của mỡnh tỏc động lên hành vi, phẩm hạnh của người khác

thông qua một phương tiện nào đó như: uy tín, nhà nước, sức mạnh…
6
. Từ điển bách
khoa Việt Nam định nghĩa “ quyền lực là quyền định đoạt và sức mạnh để bảo đảm
sự thực hiện”
7
. Nguyễn Khắc Viện cho rằng, “quyền lực là năng lực được một người
hay nhóm người sử dụng để buộc những cá nhân hay hững nhóm người khác phải có
hành vi nhất định
8
Theo Lưu văn Sùng: quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của
đời sống xó hội, trong đó chủ thể này có thể chi hoặc buộc chủ thể khỏc phải phục
tựng ý chớ của mỡnh nhờ cú sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xó hội
9
Như vậy các nhà khoa học nhấn mạnh quyền lực là quan hệ giữa hai chủ thể:
chi phối và bị chi phối; chỉ huy và tuân thủ phục tùng. Dấu hiệu của sự tồn tại quyền
lực và quan hệ quyền lực là người này có thể buộc người khác phải tuân theo những
mệnh lệnh, ý chớ của mỡnh.
Thậm chí người có quyền có thể tước đoạt mạng sống của một hay nhiều
người khác trong nỗi sợ hói của những người đó và sự chấp nhận hoặc thừa nhận của
cộng đồng. quyền lực là mối quan hệ xã hội đặc biệt, ai chi phối được nó thì buộc
người khác phải phục tùng; việc vận dụng có kết quả mối quan hệ xã hội đặc biệt ai
chi phối được nó thì buộc người khác phải phục tùng; việc vận dụng có kết quả mối
quan hệ đó sẽ cho phép đạt được mục tiêu nhờ hoạt động phối hợp; việc nắm giữ và
sử dụng mối quan hệ đó sẽ cho phép chủ thể tác động tới hành vi, phẩm hạnh người
khác.
5
G. Wassrman: những cơ sở của nền chính trị Mỹ, Nxb Longman (Mỹ), 1997( bản dịch của khoa
chính trị học, Học viện Báo chí- Tuyên truyền)
6

. Bách khoa triết học, M, 1983, tr 15.
7
. Từ điển Bách Khoa Việt Nam, nxb TĐBK, H.2003, tr 638.
8
Xem, Dương Xuân Ngọc( chủ biên), Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1999, tr
105)
9
Viện Khoa học chính trị, học viện CTQGHCM, tập bài giảng Chính trị học, nxb LLCT, H.2004, tr
236)
8
Tổng hợp những khái niệm quyền lực từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, có
thể hiểu: Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của mình, có tác động lên hành vi
của người khác nhờ một ưu thế nào đó như sức mạnh, địa vị xã hội.
1. 1. 2. Khái niệm quyền lực mềm
Những phân tích của các học giả Phương Tây hiện đại về những yếu tố cơ
bản trong thực lực quốc gia đó cung cấp cơ sở lí luận đầu tiên cho chúng ta nghiên
cứu trong lĩnh vực này các quan điểm có thể chia làm ba phái:
- Thứ nhất : học phái phân tích định tính. Nhân vật tiêu biểu là Hans
Morgenthau và Raymon Alon.
Raymon Alon tổng kết quốc gia bao gốm ba yếu tố cơ bản là : A- chiếm
lĩnh không gian địa lí; B - tài nguyên : bao gồm cả vật chất và con người ; C -năng
lực hành động tập thể liên quan đến tổ chức quân sự, kết cấu xó hội và chất lượng.
Hans Morgenthau lại cho rằng sự tạo dựng thực lực quốc gia chủ yếu
được quyết định bởi 9 yếu tố lớn là : địa lí, tài nguyên thiên nhiên, sức mạnh công
nghiệp, chất lượng quân sự, dân số, đặc tính dân tộc, sĩ khí của quốc dân, chất lượng
ngoại giao và chất lượng chính phủ.
- Thứ hai, học phái phân tích định lượng, hay cũn gọi là học phỏi phõn
tớch hành vi chủ nghĩa. Học phỏi này cho rằng phương pháp phân tích định tính
không phân giải, lượng hóa đầy đủ tất cả các yếu toostrong thực lực quốc gia mà
những khái niệm không được lượng hóa sẽ không chính xác không khoa học. Nhân

vật tiêu biểu của học phái này là Steven Bramus và Caer. Trong cuốn “ phân tích
quan hệ quốc tế” Caer đó nờu quan điểm “ phan tích quyền lực” đồng thời áp dụng
quan điểm này để phân tớch thực lực quốc gia. Cũn Steven dựa vào sức ảnh hưởng
của quan hệ giao lưu qua lại để xác định quyền lực và sức ảnh hưởng.
- Thứ ba, học phái kết hợp định tính và định lượng. Nhân vật đại diện
chính là Clain. Ông đó kết hợp phõn tớch định hướng kết hợp với phân tích các yếu
tố quan trọng của sức mạnh, đưa ra một công thức nổi tiếng để đánh giá thực lực
toonhr hợp của một quốc gia, gọi là công thức Clain:
P= ( C+ E + M) x ( S+ M)
9
Tức là, thực lực quốc gia = [(dõn số+ lónh thổ) + năng lực kinh tế+ năng lực
quân sự ]x (ý đồ chiến lược+ quán triệt chiến lược quốc gia)
Tuy nhiên, các học giả Phương Tây thuộc học phái thứ ba chưa coi trọng
đầy đủ tài nguyên quyền lực mềm văn hóa, mà nhấn mạng nhiều hơn tới quyền lực
mềm vật chất.
Học giả Trung Quốc : Hoàng Thạc Phong đó khỏi quỏt quốc lực tổng hợp
là : sức ảnh hưởng quốc tế và toàn toàn bộ thực lực bờn trong bao gồm cả quyền lực
vật chất và quyền lực tinh thần cũn gọi là quyền lực mềm, bao gồm cả cỏc yếu tố
mềm hỡnh thức tõm lớ và trớ lực. Những yếu tố này quyết định các yếu tố mềm này
quyết dịnh mức độ phát huy hiệu quả của hỡnh thái vật chất( quyền lực cứng).
Quyền lực này bao gồm cả lực chính trị, lực văn hóa, giáo dục, lực ngoại
giao và lực hiệp đồng
Quyền lực mềm là một khái niệm trong ngành chính trị học và quan hệ
quốc tế được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1973 trong cuốn “ quyền lực và thịnh
vượng” của Klans Knosr. Khái niệm này sau được giáo sư Joseph Nye nghiên cứu và
định nghĩa một cách nghiêm túc
Năm 1990, lần đầu tiên trong quan hệ quốc tế khái niệm quyền lực
cứng( dịch thuật ngữ gốc “ soft power” được biết đến bên cạnh khái niệm quyền lực
cứng truyền thống. Khái niệm mới này đó làm thay đổi cách tiếp cận trong quan hệ
quốc tế hiện đại và đưa tên tuoior Joseph Nye vào lịch sử.

