Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Công tác hoạch định chiến lược của công ty dệt vải công nghiệp.Doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.71 KB, 127 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mọi doanh
nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này đòi
hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác
phải biết đổi mới cho phù hợp từ việc nghiên cứu xem sản xuất cái gì, sản xuất
như thế nào đến việc tổ chức điều hành sản xuất ra sao để với chi phí thấp nhất
sản xuất ra những sản phẩm đạt chất lượng đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng. Đứng trước thực tế như vậy Hacatex cũng không ngừng vận động luôn
bám sát để nắm bắt sự thay đổi của thị trường, mạnh dạn áp dụng những thành
tựu của khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tổ chức điều chỉnh lại cơ cấu
lao động, tác phong làm việc công nghiệp trong công ty … Với mục tiêu chất
lượng sản phẩm đặt lên hàng đầu, sản phẩm của HACATEX dù còn mới mẻ
nhưng đã nhanh chóng được thị trường nội địa chấp nhận và trong tương lai
không xa sản phẩm của công ty sẽ vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Trong thời gian ngắn ngủi chỉ có 7 tuần thực tập tại Công ty nhưng em đã
thấy một không khí làm việc rất sôi nổi, nó giúp em hiểu được thực tế hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất nói chung và của công ty nói
riêng trong cơ chế thị trường, giúp em so sánh, kiểm nghiệm và áp dụng những
gì mình đã được lĩnh hội từ các thầy cô đến thực tế sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú trong công ty nhất là các cô chú
trong phòng Tổ chức hành chính đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Mạnh Hùng - giảng viên
khoa Kinh tế đã nhiệt tình hướng dẫn em, giúp em hoàn thành báo cáo thực tập
tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2004
Sinh viên: Nguyễn Thị Huyền Dương
PHẦN I:
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI


1
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty dệt vải công nghiệp Hà
Nội.
Năm 1967 trong giai đoạn Miền Bắc đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, một nhà máy dệt chăn thuộc Liên
hiệp dệt Nam Định đã sơ tán lên Hà Nội và tạo cơ sở xản xuất chăn chiên tại xã
Vĩnh Tuy huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Bước khởi đầu này nhà máy gặp không ít khó khăn như quy trình công
nghệ thủ công lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ ngèo nàn, hơn nữa trước kia nhà
máy tận dụng nguồn nguyên liệu từ phế liệu bông sợi rối của Liên hiệp dệt
Nam Định thì bây giờ để có nguyên liệu đảm bảo tiếp tục sản xuất nhà máy
phải thu mua nguyên liệu từ nhiều nguồn khác nhau như Dệt 8-3, Dệt Kim
đông xuân…nhưng nguồn nguyên liệu này cũng được cung cấp thất thường
không đều đặn. Chính vì vậy mà trong thời gian này nhà máy liên tục làm ăn
thua lỗ và phải trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước.
Cho đến năm 1970 trong công cuộc miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, dưới sự giúp đỡ to lớn của nước bạn Trung Quốc một dây chuyền sản xuất
vải mành từ sợi bông để làm lốp xe đã được lắp đặt tại nhà máy, đến năm 1972
dây chuyền này chính thức đi vào hoạt động và sản xuất ổn định đã mở ra một
trang sử mới, một hướng đi mới đầy triển vọng cho nhà máy.
Sản phẩm của nhà máy cung cấp cho nhà máy cao su Sao Vàng để làm
lốp xe đạp và cung cấp cho một số công ty thương mại khác ở miền
Bắc. Sản phẩm này đã mang lại lợi nhuận cho nhà máy và góp phần
vào công cuộc xây dựng đất nước.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh năm 1973 nhà máy lắp thêm dây
chuyền sản xuất vải bạt để làm bạt, giầy vải… Trong cùng thời gian
này nhà máy đã chuyển giao lại dây chuyền sản xuất chăn chiên cho
Liên hiệp Dệt Nam Định sau đó đổi tên lại thành nhà máy Dệt vải công
nghiệp Hà Nội.
2

Với công nghệ mới và hướng đi đúng đắn đã giúp nhà máy từ chỗ làm
ăn thua lỗ, quy mô nhỏ với tổng vốn đầu tư ban đầu chỉ 475.406VNĐ
(thời giá năm 1968), số cán bộ công nhân viên chỉ 174 người trong đó
có 144 công nhân trực tiếp sản xuất, đến năm 1988 -sau hơn 10 năm
hoạt động tổng vốn đầu tư đă lên tới trên 5 tỷ VNĐ (thời giá năm
1968), tổng sản lượng đạt trên 10 tỷ VNĐ và số cán bộ công nhân viên
lên tới 1.079 người trong đó có 986 công nhân trực tiếp sản xuất. Điều
này chứng tỏ mặc dù trong cơ chế bao cấp sản xuất kinh doanh dưới sự
chỉ đạo của Nhà nước nhưng nhà máy đã không lệ thuộc mà luôn nỗ
lực phấn đấu để ngày càng phát triển.
Năm 1988 nhà máy đạt đỉnh cao về tiêu thụ sản phẩm, gồm có: 3,308
triệu m
2
vải mành và 2,8 triệu m
2
vải bạt các loại. Song song với việc
sản xuất nhà máy tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng như: văn phòng,
nhà xưởng, kho bãi, khuôn viên trong nhà máy cùng với việc không
ngừng đầu tư thêm máy móc thiết bị tạo điều kiện và môi trường làm
việc tốt hơn cho công nhân. Đây có thể coi là thời kỳ tăng trưởng của
nhà máy.
Trước thực trạng đất nước vào giữa thập kỷ 1980 đầy những khó khăn
gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý
nghĩa sống còn với nền kinh tế nước nhà. Đại hội lần thứ VI của Đảng
đã có sự đổi mới về tư duy kinh tế, cụ thể là trong chỉ thị số 10 của Bộ
Chính Trị đã nêu rõ: xoá bỏ cơ chế hành chính bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh dưới sự quản lý của Nhà nước.
Vào những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 tình hình trên thế
giới cũng hết sức phức tạp, sự khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và

