Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.22 KB, 43 trang )

Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
Lời mở đầu
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển khá
mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 7,5% và được
đánh giá là nền kinh tế có tốc độ phát triển đứng thứ hai thế giới. Sự tăng
trưởng này gắn liền với yêu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, kéo theo nhu cầu cần huy động nguồn vốn rất lớn. Thêm vào đó, năm
2000 đánh dấu sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam và cũng là năm mở
đầu cho tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, vấn đề này càng
làm gia tăng hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp nói chung và
công ty cổ phần nói riêng. Như vậy, vấn đề huy động vốn tại các doanh
nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng là sự quan tâm không chỉ của
riêng doanh nghiệp mà còn của những Bộ chủ quản, Cơ quan quản lý Nhà
nước. Giải quyết tốt vấn đề này không những tạo động lực cho doanh nghiệp
tồn tại và phát triển mà còn tạo niềm tin cho các doanh nghiệp cũng như các
nhà đầu tư đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và Thị trường tài chính
Việt Nam nói riêng.
Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề trên, đề tài: “ Giải pháp tăng cường
hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội” đã
được lựa chọn để nghiên cứu và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề
gồm có ba phần như sau:
Chương 1: Vốn và huy động vốn của công ty cổ phần.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công
ty cổ phần xây lắp Bưu điện Hà Nội
1
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
Chương 1: Vốn và huy động vốn của công ty cổ phần


1.1 Tổng quan về vốn
1.1.1 Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải luôn quan tâm đến việc duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, để làm được điều này các nhà quản lý doanh nghiệp phải
hoạch định những chiến lược đầu tư ngắn hạn cũng như dài hạn và cách thức
để có nguồn vốn tiến hành các hoạt động đầu tư đó. Chính vì vậy, đối với bất
kỳ doanh nghiệp nào thì vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, vốn là tiền đề cho sự hình thành của một doanh nghiệp, bất kỳ
một doanh nghiệp nào muốn thành lập đều phải có một lượng vốn để thực
hiện đăng ký kinh doanh được gọi là vốn điều lệ, đây là điểm mốc đánh dấu
sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường. Yêu cầu phải có lượng vốn ban
đầu để thực hiện đăng ký kinh doanh được qui định trong hầu hết các luật về
doanh nghiệp và luật về công ty trên thế giới, trong Luật Doanh nghiệp 2005
của Việt Nam tại khoản 4 điều 21 có qui định doanh nghiệp phải ghi rõ vốn
điều lệ của công ty, vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp đối với doanh
nghiệp tư nhân trong giấy đề nghị đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
mình. Đặc biệt trong một số lĩnh vực kinh doanh yêu cầu phải có vốn pháp
định như: Tài chính-ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán…thì
doanh nghiệp phải có văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền mới được phép đăng ký kinh doanh (Điều 16,17,18,19 Luật
Doanh nghiệp 2005), cụ thể tại Việt Nam số vốn pháp định này do Chính phủ
qui định ( Luật Các tổ chức tín dụng 2004, điều 83). Vốn điều lệ, vốn đầu tư
ban đầu này có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn: Do nhà
nước cấp (doanh nghiệp nhà nước), do các thành viên hay cổ đông sáng lập
đóng góp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần), do cá nhân đóng
góp (doanh nghiệp tư nhân). Sự xuất hiện của doanh nghiệp đồng nghĩa với
2
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp

Bưu điện Hà Nội
việc doanh nghiệp tiến hành thiết lập các mối quan hệ trong kinh doanh, bao
gồm: quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp và với các nhà phân phối, có
thể nói, sẽ không có một tổ chức, cá nhân nào muốn hợp tác với doanh nghiệp
nếu biết doanh nghiệp đó không có vốn.
Thứ hai, vốn giúp quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
diễn ra liên tục, hay nói cách khác, không có vốn doanh nghiệp sẽ đứng trước
nguy cơ không duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để tạo
ra sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho thị trường, doanh nghiệp phải mua nguyên
vật liệu, nhiên liệu, thuê nhân công, thay thế, mua mới hay sửa chữa máy móc
trang thiết bị, phương tiện và các chi phí khác, doanh nghiệp sẽ phải có tiền
để trả cho những chi phí đó và nguồn chi trả này được lấy từ vốn của doanh
nghiệp. Chính vì vậy mà vốn có vai trò quyết định tính liên tục trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, vốn là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự tăng
trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Sự tăng trưởng và phát triển của doanh
nghiệp thể hiện ở việc tăng qui mô sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao khả
năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Để có được
sự tăng trưởng và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn bổ
sung vào nguồn vốn đầu tư cho sản xuất như: mua sắm tài sản cố định và tài
sản lưu động, đầu tư cho các chiến dịch Marketing nhằm quảng bá sản phẩm
và thương hiệu, đầu tư cho nghiên cứu phát triển (nghiên cứu về cải tiến, đổi
mới sản phẩm cũng như nghiên cứu đối thủ cạnh tranh). Đây là những chiến
lược lâu dài và tốn kém nên doanh nghiệp phải lập kế hoạch để có được
nguồn vốn dài hạn đủ lớn.
Thứ tư, doanh nghiệp có qui mô vốn lớn sẽ ít có khả năng bị thâu tóm,
mua lại hay phá sản và dễ dàng hơn trong việc huy động các nguồn vốn trên
thị trường. Thật vậy, một doanh nghiệp đứng trước nguy cơ bị mua lại hay
thâu tóm tức là toàn bộ hay phần lớn tài sản của doanh nghiệp bị nắm giữ bởi
một doanh nghiệp khác, điều này có thể gây ra sự rối loạn trong tổ chức của

3
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, đồng thời
xét trên khía cạnh của chủ doanh nghiệp thì không ai muốn doanh nghiệp của
mình bị thao túng hay nằm trong tay một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp
có qui mô vốn lớn cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sở hữu một lượng
tài sản lớn, điều này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp khác khi có ý định
muốn mua lại hay thâu tóm doanh nghiệp. Bên cạnh đó, qui mô vốn lớn được
hình thành chủ yếu từ vốn chủ sở hữu là tấm lá chắn bảo vệ doanh nghiệp
trước sự phá sản. Sự phá sản của một doanh nghiệp là việc doanh nghiệp đó
không có khả năng thanh toán các khoản nợ. Một doanh nghiệp có nguồn vốn
chủ sở hữu lớn tức là nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ ở mức thấp vì thế
không đặt doanh nghiệp trước sự phá sản. Cuối cùng, qui mô vốn lớn thường
là minh chứng cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp, chứng minh cho khả năng
tài chính vững vàng với khả năng thanh toán tốt, là những tín hiệu tốt giúp
doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi lớn bằng việc phát
hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính hay các nguồn vốn tín dụng
ngân hàng, tín dụng thương mại.
1.1.2 Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều khoản mục khác nhau,
dựa vào các tiêu chí khác nhau mà người ta phân chia vốn của doanh nghiệp
thành các bộ phận như sau:
1.1.2.1 Vốn ngắn hạn và vốn dài hạn
Vốn ngắn hạn và vốn dài hạn của doanh nghiệp được phân chia căn cứ
vào thời gian huy động và sử dụng vốn.
Vốn ngắn hạn: Là các nguồn vốn có thời hạn dưới một năm. Các khoản
mục của vốn ngắn hạn là: nguồn tín dụng ngân hàng ngắn hạn, tín dụng
thương mại, các khoản phải trả, phải nộp. Nguồn vốn ngắn hạn có đặc điểm là
thời gian sử dụng vốn ngắn, chi phí thấp vì lãi suất thấp hoặc lãi suất bằng