Trong cuốn sách « lónh đạo đó được định trước» xuất bản năm 1990, Nye
càng cho rằng, trong thế giới ngày nay, Mỹ không chỉ có lợi thế về quyền lực cứng
như kinh tế, quõn sự, mà cũn cú lợi thế về quyền lực mềm như văn hóa, quan điểm
về giá trị và hỡnh thỏi ý thức… ễng cho rằng từ khi bước vào thời kỡ hậu chiến tranh
lạnh đến nay cùng với kí thuật không ngừng được nâng cao, mức độ phụ thuộc vào
nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, sự xuất hiện của các chủ thể hành vi xuyên
quốc gia mới, sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc nước nhỏ và sự thay đổi chủ đề
chính trị ngày càng phân tán, nước lớn ngày càng không thể lợi dụng các nguồn sức
mạnh truyền thống để thực hiện mục tiờu của mỡnh.
10
Trong cuốn sách này ông cho rằng : “ quyền lực mềm là khả năng hướng tới
mục tiêu bằng sức hấp dẫn của mỡnh chứ không phải bằng cách cưỡng ép trong các
công việc quốc tế”. Quyền lực mềm bắt nguồn từ ba yếu tố: văn hóa ( phát huy tác
dụng hấp dẫn đối với các nước khác), quan điểm giá trị (khi ở trong và ngoài nước
đều thực sự thực hành những giá trị này) và chính sách ngoại giao (khi chính sách
được coi là hợp pháp và uy tín đạo đức).
Trong cuốn sách “ Bound to lead the chaning nature of American Power”
( vượt lên để dẫn đầu: bản chất đang thay đổi của quyền lực Mỹ), Nye cho rằng việc
làm các quóc gia khác nhau thay đổi có thể được gọi là phương pháp chi phối hoặc
chỉ huy của việc thể hiện quyền lực và có thể được thực hiện dựa vào sự dụ dỗ (củ cà
rốt) hoặc đe dọa (cây gậy). Tuy nhiên, quyền lực có thể được thực thi một cách gián
tiếp mà theo Nye mô tả, chính là “bộ mặt thứ hai của quyền lực”
« Trong nền chính trị thế giới, một quốc gia có thể đạt được những kết
quả mong muốn khi các quốc gia khác nhau muốn đi theo họ hoặc đồng ý với một hệ
thống có
́
thể đem lại những kết quả như vậy. Khía cạnh này của quyền lực khiến cho
các nước khác muốn điều mỡnh muốn, có thể được gọi là các quyền lực gián tiếp
hoặc quyền lực kết nạp, điều này trái ngược với hành vi quyền lực chi phối chủ động
nhằm khiến người khác làm điều mỡnh muốn, quyền lực kết nạp cú thể dựa trờn việc

thu hỳt ý tưởng của một người nào đó hoặc dựa vào khả năng xây dựng chương trỡnh
nghị sự theo cỏch mà sẽ hỡnh thành những ưu tiên mà người khác đưa ra…khả năng
thành lập những ưu tiên có khuyng hướng kết hợp với những nguồn lực hữu hỡnh như
quân sự hoặc sức mạnh kinh tế ».
Trong cuốn sách khác : “ the Paradox of American Power- Why the
world’s only super power can’t go it alone” ( nghịch lí của quyền lực Mĩ- tại sao siêu
cường lớn nhất trên thế giới lại không thể đứng một mỡnh) xuất bản năm 2002, Nye
đã mô tả các nguồn lực của quyền lực mềm như sau:
“ Sức mạnh mềm không đơn thuần chỉ giống như ảnh hưởng… quyền lực
mềm cũn hơn là sự thuyết phục hoặc khả năng lay chuyển con người bằng tranh
luận…xét theo hành vi thỡ quyền lực mềm là sức mạnh thu hỳt. Về mặt nguồn lực, thỡ
quyền lực quyền lực mềm là những thứ tạo ra sức hấp dẫn đó... Quyền lực mềm của
11
một đất nước nằm chủ yếu trong 3 nguồn lực: văn hóa (tại thời điểm mà nó có tính
thu hút đối với những người khác), giá trị chính trị (khi quốc gia này hành xử đúng
với những giỏ trị của mỡnh trong cả mụi trường trong nước và ngoài nước) và chính
sách đối ngoại( khi chúng được xem xét như có tính hợp pháp và thẩm quyền về đạo
đức)”
Gần một thập niên sau, năm 1999 trong bài viết “ xác định lại mối quan tâm
của quốc gia” (Redefining the nation interest) trên tạp chí Foreign Affairs, Nye hoàn
thiện khái niệm này khi nhấn mạnh vào sức thuyết phục của thông tin. Trong cuốn “
vỡ sao chỉ cú sức mạnh quõn sự là chưa đủ” ( Why ministory power is no longer
enough ) xuất bản năm 2002, ông định nghĩa : quyền lực mềm chính là khả năng
khiến người khác muốn cái mà bạn muốn”
Trong cuốn “ soft power: hard Power and learship : the benefits of soft
power” compass: a journal of leadership( 2004). Ông cho rằng
“Lónh đạo và quyền lực luôn đi đôi với nhau không tách rời. Nói rộng ra
quyền lực là khả năng tác động tới hành vi của những người khác để có thể đạt được
kết quả mà bạn mong muốn mà có ba cách cơ bản để làm điều đó
1. Bạn có thể dụ dỗ họ bằng cách trả tiền