nhất là sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã đã ảnh hưởng trực tiếp đến
nền chính trị và kinh tế Việt Nam, các yếu tố đầu vào bị hạn chế như
vốn, nguyên liệu…, các sản phẩm đầu ra bị thu hẹp thị trường tiêu thụ
truyền thống.
3
Trước những thực tế như vậy đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt
Nam không ít những cơ hội phát triển nhưng cũng đầy những khó khăn
và thử thách, nó đòi hỏi phải có sự thay đổi để thích ứng với một thời
cuộc mới.
Trong bối cảnh như vậy, để bóc tách khỏi sự bao cấp của Nhà nước, tự
chủ trong việc sản xuất và kinh doanh nhà máy đã đề ra hàng loạt các
giải pháp như: tinh giản bộ máy, tổ chức sắp xếp lại cơ cấu lao động,
thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tìm tòi áp dụng khoa học kỹ thuật,
đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu thị
trường, đa dạng hoá sản phẩm, tập chung vào những cái thị trường cần
để đáp ứng được mọi nhu cầu đa dạng của thị trường…. Bằng tất cả
những nỗ lực đó nhà máy đã hạn chế được những khó khăn và tận
dụng được những cơ hội mới để phát triển. Với cơ chế kinh tế mới nhà
máy đã dần dần khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp
công nghiệp hoá đất nước.
Ngày28 tháng 8 năm 1994 để phù hợp với việc sản xuất kinh doanh
theo cơ chế thị trường, Bộ công nghiệp đã quyết định đổi tên Nhà máy
Dệt vải công nghiệp Hà Nội thành Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà
Nội. Tên giao dịch của công ty là: HAICATEX viết tắt của: Ha noi
Intrustrial Cavas Textile Company.
Hiện nay Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội là một thành viên của
Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, vẫn thuộc loại hình Công ty Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp Nhà nước (trước
đây là Luật Công ty) và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng công ty.
Tổng công ty tạo điều kiện cho công ty mở rộng thị trường ra nước

ngoài về xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu nguyên vật liệu vì phần lớn
nguyên liệu của Công ty phải nhập từ nước ngoài.
Tuy vậy, Công ty vẫn hoạt động theo cơ chế hạch toán độc lập và chủ
động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình không ngừng
cải tiến về bộ máy quản lý cũng như công nghệ để nâng cao năng xuất
4
sản xuất và chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
Cuối những năm 1990 mặt hàng vải bạt của Công ty đã bước vào giai
đoạn suy thoái và vải mành phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm
ngoại nhập cả về chất lượng và giá cả. Đứng trước thực trạng đó vào
đầu những năm 2000, Công ty đã nghiên cứu và mạnh dạn đầu tư, thay
thế hàng loạt các máy móc thiết bị mới. Cụ thể năm 2002 đã có ba dự
án đi vào hoạt động:
-Tháng 1/2002 đầu cuộn vải của dây chuyền nhúng keo được thay thế
với tổng mức đầu tư trên 2 tỷ đồng và kết quả là chấm dứt được lỗi
ngoại quan của vải mành nhúng keo như lồi, lõm bề mặt nhũn xốp,
mặt bên không phẳng, giảm 99% lỗi loại B&C….
- Tháng 9/2002 Công ty đầu tư thêm hai máy xe ALLMASAURER
của Cộng hoà liên bang Đức và một máy dệt mành PICANOL của Bỉ
vào sản xuất với tổng vốn đầu tư 21.970.494.400 VNĐ. Dây chuyền
này có năng suất tăng gấp từ 5 đến 7 lần so với dây chuyền cũ.
- Và đặc biệt phải kể đến là dây chuyền sản xuất vải không dệt lần đầu
tiên có mặt tại Việt Nam, dây chuyền này được khởi công lắp đặt vào
tháng 11/2001 và đến tháng 10/2002 được đưa vào sản xuất để kỷ
niệm ngày Giải phóng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư cho dây chuyền này
lên tới 63.622.939.000VNĐ. Đây là dây chuyền khá hiện đại có mặt
lần đầu tiên tại Việt Nam với quy trình sản xuất hoàn toàn tự động. Vải
không dệt được sử dụng cho các ngành công nghiệp, giao thông, thuỷ
lợi, đồ gia dụng (như làm thảm)….