không với các khoản tín dụng thương mại và các khoản phải trả, phải nộp.
4
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
Vốn ngắn hạn của doanh nghiệp chủ yếu để tài trợ cho tài sản lưu động và
những hoạt động sản xuất kinh doanh có khả năng quay vòng vốn nhanh.
Vốn dài hạn: Là các nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên. Vốn dài
hạn của doanh nghiệp được cấu thành bởi các nguồn tín dụng dài hạn, nguồn
từ phát hành chứng khoán dài hạn…..Đối tượng tài trợ cho vốn dài hạn là
những người cho vay và chủ doanh nghiệp. Đặc điểm của vốn dài hạn là có
chi phí cao hơn so với vốn ngắn hạn vì độ rủi ro mà các nhà tài trợ phải đối
mặt lớn hơn. Các nguồn vốn dài hạn sẽ được các doanh nghiệp đầu tư vào tài
sản cố định hay các dự án dài hạn. Sở dĩ như vậy là vì nếu doanh nghiệp dùng
vốn ngắn hạn đầu tư vào các tài sản dài hạn thì khi các khoản vốn ngắn hạn
đến hạn trả, doanh nghiệp khó có thể đảm bảo chi trả vì việc bán các tài sản
dài hạn không dễ dàng thậm chí còn không bán được, điều này làm chi phí
của vốn ngắn hạn tăng lên hay vốn ngắn hạn không phát huy được lợi thế đối
với doanh nghiệp.
1.1.2.2 Vốn bên trong và vốn bên ngoài
Căn cứ vào vị trí các nguồn vốn huy động được, vốn của doanh nghiệp
được chia thành hai thành phần.
Vốn bên trong: Là các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động
trong nội bộ doanh nghiệp mình. Nguồn vốn này bao gồm: lợi nhuận giữ lại,
các quỹ như: quỹ đầu tư, phát triển; quỹ khấu hao cơ bản…Đây là nguồn nội
lực của doanh nghiệp, qui mô các nguồn vốn này thể hiện sức mạnh tài chính
cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn bên ngoài: Là các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động
được từ bên ngoài. Các khoản mục cấu thành vốn bên ngoài gồm: vốn huy
động từ phát hành chứng khoán, vốn tín dụng ngân hàng, vốn tín dụng thương
mại….Qui mô của các nguồn vốn này rất lớn và hầu hết các doanh nghiệp đều

phải dựa vào nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu tài trợ của mình. Nhưng việc
huy động vốn bên ngoài đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo được niềm tin cho các
5
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
nhà tài trợ bằng kết quả hoạt động kinh doanh, tổ chức và quản lý doanh
nghiệp.
1.1.2.3 Vốn chủ sở hữu và vốn nợ
Căn cứ vào quan hệ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia
thành vốn chủ sở hữu và vốn nợ.
Vốn chủ sở hữu
Là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, là nguồn có thời hạn rất dài
và chỉ khi doanh nghiệp ngừng hoạt động thì nguồn vốn này mới thôi được bổ
sung vào tổng vốn.
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu sau:
Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia (lợi nhuận giữ lại), vốn từ phát hành
cổ phiếu mới.
Vốn góp ban đầu: Là số vốn đầu tiên doanh nghiệp có khi thành lập. Các
loại hình doanh nghiệp khác nhau nguồn hình thành vốn góp ban đầu cũng
khác nhau. Đối với doanh nghiệp nhà nước là vốn cấp trực tiếp từ ngân sách
nhà nước. Đối với doanh nghiệp tư nhân là vốn do một cá nhân tự bỏ ra để xin
đăng ký kinh doanh và với loại hình công ty là vốn góp của hai hay nhiều
thành viên tạo nên.
Lợi nhuận không chia: Là bộ phận lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tái đầu tư từ lợi nhuận để
lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và
có lợi nhuận. Thông thường lợi nhuận sau thuế của donah nghiệp được chia
làm hai phần: phần thứ nhất được dùng để trả cổ tức cho cổ đông (với công ty
cổ phần), phần thứ hai giữ lại để tái đầu tư sản xuất mở rộng. Tự tài trợ bằng
lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và

khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí tìm
kiếm và giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài. Rất nhiều doanh
nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại, họ đặt ra mục tiêu
6
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
phải có lượng lợi nhuận giữ lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày
càng tăng.
Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới, đây là một
trong những nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng của doanh nghiệp. Tùy
vào nhu cầu vốn, chiến lược thu hút đầu tư của doanh nghiệp cũng như nhu
cầu và tâm lý của các nhà đầu tư mà doanh nghiệp lựa chọn phát hành cổ
phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi.
Vay nợ
Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp còn có nguồn vốn được hình
thành từ các khoản nợ như: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay
thông qua phát hành trái phiếu.
Tín dụng ngân hàng: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có được do vay từ
ngân hàng thông qua các hợp đồng tín dụng. Có thể nói, vốn vay ngân hàng là
một trong những nguồn vốn quan trọng nhất với sự phát triển của doanh
nghiệp. Sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch
vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung
ứng nguồn vốn. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay
ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
đặc biệt là đảm bảo vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của
doanh nghiệp.
Tín dụng thương mại (tín dụng của nhà cung cấp): Là nguồn vốn được
hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm
hay trả góp. Trong một số doanh nghiệp, nguồn tín dụng thương mại dưới

dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% thậm chí 40% tổng nguồn vốn.
Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một
phương thức tài trợ rẻ tiền, tiện dụng và linh hoạt, hơn nữa nó còn tạo khả
năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền.
7
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
Vay thông qua phát hành trái phiếu: Là hình thức doanh nghiệp phát
hành các giấy vay nợ dài hạn để huy động vốn trên thị trường tài chính. Trái
phiếu là một khế ước mà doanh nghiệp phát hành cam kết sẽ trả lãi và gốc cho
người mua trái phiếu hay người sở hữu trái phiếu vào một thời điểm nhất
định. Doanh nghiệp phát hành phải quan tâm đến việc lựa chọn trái phiếu để
phát hành (trái phiếu gồm: trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất
biến đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu chuyển đổi), vì việc phát hành
trái phiếu liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và
tính hấp dẫn của trái phiếu. Nguồn vốn vay thông qua phát hành trái phiếu là
nguồn vốn có tiềm năng rất lớn vì doanh nghiệp có thể thu hút được nguồn
tiền nhàn rỗi trong dân chúng và các nhà đầu tư để đáp ứng nhu cầu vốn lớn
và dài hạn của doanh nghiệp.
Việc phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp theo các tiêu chí như trên có
vai trò quan trọng trong lựa chọn các phương thức huy động của doanh
nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng. Thật vậy, khi doanh nghiệp
phân loại vốn thành các bộ phận có nghĩa là doanh nghiệp cũng chia các
phương thức huy động vốn của mình dựa trên việc phân loại vốn đó. Việc
phân chia này, giúp doanh nghiệp phân loại được chi phí vốn tương ứng với
từng loại vốn, từ đó lựa chọn được phương thức huy động phù hợp.
1.2 Huy động vốn của công ty cổ phần
1.2.1 Đặc điểm của công ty cổ phần
Khái niệm: Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó vốn điều
lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.

Đặc điểm của mô hình công ty cổ phần trong hoạt động huy động vốn:
Có thể nói, mô hình công ty cổ phần là cách thức tổ chức doanh nghiệp
có nhiều ưu thế trong đó ưu thế mạnh nhất là khả năng huy động vốn lớn bằng
nhiều phương thức khác nhau hơn hẳn các doanh nghiệp được tổ chức theo
mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư
nhân. Các ưu thế trong huy động vốn của công ty cổ phần là:
8
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
Một là, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mà các cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và tài sản của doanh nghiệp trong phạm vi
vốn góp, không giống như các thành viên của công ty hợp danh hay chủ
doanh nghiệp tư nhân là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Chính vì vậy, công ty cổ phần có nhiều
thuận lợi hơn trong việc huy động vốn so với hai loại hình doanh nghiệp trên,
các cổ đông của công ty cổ phần sẽ không lo sợ rằng toàn bộ tài sản của mình
có thể bị mất nếu công ty làm ăn thua lỗ, vì thế họ sẽ dễ dàng hơn để quyết
định bỏ vốn đầu tư vào công ty. Điều này tạo khả năng cho các công ty cổ
phần tăng vốn tương đối dễ dàng.
Hai là, công ty cổ phần cũng giống như công ty trách nhiệm hữu hạn là
cá nhân hay tổ chức tham gia góp vốn hay mua cổ phần của công ty chỉ phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và tài sản của công ty trong phạm vi số vốn
cam kết góp, nhưng với công ty cổ phần, tổng số vốn góp của các cổ đông
được chia thành các phần bằng nhau với mệnh giá của mỗi cổ phần nhỏ nên
các nhà đầu tư dù có một lượng vốn thấp cũng có thể mua được cổ phần của
công ty và trở thành một trong những chủ sở hữu của công ty. Điều này rất
thuận lợi cho công ty cổ phần trong việc huy động các nguồn tiền nhàn rỗi
trong dân cư cũng như các nhà đầu tư. Khi muốn huy động thêm vốn chủ sở
hữu, công ty cổ phần chỉ cần phát hành thêm cổ phiếu mới và thông qua thị
trường tài chính bán ra công chúng. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn,