2. Bạn có thể buộc họ bằng cách đe dọa.
3. Bạn có thể thu hút họ và dựa vào họ.
Quyền lực mềm dựa tren khả năng hỡnh thành nên sự tham khảo cho những người
khác
Trong khái niệm hành vi, quyền lực mềm đơn giản là những quyền thu hút người
khác bằng các phẩm chất vốn có và bằng hiệu quả của việc họ truyền đạt”.
Trong cuốn “ soft power – the mean to success in world politis” (quyền lực
mềm- phương tiện để giành thắng lợi trong chính trị thế giới) xuất bản 2004 Nye tiếp
tục phát triển khái niệm quyền lực mềmvà khai thỏc những ẩn ý và hạn chế của
quyền lực mềm theo những cỏch mà ụng chua hề làm trong hai tỏc phẩm trước đay
của ông, Theo Nye, “ Quyền lực mềm là khả năng đạt được điều mà bạn muốn thông
qua sức hấp dẫn về văn hóa, tư tưởng chính trị và các chính sách của một quốc gia.
Ông cũng nhấn mạnh rằng, sự hấp dẫn sẽ tạo nên điểm khởi đầu và khi các chính
12
sách của một quốc gia được nhỡn nhận hợp phỏp trong mắt những nước khác thỡ cú
nghĩa là quyền lực mềm của nước đó được tăng cường”.
Trong cuốn : “tái suy ngẫm về khái niệm quyền lực mềm” ( think again :
soft power), xuất bản năm 2006, ông cho rằng : “quyền lực mềm đơn giản thông qua
sự thu hút, hấp dẫn hoặc dụ đỗ của mỡnh làm thay đổi hành vi của người khác, từ đó
đạt được cái mà mỡnh cần”. Ngoài ra ễng cũn chỉ ra ba nguồn gốc của quyền lực
mềm. Đó là văn hóa, thể chế chính trị và chính sách ngoại giao của một nước. Quyền
lực mềm là sức hấp dẫn được hỡnh thành từ văn hóa, lí tưởng chính sách của một
nước. Ông cũn khỏi quỏt quyền lực mềm là sự ảnh hưởng, sức hấp dẫn, và khả năng
bắt chước, là một loại thực lực, có năng lực đồng hóa , những điều thu được từ
quyền lực có khả năng đồng hóa này là sức hấp dẫn của tư tưởng quốc gia. Hoặc có
khả năng hướng dẫn chính trị ở mức độ nào đó có thể thể hiện ý nguyện của nước
khác
Khả năng chi phối được ý nguyện của người khác này có liên quan mật thiết
với lực lượng vô hỡnh như văn hóa, hỡnh thỏi ý thức và chế độ xó hội...
“ Tính phổ cập của nền văn hóa một nước và năng lực thiết lập những chuẩn tắc và

cơ chế có lợi cho bản thân khi làm chủ những quy phạm hành vi quốc tế, đều là
nguồn gốc quan trong của quyền lực mềm” .Vỡ vậy, Ông cho rằng : sự yếu của lực
lượng vô hỡnh cú thể đánh giá được nhờ vào sự tập trung của quóc gia , tính phổ cập
toàn cầu văn hóa và vai trũ trong cơ cấu quốc tế
Như vậy, qua khảo sát quá trỡnh hoàn thiện định nghĩa về quyền lực mềm
của Nye- người được cho là tiên phong nghiên cứu về vấn đề này, có thể khái quát
các nội dung cơ bản của quyền lực mềm bao gồm :
Thứ nhất: sức hấp dẫn và ảnh hưởng của văn hóa.
Thứ hai: sự hấp dẫn về hỡnh thỏi ý thức xó hội, cỏc quan điwểm về giá trị và
chính sách quốc gia
Thứ ba: chính sách đối ngoại đúng đắn.
Thứ tư: xử lí các mối quan hệ trong nước vừa có tỡnh, vừa cú lớ.
Thứ năm: sức hấp dẫn của đường lối phát triển và hỡnh thức chế độ
Thứ sáu: năng lực chỉ đạo; hoạch định và kiểm soát quy phạm quốc tế
13
Thứ bảy: mức độ ủng hộ, tán dương của dư luận quốc tế với hỉnh ảnh quốc gia
Khi giải thích về nguồn gốc quyền lực mềm phát huy tác dụng thế nào đối với
cộng đồng quốc tế, Joseph Nye nờu rừ: nếu một nước có thể là cho quyền lực của
mỡnh hợp phỏp ở một nước khác, thỡ khi thực hiện ý chớ của mỡnh sẽ gặp phải sự
chống đối. nếu văn hóa và hỡnh thỏi ý thức của nước đó có sức hấp dẫn thỡ khi thức
hiện ý chớ của mỡnh sẽ ớt gặp phải sự chống đối.
1.1.3. Khái niệm quyền lực cứng.
Trong xó hội, bất kỡ giai cấp hay cỏ nhân nào đều muốn có quyền lực.
Đó là công cụ để thực hiện những hành vi hoặc buộc người khác phải thực hiện hành
vi nhất định theo ý chớ của người có quyền hoặc được trao quyền.
Trong mối quan hệ giữa các cá nhân; dân tộc hay giữa các quốc gia.
Quyền lực cứng được hiểu là sức mạnh quân sự, khoa học công nghệ, kinh tế, các
nhân tố này là điều kiện tăng cường quyền lực uy tín của một quốc gia hay của nhà
lónh đạo cầm quyền. Là điều kiện tăng cường quyền lực uy tín của một quốc gia
hay của nhà lónh đạo cầm quyền. Là công cụ để chủ thể này tác động lên chủ thể

khác buộc đối tượng kia phải phục tùng.
Quyền lực cứng được thực hiện thông qua sự đe dọa, dụ dỗ hoặc trả lương
khen thưởng. Hai nguồn chính của quyền lực cứng là đe dọa và dụ dỗ khen thưởng
và tiền hoa hồng, chúng ta sẽ hài lũng hơn là khi bị đe dọa nhưng chúng có thể tạo
thành một mối đe dọa nguy hiểm.
Quyền lực cứng là biện pháp được sử dụng phổ biến trong lịch sử và cho
tới nay nó vẫn được xem là công cụ phổ biến và có hiệu quả được tất cả các quốc gia
sử dụng và và chưa có thể thay thế hoàn toàn được nó.
1.1.4. Đặc điểm của quyền lực mềm trong quan hệ quốc tế.
Nếu văn hóa và hỡnh thỏi ý thức của nước đó có sức hấp dẫn càng mong
muốn học tập theo. Nếu nước đó có thể xây dựng được một quy phạm quốc tế giống
xó hội của mỡnh, thỡ khả năng phải thay đổi chính mỡnh là rất nhỏ. Nếu nước đó có
thể giúp đỡ ủng hộ những chế độ, khuyến khích các nước khác lựa chọn hoặc hạn
14
chế hành vi của mỡnh dựa trên cách thức mà quốc gia chủ chốt thớch thỡ quỏ trỡnh
mặc cả co
́
thể không cần thực hiện cưỡng chế hoặc sử dụng quyền lực cứng.
10