Mặc dù mới đi vào sản xuất được hơn một năm nhưng sản phẩm Vải
không dệt đã trở thành ngành hàng chủ lực của Công ty. Quý IV/2002-
412.342 m
2
thành phẩm đã được tiêu thụ và đem lại doanh thu là 2.908
triệu đồng, năm 2003 tiêu thụ được 4.960.000 m
2
tương ứng với
26.181 triệu đồng. Tuy nhiên đây là sản phẩm lần đầu tiên được sản
xuất trong nước, nguyên liệu hoàn toàn nhập ngoại nên cũng còn rất
5
nhiều khó khăn trước mắt đòi hỏi Công ty phải có một chiến lược phù
hợp để tìm được chỗ đứng trên thị trường…
Năm 2004 dự tính Công ty sẽ đầu tư thêm 4 máy dệt mành của Trung
Quốc và thay thế bộ chỉnh tâm, miệng hút keo của máy nhúng keo…
Sau gần 40 năm hình thành và phát triển Công ty Dệt vải Công nghiệp
đă từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường cũng như trong
công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công ty đã không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành để thay thế hàng
ngoại nhập và ngày càng vươn xa hơn nữa ra thị trường khu vực và thế
giới. Bên cạnh đó công tác tổ chức luôn được đặc biệt quan tâm nhằm
tạo lập tác phong công nghiệp cho người lao động hoàn thiện bộ máy
quản lý gọn nhẹ cơ cấu sản xuất kinh doanh năng động, hiệu quả thích
ứng cao hơn trong cơ chế thị trường. Năm 2002 Công ty đã áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000.
Vượt qua hàng ngàn những khó khăn và thử thách từ một nhà máy sản
xuất lạc hậu với quy mô nhỏ tới nay sau gần 40 năm trưởng thành
Công ty đã có 9 chi nhánh giới thiệu sản phẩm trải rộng khắp ba miền
đất nước. Công ty cũng đã hai lần nhận được huân chương lao động
hạng II và hạng III của Nhà nước trao tặng cùng nhiều danh hiệu cao

quý tại các hội chợ, triển lãm trong nước. Hàng năm công ty đã tạo
công ăn việc làm cho rất nhiều lao động dư thừa góp phần vào việc ổn
định trật tự xã hội ....
Hiện nay Công ty gồm 4 xí nghiệp:
• Xí nghiệp sản xuất vải bạt.
• Xí nghiệp sản xuất vải mành.
• Xí nghiệp sản xuất vải không dệt.
• Xí nghiệp may.
(Như đã nói ở trên sản phẩm vải bạt đã bước vào giai đoạn suy thoái
nên sớm muộn nó sẽ được thay thế bằng một mặt hàng khác)
6
Tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 782 người (tính đến
hết 31/12/2003) trong đó có 672 công nhân sản xuất. Lao động của
công ty đa phần là lao động nữ chiếm khoảng 75%. Trình độ của
người lao động được Công ty rất chú trọng: Trình độ ĐH và trên ĐH
chiếm 6,5%; THCN& CĐ chiếm:6.79%; thợ bậc 6+7là:11,69%; thợ
bậc 5 là:20,69%; thợ bậc 3+4là :17,29%. Tuy nhiên tỷ lệ này chưa cao,
Công ty cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Đời sống vật
chất cũng như tinh thần của người lao động ngày càng được quan tâm

Thành công của Haicatex đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát
triển của ngành dệt may Việt Nam và trong sự nghiệp xây dựng đất
nước.
II. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của HAICATEX :
1-Nhiệm vụ sản xuất sản phẩm của Công ty:
Công ty chuyên sản xuất các loại vải công nghiệp phục vụ cho các
ngành công nghiệp khác như giao thông, thuỷ lợi, sản xuất đồ dân
dụng….Tuỳ vào tính năng của mỗi loại mà nó đáp ứng cho mỗi ngành
nghề khác nhau. Công ty sản xuất 4 loại sản phẩm:
• Vải Mành :Vải mành được sản xuất để cung cấp cho

ngành công nghiệp làm lốp ô tô, xe máy, xe đạp…Sản
phẩm của Công ty được tiêu thụ bởi Công ty Cao su
SaoVàng, Công ty Cao su Đà Nẵng…
• Vải Bạt : Sản phẩm này được sử dụng làm bạt, bao tải
hàng nhẹ, làm giầy vải trong quân đội, găng tay, quần
áo bảo hộ lao động…
• Vải Không Dệt: gồm Vải địa kỹ thuật và Vải lót giầy –
Vải địa kỹ thuật được sử dụng để làm đường chống lún,
đê kè thuỷ lợi…
--Vải lót giầy được cung cấp cho nhà sản xuất giầy,
làm thảm, lót thành ô tô,…
7
• Sản phẩm May: Ngoài các sản phẩm may mặc thông
thường Công ty thường xuyên nhận các hợp đồng may
quần áo bảo hộ cho các Công ty lớn như Dệt 8/3,
Honda, Lilama…, hợp đồng may áo Jaket cho Hàn
Quốc, Anh…Trong những năm gần đây sản phẩm của
Công ty đã xâm nhập vào thị trường Mỹ và EU với kim
ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.
Các sản phẩm của công ty được sản xuất chủ yếu từ sợi Nylon6.6.6,
PA (sản xuất vải mành), xơ PES, PP (sản xuất vải không dệt),sợi
Cotton,PC, PE (sản xuất vải bạt)…Các loại sợi này được nhập từ Đài
Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…….
Sử dụng nhiên liệu là điện và than.
Hoá chất nhúng keo là VP latex, SBR latex và Resorcinol.
Hiện là công ty duy nhất tại Việt Nam sản xuất các loại vải công
nghiệp nên chiếm khá nhiều ưu thế kinh doanh. Tuy nhiên sản phẩm
của công ty vẫn bị canh tranh bởi một số hàng ngoại nhập cả về giá cả
và chất lượng, một phần do máy móc thiết bị của ta chưa sánh kịp
một phần do nguyên vật liệu của ta phải nhập từ nước ngoài nên giá