Như Nye đó núi : sức mạnh mềm chớnh là loại sức hấp dẫn tỏc động gián
tiếp vào hành vi của người khác. Những lợi ích mà quyền lực mềm mang lại cho một
quốc gia không phải là những lợi ích có thể thấy được ngay, nhưng nó lại mang đến
nhưng tác dụng ngoài mong muốn.
Với các quốc gia- dân tộc, quyền lực mềm là công cụ quan trọng trong
việc thực thi chính sách đối ngoại. khi nói về những lợi ích của quyền lực mềm,
Joseph. S. Nye cho rằng trong quan hệ quốc tế, một quốc gia có thể tác động vào
một quốc gia khác một cách tự nhiên thông qua các giá trị như ý chí, kĩ năng ngoại
giao, khả năng huy động sự ủng hộ nội bộ hay hệ tư tưởng tôn giáo… và khi giá trị
của một quốc gia được nhiều nước khác chia sẻ thỡ quốc gia đó có thể dễ dàng gây

ảnh hưởng lên hành vi của quốc giai khác.
Quan điểm này của Nye được Joshua S. Goldstein chia sẻ khi Goldstein
cho rằng ý quyền lực ý tưởng có thể giúp tối đa hóa các khả năng ảnh hưởng thông
qua quy trỡnh tõm lớ Và một quốc gia có thể nhận được sự ảnh hưởng quốc tế thông
qua việc trở thành người làm luật hay thay đổi cách nhỡn của quốc gia khác đối với
quốc gia họ.
1.1.5. Mối quan hệ giữa quyền lực cứng và quyền lực mềm.
Quyền lực cứng và quyền lực mềm là hai khía cạnh của khả năng giành
được mục tiêu của một người mục tiêu của một người bằng việc tác động lên hành vi
của chủ thể này lên hành vi của chủ thể khác. Đôi khi mọi người bị thu hút vào
những người khác có quyền điều khiển bằng sự hoang đường của họ không thể đánh
bại.
Osama Bin Laden đó núi trong mụ
̣
t đoạn băng của ông ta “ khi mọi người
thấy một con ngựa khỏe mạnh và một con ngựa yếu, theo tự nhiên họ sẽ thích con
ngựa khỏe”. Đôi khi những kẻ hăm dọa lớn cú một tầm nhỡn và danh tiếng cho
thành công mà thu hút những người khác bất kể hành vi lưu manh của họ - nhỡn
10
Joseph S.Nye: Bound to lead the changing nature of American New York : Basic book inc
Pubicshess, 1990 p, 32- 33.
15
nhũng minh chứng như Strejob, Math stewart và Hyman Rickover- cha đẻ của hải
quân hạt nhân
Quyền lực cứng và quyền lực mềm đôi khi củng cố và can thiệp lẫn nhau.
Hầu như mọi nhà lónh đạo cần một mức độ chắc chắn của quyền lực mềm
Khi việc tập luyện quyền lực cứng thấp hơn quyền lực mềm nó sẽ làm cho
việc lónh đạo khó khăn hơn. Khả năng để tập hợp quyền lực cứng và quyền lực mềm
một cách có lợi là quyền lực thông minh. Quyền lực mềm không phải tự thân nó là
tốt và cũng không phải lúc nào cũng tốt hơn quyền lực cứng.

Không ai thích lại bị lôi kéo thậm chí bằng quyền lực mềm. Giống như nhiều loại
quyền lực nó có thể được mong muốn cho mục đích tốt hay xấu và những mục đích
này thường thay đổi trong mắt những nguời nhỡn nú.
Đối với một quốc gia đều là cách thức để một quốc gia tạo ảnh hưởng tác
động ra bên ngoài thể hiện quyền lực của mỡnh. Cả quyền lực cứng và quyền lực
mềm chỉ phỏt huy sức mạnh của nú ở một mặt nào đó. Quyền lực nào mạnh hơn cũn
tựy thuộc vào từng tỡnh huống cụ thể mà quốc gia muốn đạt tới. nếu như trong một
cuộc chiến tất nhiên quyền lực cứng sẽ quan trọng hơn. Cũn nếu bạn muốn thỳc đẩy
dân chủ thỡ quyền lực mềm cú ý nghĩa hơn. Quốc gia đó không thể “ xuất khẩu” dân
chủ đó thông qua súng đạn mà chỉ có thể thông qua ý tưởng.
Khi việc sử dụng quyền lực cứng thấp hơn quyền lực mềm nó làm cho
việc lónh đạo khó khăn hơn. Quyền lực cứng tạo cho người lónh đạo được quyền để
ép buộc đối tượng.
Việc sử dụng cả phong cách quyền lực cứng và quyền lực mềm để được
các mục tiêu chuyển đổi để giới hạn các mục tiêu hoặc để bảo vệ tỡnh trạng hiện tại.
Cả hai quyền lực này đều là cách thức để một quốc gia tạo ảnh hưởng tác động ra
bên ngoài, thể hiện quyền lực của mỡnh. Việc kết kợp giữa chúng sẽ tạo ra thứ
quyền lực thông minh( smart power) tạo ra chiến lược thành công; quyền lực cứng
là khả năng để phát huy được quyền lực mềm, giúp quyền lực mềm hấp dẫn. Ngược
lại, quyền lực mềm tạo khả năng cho việc hành động quyền quyền lực cứng tăng lên,
có hiệu quả hơn. Đó là khả năng kết hợp giữa công cụ quyền lực cứng và quyền lực
mềm cho một chiến lược thành công.
16
Trong xu thế hiện nay cỏc quốc gia trờn thế giới muốn phỏt triển bền vững
thỡ cần phải cú sự liờn kết, hợp tỏc với nhau. Dung hũa đối với chủ quyền quốc gia
và lợi ích dân tộc, thúc đẩy sự hỡnh thành lợi ớch của toàn nhân loại,. cuối cùng
trong tương lai sẽ trở thành quốc gia không biên giới. Việc tồn tại dựa vào nhau
không chỉ qua lại lẫn nhau, tồn tại dựa vào nhau mang tính nhạy cảm và mang tính
mềm yếu để giả thích được quyền lực được tạo ra từ tồn tại dựa vào nhau không
tương xứng như thế nào.

1.1.6. Đặc điểm của quyền lực mềm trong quan hệ quốc tế.
Theo Joseph Nye đặc điểm đầu tiên của quyền lực mềm trong quan hệ
quốc tế là sự tập hợp đầy đủ các đặc điểm của văn hóa quốc gia, giá trị chính trị và
chính sách đối ngoại bởi đây là ba nguồn lực chính cấu thành nên quyền lực mềm.
Quyền lực mềm phát huy tác dụng thông qua sức hấp dẫn của văn hóa và
hỡnh thỏi ý thức chứ khụng phải bằng cỏch cưỡng ép, trừng phạt kinh tế và quân sự,
quyền lực mềm không mang tính độc quyền. Nguồn quyền lực mềm không thể bị
một số các quốc gia hoặc tổ chức quốc tế nào độc quyền. Nguồn quyền lực mềm cơ
bản như văn hóa tri thức không bao giờ, có thể độc quyền; ảnh hưởng của quyền lực
mềm là vụ hỡnh nhưng lại rất sâu sắc. Nếu một gia có quyền lực mềm quốc gia đó
có thể thu được nguồn lợi rất lớn từ hiệu quả của quyền lực mềm mà không phải trả
tiền nhiều.
Đặc điểm thứ hai: trên thực tế quyền lực mềm trong quan hệ quốc tế
thường được kết hợp triển khai với quyền lực cứng chứ không đơn thuần đứng độc
lập một mỡnh. Sự kết hợp đó đó được gọi là quyền lực thông minh
Ví dụ như sức mạnh quân sự có thể được xem là quyền lực cứng để giành
được thắng lợi trong cuộc chiến. Tuy nhiên, khi lực lượng hải quân Hoa Kỡ tiến
hành các hoạt động cứu trợ nạn nhân sóng thần, cứu giúp nhiều người dân châu Á,
điều này đó khiến nước Mĩ trở nên hấp dẫn hơn. Như vậy, việc triển khai hoạt động
của hải quân Mĩ vốn được xem là quyền lực cứng trong cuộc chiến có thể được sử
dụng như là một quyền lực mềm với việc cứu giỳp hàng nghỡn người dân châu Á
trong đợt bị sóng thần.
17
Đặc điểm thứ ba, là sự tiềm ẩn của quyền lực mềm. Không một nhà hoạch
định nào có thể cân, đong đo đếm một cách cụ thể và chính xác quyền lực mềm và
cũng không thể dự đoán được những tác động và những ảnh hưởng mà quyền lực
mềm có thể mang lại cho một quốc gia.
Hiện nay, trong chính sách đối ngoại của mỡnh, cỏc quốc gia đều nhận thức
tầm quan trọng và tác động tích cực từ việc vận dụng quyền lực mềm. những lợi ích
mà quyền lực mềm mang lại cho một quốc gia không phải là những lợi ích có thể

thấy ngay được nhưng nó lại mạng lại những tác dụng ngoài mong muốn.
Với các quốc gia – dân tộc quyền lực mềm là công cụ quan trọng trong việc
thực thi chính sách đối ngoại. Khi nói về những lợi ích của quyền lực mềm, Josph
Nye cho rằng, trong quan hệ quốc tế một quốc gia có thể tác động vào một quốc gia
khác “ một cách tự nhiên” thông quan các giá trị như ý chí, khả năng ngoại giao, khả
năng huy động ủng hộ nội bộ hay hệ tư tưởng tôn giáo … và khi giá trị của một quốc
gia được nhiều nước khác chia sẻ thỡ quốc gia đó có thể dễ dàng gây ảnh hưởng lên
hành vi của quốc gia khác. Quan điểm này của Nye được Joshua S. Goldstein chia sẻ
khi cho rằng quyền lực ý tưởng có thể giúp “tối đa hóa các khả năng ảnh hưởng
thông qua quy trỡnh tõm lớ” và một quốc gia cú thể thu được ảnh hưởng quốc tế
thông qua việc trở thành người làm luật hay thay đổi cách nhỡn của quốc gia khỏc
đối với lợi ích quốc gia của họ.
Chớnh vỡ vậy, trong xõy dựng chớnh sỏch đối ngoại, bên cạnh loại sức
mạnh truyền thống, các quốc gia luôn nhấn mạnh việc áp dụng triệt để các biện pháp
sử dụng quyền lực mềm nhằm đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược đó đề
ra.
Việc phát huy quyền lực mềm chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố:
Trước hết, là chịu sự tác động của nhân tố nguồn tài nguyờn chớnh trị. Do
bất bỡnh đẳng trong phát triển chính trị, kinh tế thế giới, nguồn tài nguyên chính trị
của các nước khác nhau, những nước có nguồn tài nguyên chính trị phong phú
thường có nhiều nguồn quyền lực mềm hơn, có thể phát huy một cách có hiệu quả
tác dụng của quyền lực mềm. Trong khi đó những nước nhỏ và yếu thỡ thiếu nguồn
tài nguyên chính trị. Vỡ vậy, việc phát huy hiệu quả và tác dụng của quyền lực mềm
18
chịu sự hạn chế về thiếu nguồn tài nguyên quyền lực mềm, từ đó ảnh hưởng tới việc
phát huy vai trũ của nú.
Thứ hai, sự khác nhau về hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên quyền lực
mềm cũng ảnh hưởng tới việc phát huy hiệu quả và tác dụng của quyền lực mềm.
Nguồn tài nguyên quyền lực mềm phải thực thi mới có thể phát huy tác dụng. Trong
quỏ trỡnh thực thi, kĩ năng và hiệu quả trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả của quyền lực