cả sản phẩm còn cao.Trong thời gian tới công ty sẽ gặp không ít khó
khăn khi Hiệp định cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA được áp dụng
vào năm 2006 đối với các nước ASEAN khi đó thuế nhập khẩu giảm
xuống chỉ còn 0-5% và tiến tới Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) vào năm 2005 sẽ mở ra không ít cơ hội nhưng
cũng đầy khó khăn và thách thức.
Cùng với việc cố gắng hoàn thành tốt các mục tiêu sản xuất kinh
doanh của mình công ty cũng cố gắng hoàn thành tốt nhịệm vụ của
mình đối với nhà nước, dưới đây là tình hình thực hiện nghĩa đóng
góp vào Ngân sách nhà nước(NSNN) của công ty trong ba năm gần
đây:
Chỉ tiêu
2001 2002 2003 02/01(%) 03/02(%)
8
Nộp NSNN(tr.đ)
11.715 12.89 23.846
5
110.03 185
Nhìn bảng trên ta thấy chỉ tiêu nộp NSNN của công ty tăng khá cao
trong mấy năm vừa qua, nó thể hiện sự lỗ lực không ngừng của công
ty.
2- Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty:
Haicatex bao gồm 4 xí nghiệp thành viên:
1. Xí nghiệp Bạt
2. Xí nghiệp Mành
3. Xí nghiệp Vải Không Dệt
4. Xí nghiệp May
Tương ứng sản xuất 4 loại sản phẩm mỗi sản phẩm có một quy trình
sản xuất khác nhau, công nghệ sản xuất độc lập, mức độ phức tạp của
mỗi quy trình phụ thuộc vào yêu cầu sản xuất của từng loại sản phẩm.

* Quy trình sản xuất Vải Mành Nhúng Keo: Với nguyên liệu từ sợi
PA, Nylon6.6.6 (hiện nay vẫn phải nhập từ nước ngoài) trải qua ba
công sản xuất chính: xe, dệt , nhúng keo ta có thành phẩm là: Vải
mành 840D/1; 840D/2; 1260D/2 được sử dụng để làm lốp ô tô, xe
máy, xe đạp…
* Quy tình sản xuất vải không dệt: Vải không dệt được sản xuất từ sơ
PES, PP nhập từ nước ngoài với các sản phẩm HD130, HD180,
HD200,... được sử dụng trong giao thông, thuỷ lợi, đồ gia dụng,...
Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại, tự động
hoá từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm cuối cùng dây
chuyền này được chuyển giao từ tập đoàn DILO-CHLB Đức( tập
đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất vải không dệt theo công nghệ
xuyên kim. Với công suất đạt khoảng 10.000.000 m
2
/năm sản phẩm
của dây chuyền này đang là một trong các ngành hàng chủ lực của
công ty. Sản phẩm này đã có mặt ở một số công trình tiêu biểu như:
9
Đường Cầu Rào -Đồ Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tp. Hồ Chí
Minh....
* Quy trình sản xuất vải bạt: Vải bạt được sử dụng làm giầy vải, bao
tải, bảo hộ,... đượoc chế xuất từ sợi cotton, PC, PE sản phẩm có các
loại vải Bạt3x3, Bạt 178, Bạt 3419. Hiện nay quy mô của dây
chuyền này đang được công ty thu nhỏ lại vì chu kỳ sống của sản
phẩm này đã bước vào giai đoạn suy thoái.
* Quy trình sản xuất sản phẩm may: Đây là ngành hàng còn non trẻ,
thiếu kinh nghiệm, không đồng bộ nên quy mô còn nhỏ chưa cạnh
tranh đưowcj với thị trường trong nươc . Tuy nhiên trong hai năm
vừa qua sản phẩm của công ty đã xuất khẩu sang thị trường Mỹ và
Châu Âu với tổng sản lượng tăng đáng kể cụ thể năm 2003 tăng

210% so với 20002 và dự kiến năm 2004 sẽ tăng 130% so với
2003.
Các quy trình sản xuất được mô tả như sau:
Dệt
10
Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất Vải Mành Nhúng Keo
Lỗi
Đạt

Đạt Lỗi


Đạt

Đạt
Lỗi


Dệt
11
Sợi dọc
Xe lần 1
Sợi đơn
Xe lần 2
Sợi đơn
Sợi ngang
Kiể
m
tra
Nhập kho

Xe suốt
Kiể
m
tra
Kiể
m
tra
vải
Dệt vải
m nhà
Sâu go
Nhúng keo
Đóng gói, nhập
kho th nh phà ẩm
Chỉnh sửa
Chỉnh sửa
Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất Vải Bạt



Quy trình sản xuất vải không dệt
Sợi
Lờ , dồn
Đánh ống
Xe suốt
Đậu sợi
Suốt ngang
Sợi ngang
Đóng kiện
Ho n thià ện

Dệt
Go
Nhập kho
12
Xơ P.P, P.E
Hệ thống máy
xuyên kim
Máy xếp chống
Máy xé trộn
Nhập kho th nh à
phẩm
Máy trải
Đóng gói
Máy ho n thià ện
Quy trình công nghệ may



Lỗi
Đạt
III. Đánh gía công nghệ sản xuất sản phẩm của Haicatex:
13
Nguyên liệu
( Vải)
Giáp mẫu , cắt
Kiể
m
tra
Chỉnh sửa
Vắt sổ

May
Ho n thià ện
(khuy cúc )