mềm. Sự chênh lệch về hiệu quả sử dụng nguồn lực quyền lực mềm của các chủ thể
hành vi làm cho hiệu quả của quyền lực mềm của các chủ thể hành vi làm cho hiệu
quả của quyền lực mềm khác nhau rất nhiều.
Thứ ba, mục tiêu thực thi quyền lực mềm của các chủ thể hành vi khác
nhau cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc phát huy vai trũ quyền lực mềm.
Quyền lực mềm ngày càng trở thành thành phần, hạt nhân trong địa vị quốc tế của
một quốc gia, việc đặt quyền lực mềm ở tầm cao chiến lược trở thành yêu cầu căn
bản thực hiện mục tiêu tổng thể quốc gia, đưa quyền lực mềm vào đánh giá chung
quyền lực mềm vào đánh giá chung sức mạnh của quốc gia và điều chỉnh yếu tố cơ
bản của nó.
1. 1.7. Các hạn chế của quyền lực mềm.
Giống như các loại quyền lực mềm khác, quyền lực mềm không phải là giải
pháp cho tất cả các loại vấn đề.
Theo Joseph Nye quyền lực mềm là khả năng đạt được nhiều điều mỡnh muốn
thông qua sức hấp dẫn chứ không phải bằng sự mua chuộc hay ép buộc. quyền lực
đó xuất phát từ sự hấp dẫn về tư tưởng chính trị, các giá trị văn hóa và các chính
sách của một quốc gia. Nye nhấn mạnh, quyền lực là loại sức mạnh có thể dễ dàng
tác động lên hành vi của quốc gia khác mà không cần phải sử dụng đến các loại
quyền lực cân, đo, đong, đếm.
Như vậy, bản chất của quyền lực mềm là sự tác động thông qua yếu tố tâm lí
và quy trỡnh tõm lớ này đũi hỏi phải mất nhiều thời gian mới cú thể đạt được những
hiệu quả như mong muốn. Vỡ vậy, khi các quốc gia triển khai chính sách mở rộng
thông qua quyền lực mềm, hiệu quả không thể thấy được ngay mà mất nhiều thời
gian mới đạt được hiệu quả mong đợi.
19
Quyền lực mềm đó bị chỉ trớch là khụng cú hiệu quả do tỏc giả Niall
Ferguson trong lời nói đầu cuốn Clossus: các tác giả duy lí này chỉ rằng mục đích lí
thuyết mà các chủ thể trong quan hệ quốc tế tuơng ứng chỉ có hai loại ưu đói về kinh
tế và quõn sự.
Ngoài ra, quyền lực mềm chỉ thực sự được triển khai hiệu quả khi quốc

gia thực hiện nó có những giá trị được nhiều người mến mộ và chia sẻ. Đó là những
cơ sở rất quan trọng để các nước triển khai và mở rộng quyền lực mềm. Thế nhưng,
đây cũng chính là một nhược điểm của quyền lực bởi không phải quốc gia nào cũng
có thể áp dụng chiến, lược mở rộng quyền lực mềm mặc dù người ta có thể cho rằng:
quyền lực mềm không phải chỉ là “sân chơi” của các đại gia. Bên cạnh đó, cũng
giống như quyền lực cứng, bản thân quyền lực mềm khi được triển khai quá mạnh
mẽ cũng có thể gây ra những hậu quả không mong muốn phản tác dụng, có thể thấy
dẫn chứng:
Tại Châu Phi, trong thời gian gần đây lónh đạo cao cấp Trung Quốc liên
tiếp thăm Châu Phi tuyên bố xóa nợ 1 tỷ USD cho Châu Phi, triển khai hơn 900 dự
án đầu tư xây dựng sân vận động, đường xó, bệnh viện và trường học. Trung Quốc
cũng đào tạo trên một nghỡn sinh viờn Chõu Phi tại cỏc trường đại học ở Trung
Quốc và cử hơn 900 bác sĩ làm việc tại Châu Phi. Các quốc gia ở khu vực này gần
đây đang tỏ ra vẻ hoài nghi về ý đồ của Trung Quốc đối với các nước này.
Cuối cùng, khái niệm “ quyền lực mềm” được Joseph Nye đưa ra có nội
dung khá hẹp, chủ yếu tạp trung vào sự phân tích sự triển khai quyền lực mềm thông
qua các hoạt động kinh tế mà chưa đề cập đến ca các haotj động khác như nhà đầu
tư, viện trợ hay ngoại giao. Trong khi đó, ở Châu Á, biểu hiện của quyền lực mềm
được mở rộng hơn. Cụ thể là, đối với Trung Quốc, là việc triển khai quyền lực mềm
của nước này đối với các nước láng giềng Đông Nam Á bao gồm hoạt động văn hóa,
ngoại giao, việc gia nhập các tổ chức diễn đàn khu vực các hoạt động thương mại ở
nước ngoài và vai trũ hấp dẫn của kinh tế, viện trợ đầu tư…Vỡ vậy, quyền lực mềm
như người ta thường nói ngày nay ẩn chứa tất cả các nhân tố ngoài lĩnh vực an ninh
chứ không đơn thuần là các hoạt động trao đổi và viện trợ kinh tế như Nye đó đề cập
trong học thuyết của mỡnh.
20
1. 2. Quan điểm của Trung Quốc về quyền lực mềm
1.2.1.Quyền lực mềm hay sức mạnh mềm.
Theo tiếng Anh từ Power có nghĩa là quyền lực mềm hay sức mạnh mềm.
Tuy nhiên, hai phạm trù này khác nhau, sức mạnh mềm muốn trở thành quyền lực

mềm cần phải có điều kiện chuyển hóa nhất định. Hạt nhân của chiến lược truyền bá
đối ngoại Trung Quốc là phải sử dụng các biện pháp truyền bá để thực hiện sức
mạnh mềm đó co
́
, làm cho nó trở thành quyền lực hóa.
Từ khi khái niệm quyền lực mềm ( soft power) ra đời một số học giả
nghiên cứu về quan hệ quốc tế và ngoại giao của Trung Quốc đó tiến hành thảo luận
nghiên cứu toàn diện về định nghĩa, nguồn gốc, đặc tính, yếu tố, tầng thứ, phân loại
tác dụng của nó. Nhưng cho đến nay, trong giới học thuật vẫn tồn tại tranh cói khỏ
lớn về nội hàm cơ bản của nó. Vỡ vậy trong sự lựa chọn con đường nâng cao quyền
lực mềm của Trung Quốc, các học giả cũng có nhiều cách nói khác nhau, khó đạt
được sự đồng thuận.
Từ khi du nhập vào Trung Quốc đến nay, từ “ Soft Power” phải đối diện
với vấn đề phiên dịch , các học giả có nói khác nhau về nó. Hiện nay, trong giới học
thuật, từ này có ba tên phiên dịch bằng tiếng Trung Hoa: quyền lực mềm, sức mạnh
mềm và lực lượng mềm. cỏc tờn phiờn dịch khú này khú cú thể phõn cao thấp về tần
suất sử dụng và tỡnh trạng sử dụng lẫn lộn vẫn chưa có gỡ thay đổi. thực ra cách
dịch khác nhau phản ánh trọng tâm lí giải và xu hướng tư duy khác nhau của người
dịch. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất để xóa bỏ sự khác biệt trong việc dịch từ “
Soft Power” là phải trở lại ngữ cảnh sử dụng ban đầu của nó.
Ban đầu, Nye định nghĩa “ soft power” như sau: một nước khiến nước
khác ( tự nguyện) yêu cầu những nước này muốn mà không ép buộc, ra lệnh cho
nước khác làm những việc mà nước này muốn, do nước khác đi theo, một nước có
thể đạt được kết quả mà nó mong muốn
Rừ ràng, ở đây Nye chỉ ra : “soft power” là sức ảnh hưởng, sức chi phối
hoặc sức khống chế đặc thù, không mang sức cưỡng chế, là “lực hút”, sức cảm hóa
và kêu gọi (lây lan và cảm hóa) sức hấp dẫn, sức thuyết phục
21
Từ góc độ loại hỡnh lực lượng, Nye đó giới hạn phạm vi của “ soft
power”, cho rằng sức mạnh bao gồm sức mạnh hành vi (behavioral power) và sức

mạnh tài nguyên( resource power):
+ Sức mạnh hành vi chỉ khả năng đạt được kết quả mong muốn
+ Sức mạnh tài nguyên lại chỉ tài nguyên có đưiocj liên quan đến năng lực đạt
được kết quả mong muốn
“ Soft power” và “ hard power” cùng tồn tại và cùng thuộc về sức mạnh
hành vi: trong đó, “ soft Power” chỉ năng lực đạt được kết quả bạn mong muốn trong
khi người khác muốn, bạn cũng muốn.
Ở đây, Nye đó giới hạn rừ ràng” soft power” là loại năng lực hành vi. Năng
lực này ảnh hưởng đến người khác chứ không phải là tài nguyên hoặc chiếm hữu tài
nguyên. Có thể thấy, Nye đó quy nạp hành vi vào trong quan hệ tỏc dụng và bị tỏc
dụng giữa những người khác, khiến nó thuộc về phạm trù quan hệ, chứ không coi nó
là vật chất ( tài nguyên) hoặc là phạm trù thực thể để xem xét.
Trong xó hội học và chớnh trị học, quyền lực khụng phải là vật chất, mà là
một loại quan hệ mang tớnh ỏp lực khụng cõn bằng, khụng ngang bằng, nú thuộc về
phạm trự quan hệ: “sức mạnh” là loại sức mạnh mang tính thông thường, là một loại
phạm trự thực thể. Rừ ràng, “ quyền lực” và “ sức mạnh” là hai khỏi niệm khỏc
nhau, thuộc về hai phạm trự khỏc nhau.
Theo đó năng lực hành vi là quyền lực có thể gọi là: “ quyền lực hành vi”( mà
không thể nói là sức mạnh hành vi), có thể gọi là “sức mạnh tài nguyên”( mà không
gọi là “ quyền lực tài nguyên”). Và “ soft power” thuộc về năng lực hành vi , mà
năng lực hành vi là quyền lực, tức là “ quyền lực hành vi”. Như vậy, nên diễn đạt
“soft power” của Nye là “ quyền lực mềm” để chỉ ra đặc tính quan hệ nó là năng lực
hành vi.
Nếu dịch “ soft power” thành sức mạnh mềm rừ ràng là đó hiểu sai chủ ý
của Nye, sai là đó coi nú thành vật chất và thực thể. Trong khi đó “ sức mạnh mềm”
lại thuộc về tài nguyên như Nye đó núi. Núi một cỏch chớnh xỏc, nú thể hiện là thực
lực tài nguyờn, tương quan với quyền lực mềm trong sức mạnh tài nguyên. Nó là
“tài nguyên quyền lực vụ hỡnh”.
22
Trên cơ sở “quyền lực mềm” và “sức mạnh mềm” là hai khái niệm hoàn

toàn khác nhau thuộc về hai phạm trù khác nhau, nên dịch “ soft power” về ý nghĩa “
sức mạnh hành vi” là “ quyền lực mềm”. Cũn khi dịch “ soft power” thuộc “ sức
mạnh tài nguyờn” là “sức mạnh mềm”, chỳng ta cú thể tham khảo tỡnh huống và
ngữ cảnh khỏc nhau của từ “ soft power” xác định một cách cụ thể thuộc phạm trù
của nó để có tên dịch tương ứng. Đương nhiên, nếu như “ soft power” thoát khỏi ngữ
cảnh nhất định, khó có thể phân biệt là sức mạnh hành vi hay là sức mạnh tài
nguyên, như vậy có thể dịch là “ lực lượng mềm” một cách chung chung, mơ hồ.
Quả thực, cho dù từ lí luận hay từ giá trị, Nye quan tâm nhiều hơn đến
quan hệ quyền lực bất đối xứng của ảnh hưởng và bị ảnh hưởng trong tác động lẫn
nhau giữa các quốc gia trên thế giới , mà không chỉ giới hạn ở sự nhiều ít của thực
lực tự than trong nội bộ một nước. Do đó, sức mạnh mà ông đó lớ giải là loại hớnh
hướng ngoại. nó đó phỏt huy tỏc dụng thực tế giữa cỏc quốc gia và tạo thành quyền
lực (quan hệ) nào đó. Nó không phải là nội khuynh và không phải là loại hỡnh thực
lực và tiềm lực nội tại. Liên hệ đến các ngữ cảnh sử dụng này, rừ ràng “ soft power”
mà Nye đó núi chớnh là quyền lực mềm. từ ý nghĩa này cú thể núi, Nye là một học
giả về quyền lực mềm chứ không phải là học giả về “sức mạnh mềm” như chúng ta
thường nói.
Trong bối cảnh toàn cầu, ý nghĩa của sức mạnh tài nguyờn quốc gia (bao
gồm sức mạnh mềm) mang tính quan hệ quốc tế , giá trị của nú thể hiện thụng qua
quan hệ quyền lực bất bỡnh đẳng trong sự tác động lẫn nhau giữa các nước. Có
nghĩa là, giá trị của sức mạnh tài nguyên không phải ở chỗ bản thân nắm giữ, mà ở
tác dụng đối ngoại. Có thể thấy, đánh giá thực lực của một nước không chỉ chỉ nhỡn
vào số lượng tài nguyên, mà cũn nhỡn vào chất lượng của nó, xem xét phạm vi và
mức độ ảnh hưởng của nó đối với các nước khác.
Đương nhiên, tài nguyên hoặc bản thân chiếm hữu tài nguyên, tuy không
ngang hàng với năng lực hành vi nhưng tài nguyên hoặc chiếm hữu tài nguyên là cơ
sở năng lực hành vi. Theo lí giải của chủ nghĩa hiện thực, quyền lực bắt nguồn từ sức
mạnh( thực lực), trên cở sở sức mạnh; sức mạnh là tài nguyên gốc, cơ sở và chỗ dựa
của quyền lực. Vỡ vậy sức mạnh quốc gia quyết định quyền lực của quốc gia. Sức
23