Nhập kho
Đóng gói
Chỉnh sửa
Kiể
m
tra
1. Một số lý luận chung về công nghệ sản xuất sản phẩm:
Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất
hoặc thông tin. Công nghệ gồm hai phần:
Phần cứng : Bao gồm máy móc thiết bị cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ còn
được gọi là phần vật chất.
Phần mềm: hay còn gọi là phần phi vật chất bao gồm những kỹ năng , kỹ
xảo, kiến thức quản lý điều hành, phương pháp sản xuất bí quyết kỹ thuật.
Với định nghĩa như trên thì công ghhệ bao gồm:
• Trang thiết bị (Technoware)
• Kỹ năng (Humanware)
• Thông tin (Infoware)
• Tổ chức (Organware)
Trên đây là quan niệm về công nghệ của tổ chức kinh tế xã hội Thái Bình
Dương-ESCAP. Theo tổ chức UNCTAD thì một số hoạt động sau đây cũng
thuộc phạm trù công nghệ:
1-Nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư. Đây là việc làm
quan trọng vì nó giúp cho nhà đầu tư biết được liệu có khả năng đầu tư vào thị
trường đó không ? Thị trường đó có đặc điểm gì? Sản phẩm của công nghệ có
đủ sức cạnh tranh trên thị trường không ? Môi trường đầu tư thế nào?...Tất cả
những hoạt động này sẽ hạn chế rủi ro trong quyết định đầu tư.

2-Thu thập thông tin về một số kỹ thuật sẵn có và sẽ có trong tương lai gần.
Trên cơ sở đó nhà đầu tư phải tìm hiểu, lựa chọn kỹ thuật thuộc công nghệ nào
cho phù hợp với dự định phát triển sản xuất hàng hoá của mình. Những thông
tin kỹ thuật này còn là tiền đề quan trọng cho sự lựa chọn đúng đắn chiến lược
kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp.
3-Thiết kế kỹ thuật là làm cho máy móc thiết bị kỹ thuật sẵn có phù hợp với quy
trình công nghệ, phù hợp với đăc điểm điêù kiện tự nhiên tạinơi xây dựng nhà
máy.
4-Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị. Trên cơ sở các thiết kế sẵn có tiến hành
xây dựng và lắp đặt trang thiét bị như : xây dựng nhà xưởng, hệ thông giao
14
thông, thoát nước lắp đặt máy móc thiết bị chính, phụ trợ, hệ thống điệ cấp
nước,….
5-Phát triển công nhân tức là tri thức về bản thân quá trình vận hành sản xuất
bao gồm quản lý điều hành, đào tạo công nhân kỹ thuật, bồi dưỡng kỹ năng, kỹ
xảo, thông tin về thị trường liên quan đến sản phẩm, năng lực cải tiến để nâng
cao hiệu quả sản xuất và hiệu quả sử dụng bí quyết kỹ thuật.
Công nghệ không phải là khái niệm bất biến, mà nó luôn lôn biến đỏi sao cho
phù hợp và thích ứng với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật trong một
giai đoạn cụ thể. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật như hiện nay
công nghệ rất nhanh chóng bị lạc hậu bởi công nghệ mới tiên tiến không ngừng
xuất hiện. Nắm rõ quy luật này Công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội đã không
ngừng đầu tư đổi mới trang thiết bị, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, cập nhật
thông tin để có sự thay đổi linh hoạt và đặc biệt là cách thức tổ chức quản lý
khoa học… Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
• Trang thiết bị: Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Để cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, khẳng
định vị trí của mình ở thị trường trong nước và có cơ hội nắm bắt thị trường
nước ngoài, công ty đã đầu tư hàng loạt máy móc thiết bị mới.Nổi bật nhất
là năm 2002 có nhiều dự án đầu tư đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư

hàng trăm tỷ đồng như: Thay thế bộ Loadcell đo lực căng mới của Đức, bộ
tín hiệu cũ của Trung Quốc được thay thế bằng bộ khuyếch đại kỹ thuật số
đảm bảo các thông số đo lực căng của vải ổn định, cải tạo hệ thống lò dầu,
hai máy xe sợi của tập đoàn ALLMA SAURER- CHLB Đức và Một máy dệt
cao tốc PICANOL của Bỉ có công suất tăng từ 5 đến 7 lần so với máy cũ của
Trung Quốc góp phần nâng cao năng xuất và chất lượng sản phẩm, tạo khả
năng sản xuất thên nhièu mặt hàng mới mang tính chiến lược như: vải lốp xe
máy, ô tô tải nặng 1260D/2; 1260D/3; 1890D/2... Thị phần vải mành của
công ty ngày càng cao có mặt tại các công ty Cao su lớn trên khắp đất nước
như Công ty Cao su Sao Vàng; Cao su Đà Nẵng; Cao su Miền Nam và một
số công ty có vốn đầu tư nước ngoài như: Công ty Shinfa,Công ty Thời ích
15
và Fungkeong của Malaysia... Đặc biệt là dây chuyền sản xuất Vải không dệt
có vốn đầu tư là 63.622.939.000 VNĐ, đây là dây chuyền hiện có duy nhất
tại Việt Nam. Quy trình sản xuất hoàn toàn tự động, tuy mới đi vào sản xuất
nhưng đã đem lại doanh thu khá cao cho công ty...
Vải mành và Vải không dệt tuy có ưu thế là đơn vị duy nhất ở Việt Nam sản
xuất hai mặt hàng này, được đằu tư trang thiết bị và dây chuyền sản xuất hiện
đại nhưng còn gặp nhiều trở ngại như: chịu áp lực của hàng ngoại nhập với giá
thành hạ, sự biến động của giá dầu mỏ trên thế giới và việc cắt giảm sản lượng
lắp giáp xe máy dẫn đến giảm sản lượng tiêu thụ lốp xe... Tuy nhiên cũng có
những dấu hiệu đáng mừng cho sản phẩm vải địa kỹ thuật vì hệ thống giao
thông phát triển trên khắp đất nứơc từ nông thôn đến thành thị, hệ thống đê kè
thuỷ lợi cũng ngày được quan tâm áp dụng những kỹ thuật cao... Đứng trước
thực tế đó công ty đã không ngừng tìm hiểu xu thế của thị trường để nắm bắt
thông tin, khảo sát tìm nguồn nguyên liệu tốt để hạ giá thành sản phẩm, nghiên
cứu thị hiếu của khách hàng để đưa ra các sản phẩm mới phù hợp hơn... Song
song với việc nâng cao hiệu quả của công tác sau đầu tư, công tác tổ chức cũng
luôn được công ty quan tâm, đổi mới.
• Công tác tổ chức: để thích ứng cao hơn với cơ chế thị trường và để phù hợp

với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật công ty đã luôn cố gắng để hoàn
thiện cơ cấu lao động của mình như:
- Tinh gỉam lao động, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả
- Phân công lao động hợp lý đúng người đúng việc.
- Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên như: Nhân viên văn phòng
không dưới trình độ Trung cấp; Công nhân trực tiếp sản xuất phải có tay nghề
trình độ nhất định và say mê công việc; Nhân viên kỹ thuật phải có tay mghề
cao được đào tạo từ những trường CĐ, ĐH có chất lượng.Thực tế trong những
năm gần đây cán bộ kỹ thuật của công ty được tuyển dụng từ các trường ĐH
Bách Khoa, CĐ KT KT CNI,....
- Tuyển dụng khi thật cần thiết, tránh tình trạng thân quen kém chất lượng
vì điều này ảnh hưởng đến chất lượng công việc.
16
- Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân để họ
nắm bắt kịp thời tình hình phát triển của khoa học kỹ thuật, nghiêm khắc loại bỏ
những lao động kém hiệu quả ra khỏi chuyền.
- Xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động, nghiêm khắc loại
bỏ những lao động kém hiệu quả ra khỏi chuyền.
- Có chế độ khen thưởng kỷ luật rõ ràng, quan tâm hợp lý đến bản thân và
gia đình người lao động để khuyến khích họ hăng say làm việc. Luôn luôn tạo
cơ hội cho họ phát huy hết khả năng của mình
.............
Mặc dù có nhiều cố gắng để kiện toàn bộ máy cuả mình song nói chung tỷ lệ
CĐ, ĐH của công ty còn thấp chiếm dưới 10%, nên cần có biện pháp điều chỉnh
thiết thực hơn nữa.
Công ty cần thừơng xuyên có sự hợp tác, trao đổi thông tin với người lao động
để phát huy sự sáng tạo và khả năng tiềm ẩn trong mỗi người.
Quan tâm hơn nữa đến đời sống người lao động.
• Thông tin (Infowave): Thông tin đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Thông tin là căn cứ để

tiến hành xây dựng chiến lược của doanh nghiệp. Trong quá trình xác định
các chỉ tiêu chiến lược, cần thiết tiến hành các tính toán dựa trên những thông
tin xác thực về số lượng sức lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư , tiền
vốn ...và sự kết hợp tối ưu giữa sức sản xuất với tư liệu sản xuất, để làm ra
sản phẩm lớn nhất bằng chi phí nhỏ nhất. Xác định được vai trò đó công ty
đã luôn bám sát thị trường mục tiêu nghiên cứu, tìm hiểu và sàng lọc xử lý
thông tin về máy móc thiết bị, phương pháp sản xuất và về cả khách hàng ...
từ đó sẽ giảm thiểu các rủi ro khi đưa ra quyết định sản xuất kinh doanh. Ví
dụ như Vải không dệt hiện là một sản phẩm mới của công ty và cũng là sản
phẩm lần đầu tiên được sản xuất trong nước, để sản phẩm của mình có thể
thay thế hàng ngoại nhập thì công ty đã phải thu thập thông tin về thị trường,
phân tích, xử lý để đưa ra chính sách về chất lượng và giá cả hợp lý .... đó
cũng là một phần công nghệ
17
Phòng Gian h ng Nh xeà à
Bảo Vệ giới thiệu
sản phẩm
Y
tế
C.
ty
Như đã nói ở trên công nghệ luôn phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên trình độ phát triển của nó trong từng ngành lại có
sự khác nhau, vì mỗi ngành lại bị chi phối bởi môi trường kinh doanh khác nhau
nên lại có chỉ tiêu đánh giá riêng. Mỗi công nghệ sản xuất sản xuất sản phẩm lại
có sự đánh giá khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất, đặc thù của từng sản phẩm.
IV- Cơ cấu sản xuất của công ty:
Là một đơn vị sản xuất kinh doanh nên bộ phận sản xuất trong công ty
được chia làm ba phận chủ yếu: Bộ phận sản xuất chính; Bộ phận sản xuất phụ
và Bộ phận phụ trợ. Các bộ phận tác động qua lại hỗ trợ cho nhau thành một hệ