mạnh của một quốc gia càng lớn, quyền lực của nó đối với các nước khác hoặc trong
xó hội quốc tế càng lớn. Cũng như vậy, sức mạnh mềm của một nước càng mạnh thì
sức mạnh mềm đối ngoại của nó càng lớn.
Trong xã hội quôc tế sức mạnh hành vi ảnh hưởng đến nước khác với
phương thức đặc thù (phi cưỡng chế), quyền lực mềm của một nước cần dựa vào vận
dụng tài nguyên quyền lực mềm- sức mạnh mềm mới đạt được.
Nye đã chỉ ra: là một loại sức mạnh hấp đẫn, sức mạnh mềm chính là: “ năng
lực hấp dẫn đối phương thông qua sức hấp dẫn kỳ lạ của văn hóa và hình thái ý
thức”
11
, vì thế mấu chốt của vấn đề sức mạnh mềm không phải ở chỗ có thể tăng
cường hoặc nâng cao, mà là ở chỗ phát huy sức mạnh hiện có với tư cách là tiềm
năng, thực thi ảnh hưởng và tác dụng chi phối đói với nước đối tượng hoặc nước
mục tiêu một cách thực tế như thế nào. Do đó, sức mạnh chuyển từ trạng thái thực
tại chuyển hoiá thành quyền lực mềm.
1.2.2. Quan điểm của Trung Quốc về quyền lực mềm.
Quyền lực mềm ngày càng trở thành thành phần hạt nhân trong địa vị quốc
tế của một quốc gia, việc đoạt quyền lực ở tầm cao chiến lược trở thành yêu cầu căn
bản thực hiện mục tiêu tổng thể của quốc gia đưa quyền lực mềm vào đánh giá
chung quyền lực của quóc gia và điều chỉnh yếu tố cơ bản của nó, làm thế nào
chuyển sức mạnh của quốc gia đã được tăng cường của Trung Quốc thành ảnh
hưởng quốc tế mang tính xây dựng một cách có hiệu quả đã trở thành chủ đề thảo
luận sôi nổi của giới chiến lược Trung Quốc.
Ở Trung Quốc, khi giải quyết các mối quan hệ đối ngoại, các chiến lược
quân sự cổ xưa của Trung Quốc tập trung vào những hoạt động ngoại giao hơn là đối
mặt trên chiến trường. Ngay từ thế kỉ IV T.C.N như là một bộ phận của thuật trị
nước, một chiến lược tổng hợp và thống nhất nhằm là lung lạc kẻ thù, phá vỡ sự cân
bằng của họ và cưới cùng là chiến thắng mà không cần phải dụng binh. Đại diện cho
triết thuyết này là Tôn Tử. Ông cho rằng: hành động quân sự chỉ là một bộ phận và
không phải là bộ phận quan trọng nhất trong cách tiếp nhận hài hòa về an ninh. Phần

11
Joseph.S.Nye, “ Prefining the national interest foreign Affairs. July/ August, 1999, p.24
24
quan trọng hơn là liên minh ngoại giao, nhấn mạnh mưu lược, bao gồm: đánh lừa kẻ
thù, bào mòn trận địa của họ…
Tư tưởng của Tôn Tử đã được kế thừa và phát triển qua nhiều thế hệ và trở
thành một bộ phận của di sản truyền thống Trung Quốc. Ông cho rằng” thay vì công
thành tốt hơn nên đánh vào tinh thần của quân địch”… “ trăm trận trăm thắng không
phải là thành công lớn nhất; chinh phục kẻ địch mà không cần phải giao tranh mới là
thành công lớn nhất”
12

Phương cách này tương tự như điều mà chúng ta dịnh nghĩa là quyên flưucj
mềm- tính đạo lý, đạo đức, giá trị và ước vọng của người dân, được gắn liền với văn
hóa truyền thống cụ thể trong đó con người tự khẳng định mình.
Trong thời kì cách mạng văn hóa( 1966- 1979), các học giả Trung Quốc gần
như bị cách ly hoàn toàn với các thuyết quan hệ quốc tế của Phương Tây, phải đến
cuối năm 1980 các học giả Trung Quốc mới cóa thể nghiên cứu các lý thuyết về
quan hệ quốc tế phương Tây một cách rộng rãi. Cho dù chủ nghĩa Tân tự do chỉ
nhận được sự quan tâm hời hợt tại Trung Quốc, nhưng lý thuyết về quyền lực mềm
của Nye lại là một ngoại lệ. Năm 1990, khái niệm quyền lực mềm đã nhanh chóng
du nhập vaũ Trung Quốc. Trong thời gian đầu, giữa học giả Trung Quốc cho rằng,
quyền lực cứng và quyền lực mềm cũng giống như là yếu tố sức mạnh tinh thần và
vật chất.
Đầu năm năm 1990, giới tinh hoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc tin rằng
sức mạnh tinh thần là một công cụ chủ yếu của các nước Phương Tây để thực hiện “
diến biến hòa bình” và nó là nguyên nhân gây ra sự sụp đổ của Liên Xô. Họ thậm chí
còn cho rằng các phong trào sinh viên rộng khắp trong các năm 1986 và 1989 ở
Trung Quốc là do ảnh hưởng của các giá trị văn hóa và chính trị phương Tây, những
nguồn quan trọng của quyền lực mềm. Đặng Tiểu Bình đã từng nói: “sự lan rộng

không thể kiểm soát của sự tự do hóa giai cấp tư sản có thể sẽ có những hậu quả
nghiêm trọng…chủ nghĩa đế quốc đang thúc đẩy diễn biến hòa bình chống lại chủ
12
Tôn Vũ (2009), Binh pháp tôn tử, , HĐ Group, Nxb Hà Nội, 2009, tr 23
25

×