thống không thể tách rời.
• Bộ phận sản xuất chính: Bộ phận sản xuất chính bao gồm các phân xưởng
trực tiếp sản xuất
- Phân xưởng sợi: Có nhiệm vụ kéo sợi để cung cấp cho các phân xưởng dệt.
- Phân xưởng dệt: Có nhiệm vụ dệt thành các mảnh vải theo mẫu mã kích thước
của phòng kỹ thuật đưa xuống.
- Phân xưởng nhúng keo:Có nhiệm vụ đưa những mảnh vải đã được dệt xong
nhúng vào dung dịch keo và đưa vào nhập kho.
- Phân xưởng may: Có nhiệm vụ may các sản phẩm theo mẫu mã kích thước
của phòng kỹ thuật đưa xuống.
- Phân xưởng vải không dệt: có nhiệm vụ sản xuất ra những tấm vải không dệt
theo kích thước, mẫu mã và đóng gói theo quy định.
• Bộ phận sản xuất phụ:
-Phân xưởng chuẩn bị: Có nhiệm vụ chuẩn bị nguyên liệu cho phân xưởng dệt.
• Bộ phận phụ trợ:
- Trạm điện: Cung cấp điện năng cho sản xuất và sửa chữa máy móc bị hỏng.
- Xưởng cơ khí: Có nhiệm vụ sửa chữa các máy móc thiết bị khi có sự cố và
trong điều kiện cho phép chế tạo ra các phụ tùng thay thế cho máy móc thiết bị
của công ty.
18
Phòng Gian h ng Nh xeà à
Bảo Vệ giới thiệu
sản phẩm
Y
tế
C.
ty
Nh à
trẻ
Công ty

Mặt Bằng Sản Xuất Của Công Ty
19
Phòng Gian h ng Nh xeà à
Bảo Vệ giới thiệu
sản phẩm
Nh khoà
P.
B.
V
Xí nghiệp M nh- Nhúng Keoà
Phân xưởng M nhà
Xí nghiệp Bạt
Xí nghiệp M nh - à
Nhúng Keo
Phân xưởng Nhúng Keo
Nh kho à
Công ty
Khu xử lý
nước thải
nhúng keo

nghiệp
May
Phân
xưởng II
Nh à
ăn
công
ty


nghiệp
Vải
Không
Dệt

nghiệp
May
Phân
xưởng
I
Xưởng
Cơ Khí
PC
CC
Y
tế
C.
ty
Nh à
trẻ
Công ty

V. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội:
1. Các cấp quản lý của công ty:
Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức thành hai cấp quản lý với mô hình
trực tuyến chức năng. Đi kèm với với mỗi cấp quản lý là các phòng ban chức
năng tham mưu cho mỗi cấp, cụ thể như sau:
• Cấp I: Cấp công ty: Bao gồm Giám đốc công ty, hai phó giám đốc công ty
cùng các phòng ban chức năng trợ giúp giám đốc. Các phòng ban chức
năng kiểm tra và đưa ra các thông tin của toàn công ty về lĩnh vực mà

mình theo dõi để báo cáo giám đốc. Giám đốc tên cơ sở những thông tin
20
thu thập được hoặc trức tiếp hoặc gián tiếp sẽ đưa ra các quyết định. Các
phòng ban gồm có:
- Phòng Tài chính - Kế toán
- Phòng Tổ chức - Hành chính
- Phòng Sản xuất - Kinh doanh
- Phòng Kỹ thuật - Đầu tư
- Phòng Bảo vệ quân sự
- Phòng dịch vụ đời sống
• Cấp xí nghiệp : Công ty gồm có bốn xí nghiệp thành viên:
- Xí nghiệp Mành- Nhúng keo
- Xí nghiệp Bạt
- Xí nghiệp Vải không dệt
- Xí nghiệp May
Mỗi xí nghiệp đều có các giám đốc và phó giám đốc thực hiện chức năng quản
lý và chức năng kỹ thuật đảm bảo sản xuất ổn định. Nhìn tổng quát cấp xí
nghiệp gồm có: Phòng quản lý; Phòng kỹ thuật và Các tổ sản xuất.
2. Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận quản lý trong công ty:
Trong công ty tuỳ theo trách nhiệm và lĩnh vực cụ thể mà các thành viện trong
ban giám đốc, các phòng ban chức năng, cũng như giám đốc các xí nghiệp có
chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng lại phối hợp chặt chẽ vơí nhau để đảm
bảo cho sự hoạt động của công ty được nhịp nhàng ăn khớp.
• Giám đốc công ty là người nắm quyền hành cao nhất và chịu trách nhiệm
giám sát, điều hành mọi hoạt động của công ty, đồng thời chịu trách
nhiệm trước cấp trên về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty.
• Phó giám đốc có nhiệm vụ cố vấn trợ giúp cho giám đốc công ty trong
công tác chỉ huy và điều hành các hoạt động của công ty, cụ thể như sau:
*Phó giám đốc Kỹ thuật sản xuất: Là người chỉ đạo trực tiếp các

công tác kỹ thuật như: công nghệ sản xuất sản phẩm, máy móc thiết bị, kiểm
tra chất lượng nguyên, nhiên vật liệu đầu vào , chất lượng sản phẩm đầu ra.
21
Phó giám đốc kỹ thuật sản xuất phụ trách các phòng: Sản xuất-Kinh doanh-
Xuất nhập khẩu; Phòng Kế toán- Tài chính; Phòng Kỹ thuật- Đầu tư.
* Phó giám đốc tổ chức hành chính: Là người chỉ đạo trực tiếp các
công việc về tổ chức hành chính như tuyển dụng, đào tạo lao động, chănm lo
đời sống cán bộ công nhân viên và phụ trách các phòng: Tổ chức hành chính;
Phòng Bảo vệ; Phòng Dịch vụ đời sống.
• Phòng Kỹ thuật- Đầu tư: Hướng dẫn tổ chức và giám sát thực hiện các
quy trình công nghệ. Lập kế hoạch sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết
bị toàn công ty. Lập các dự án về đầu tư mở rộng quy mô sản xuất và
đầu tư đổi mới công nghệ.
• Phòng Sản xuất- Kinh doanh - Xuất,nhập khẩu: Lập kế hoạch sản xuất
chịu trách nhiệm mua vật tư đầu vào và thực hiện phân phối tiêu thụ
sản phẩm, tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường
thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, xem xét các hợp đồng
và cung cấp các thông tin về sản phẩm cho khách hàng.
• Phòng Tài chính- Kế toán: Theo dõi tình hình tài chính của công ty,
tình hình sản xuất, tiêu thụ, giá thành sản phẩm từ đó tổng hợp số liệu
và phân tích tình hình tài chính và lập báo cáo tài chính cho công ty.
• Phòng Tổ chức -Hành chính: Chịu trách nhiệm về mặt tổ chức nhân
sự, kết hợp với các phòng ban khác tổ chức sắp xếp phân công lao
động hợp lý, chịu trách nhiệm về quản lý tiền lương, bảo hộ lao động
và các chế độ khác với người lao động.
• Phòng Bảo vệ quân sự: Chịu trách nhiệm về công tác an ninh, trật tự,
phòng cháy, chữa cháy bảo vệ tài sản của công ty và thực hiện công
tác quân dân, tự vệ.
• Phòng dịch vụ đời sống: Chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên
trong công ty, gồm có các chức năng như nấu ăn, trông trẻ... giúp cán

bộ công nhân viên yên tâm sản xuất.
• Bộ phận quản lý các xí nghiệp thanh viên có trách nhiệm về mọi mặt
hoạt động của xí nghiệp mình. Lập kế hoạch, kiểm tra, kiểm soát, việc
22
Phòng
Bảo vệ
Quân sự
Phòng
Dịch vụ
Đ.sống
thực hiện kế hoạch sản xuất được giao theo đúng tiến độ và chất
lượng, chịu trách nhiệm về an toàn lao động cho người và thiết bị rong
xí nghiệp, kết hợp với phòng sản xuất kinh doanh về mua bán nguyên
vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đâù ra.
3. Đánh giá bộ máy tổ chức quản lý của công ty:
Với mô hình quản lý trực tuyến chức năng, các chức năng trong công ty
được chuyên môn hoá cao. Mỗi phòng ban có nhiệm vụ riêng nhưng không rời
rạc mà liên kết thành một hệ thống không thể tách rời. Những quyết định ở các
phòng ban chỉ có hiệu lực khi đã thông qua giám đốc hoặc được giám đốc uỷ
quyền. Trong những năm gần đây để phù hợp với nền kinh tế thị trường công ty
đã liên tục thực hiện công tác tinh giảm, sàng lọc lao động, giảm thiểu lao động
gián tiếp, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, linh hoạt... Công tác này cần được
tiếp tục phát huy trong những năm tới nhất là vào năm 2005 nước ta ra nhập Tổ
chức thương mại thế giới và 2005 ra nhập khối mậu dịch tự do ASEAN. Tuy
nhiên công ty cũng cần phải quan tâm hơn nữa tới công tác đào tạo cán bộ quản
lý vì hiện tại cán bộ quản lý trong công ty có trình độ ĐH, trên ĐH và CĐ còn
hạn chế.
Bộ máy tổ chức quản lý của công ty được mô tả như sau:
23
Phòng

Bảo vệ
Quân sự
Phòng
Dịch vụ
Đ.sống
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty
24
Tổ sản
xuất 2
Tổ sản
xuất 1
Tổ sản
xuất N
Giám Đốc
P. GĐ Tổ chức P. GĐ Kỹ thuật
Phòng
Kế toán
T.chính
Phòng
Kỹ thuật
Đầu tư
Phòng
T.chức
H.chính
Phòng
SXKD-
XNK
Phòng
Bảo vệ
Quân sự

Phòng
Dịch vụ
Đ.sống
Xí nghiệp Bạt
Xí nghiệp
Vải Không Dệt
Xí nghiệp MayXí nghiệp M nh à
Giám đốc xí
nghiệp
Phòng QL Phòng KT
PHẦN II
QUẢN TRỊ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
CHƯƠNG I: CÔNG TÁC HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC
CỦA CÔNG TY DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP
I-Lý luận chung về chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp:
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi doanh nghiệp
phải hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác mỗi doanh
nghiệp là một phân hệ kinh tế mở trong nền kinh tế quốc dân và từng bước hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp
không chỉ chú trọng đến thực trạng và xu thế biến động của môi trường kinh
doanh trong nước mà còn tính đến cả tác động tích cực cũng như tiêu cực của
môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế .Môi trường kinh doanh này càng mở
rộng, tính chất cạnh tranh và biến độngcủa môi trường ngày càng mạnh mẽ, việc
vạch hướng đi trong tương lai càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát
triển của doanh nghiệp.
25

×