muốn tăng thêm vốn chủ sở hữu công ty phải tăng vốn góp của các thành viên
hay tiếp nhận vốn góp của các thành viên mới, đây là điểm hạn chế của mô
hình công ty này vì lượng vốn mà mỗi thành viên có được chỉ là hữu hạn và
số lượng thành viên chỉ giới hạn ở một mức nhất định (theo điều 38 Luật
Doanh nghiệp 2005, số lượng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn
không vượt quá 50).
Ba là, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy
động vốn, trong khi đó công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phép phát hành
9
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
trái phiếu còn công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thì không được phép
phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Có thể nói đây là một ưu thế nổi
bật của công ty cổ phần trong hoạt động huy động vốn. Một doanh nghiệp
được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần có thể huy động được cả nguồn
vốn chủ sở hữu lẫn nguồn vay nợ rất dồi dào thông qua phát hành cổ phiếu,
trái phiếu và các chứng khoán khác trên thị trường tài chính trong khi các loại
hình doanh nghiệp khác thì khó khăn hơn. Sự phát triển của thị trường tài
chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng thực sự mở ra kênh huy
động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp trong đó chiếm vị trí quan trọng là
các công ty cổ phần. Với đặc điểm nổi trội như ở trên các công ty cổ phần
ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận với những nguồn vốn có qui mô lớn, ổn
định, chi phí thấp lại không bị thẩm định và kiểm soát quá chặt chẽ như vốn
vay từ các ngân hàng thương mại. Sự ưu việt này đã chứng minh cho sự phát
triển mạnh mẽ của mô hình công ty cổ phần trong nền kinh tế cả về qui mô và
chất lượng hoạt động kinh doanh, các công ty lớn trên thế giới như IBM,
Toyota, Samsung đều là những công ty cổ phần và tại Mỹ nơi có số lượng
công ty cổ phần lớn nhất thế giới cùng với thị trường tài chính phát triển bậc
nhất, nguồn vốn các công ty cổ phần huy động qua phát hành chứng khoán
lên đến 5152 tỷ đô la chiếm 38,9% tổng lượng vốn trên thị trường tài chính

(năm 1990).
Bốn là, công ty cổ phần khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn được phép niêm
yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán. Công ty cổ phần được niêm
yết sẽ trở thành công ty đại chúng, các nhà đầu tư cũng như công chúng sẽ
biết đến doanh nghiệp nhiều hơn hay đây chính là một hình thức quảng cáo
cho công ty. Nếu công ty hoạt động có hiệu quả thì việc huy động vốn của
công ty trên thị trường tài chính và từ các ngân hàng thương mại sẽ thuận lợi
hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp không niêm yết trên thị trường chứng
khoán vì công ty làm tăng sự tin tưởng của các nhà đầu tư. Vì thế khi công ty
cần thêm vốn có thể dễ dàng phát hành chứng khoán mới ra công chúng bởi lẽ
10
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
có nhiều người muốn mua chứng khoán của công ty. Mặt khác, công ty có thể
giảm bớt các chi phí phát hành như chi phí quảng cáo, phân phối chứng
khoán. Ngoài ra, công ty cũng dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân
hàng thương mại vì các ngân hàng sẽ không quá khắt khe trong việc thẩm
định hồ sơ xin vay của công ty vì đã được biết tiếng công ty trên thị trường
chứng khoán, thậm chí nhiều trường hợp công ty không cần có tài sản thế
chấp mà vẫn có thể vay được vốn.
Tóm lại các đặc điểm của công ty cổ phần cho thấy những thuận lợi của
loại hình công ty này trong việc huy động vốn. Công ty cổ phần không những
có khả năng sử dụng các phương thức huy động như các loại hình doanh
nghiệp khác mà đặc biệt công ty cổ phần còn có thể khai thác những phương
thức huy động mà các loại hình doanh nghiệp khác không thể có được, đó là
các hình thức huy động trên thị trường tài chính. Điều này đã khiến công ty cổ
phần thực sự trở nên ưu việt hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn của công ty cổ phần
Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần cũng như các loại hình
doanh nghiệp khác cần có vốn để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh

doanh như: tài trợ cho tài sản cố định, tài trợ cho tài sản lưu động, tài trợ cho
các dự án….vì vậy công ty cổ phần cũng phải luôn đặt kế hoạch và chiến lược
huy động các nguồn vốn để đảm bảo sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của
doanh nghiệp. Trong kế hoạch và chiến lược huy động vốn, các doanh nghiệp
nói chung và công ty cổ phần nói riêng đều phải đưa ra các hình thức huy
động vốn phù hợp nhất cho doanh nghiệp mình, có thể là các hình thức huy
động nguồn vốn bên trong doanh nghiệp, huy động nguồn vốn bên ngoài hoặc
các hình thức huy động vốn ngắn hạn, huy động vốn dài hạn; các hình thức
huy động vốn chủ sở hữu, huy động nợ. Việc phân loại các hình thức huy
động như trên dựa vào các tiêu chí khác nhau trong việc phân loại nguồn vốn
của doanh nghiệp (nguồn bên trong, nguồn bên ngoài; nguồn ngắn hạn, nguồn
dài hạn; nguồn vốn chủ sở hữu và vốn nợ). Tuy nhiên, trong các doanh
11
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
nghiệp, vốn được phân thành hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ nhằm tạo
sự rõ ràng về sở hữu, sự thuận tiện trong quản lý vì bộ phận nguồn vốn trong
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp cũng gồm hai phần là vốn chủ sở hữu
và nợ phải trả. Chính vì lẽ đó, các hình thức huy động vốn được đề cập trong
chuyên đề này là các hình thức huy động vốn chủ sở hữu và nợ. Cụ thể các
hình thức huy động đó như sau:
1.2.2.1 Hình thức huy động vốn chủ sở hữu tại công ty cổ phần.
Huy động vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần gồm có: Phát hành cổ
phiếu để huy động vốn góp ban đầu, trích lập lợi nhuận không chia, phát hành
cổ phiếu mới.
Phát hành cổ phiếu để huy động vốn góp ban đầu:
Đối với công ty cổ phần, vốn góp ban đầu được huy động chủ yếu từ cổ
đông sáng lập, phần còn lại do các cổ đông khác đóng góp thông qua việc
mua cổ phiếu phát hành lần đầu của doanh nghiệp. Theo Luật Doanh nghiệp
2005, điều 84 có qui định “ Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký

mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải
thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Như vậy, hình thức
huy động vốn góp ban đầu của công ty cổ phần là phát hành cổ phiếu dựa trên
số vốn điều lệ tại thời điểm công ty tiến hành đăng ký kinh doanh lần đầu
tiên, phần lớn lượng cổ phiếu chào bán được mua bởi các cổ đông sáng lập
(những người cùng nhau ký hợp đồng sáng lập công ty cổ phần), các nhà đầu
tư bên ngoài thường ít mua những cổ phiếu này vì họ chưa có sự tin tưởng
vào một công ty mới thành lập.
Trích lập lợi nhuận không chia:
Qui mô vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được bắt đầu bằng qui mô
vốn góp ban đầu, qui mô này cần được tăng theo qui mô phát triển của công
ty . Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu công ty cổ phần hoạt
động có hiệu quả thì nguồn vốn chủ sở hữu sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng
12
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
trưởng bằng cách huy động từ lợi nhuận không chia. Với công ty cổ phần,
nguồn lợi nhuận để lại tái đầu tư là phần còn lại của lợi nhuận sau thuế sau
khi đã trừ đi khoản chia cổ tức cho các cổ đông, vì vậy việc huy động nguồn
vốn này được nhiều hay ít phụ thuộc vào chính sách phân phối cổ tức của
công ty cổ phần. Để hình thành được chính sách phân phối cổ tức, công ty cổ
phần phải cân nhắc rất kỹ càng vì nó liên quan đến những vấn đề hết sức
nhạy cảm, nếu công ty không giải quyết tốt thì không những không huy động
được nguồn lợi nhuận giữ lại mà còn ảnh hưởng đến các hoạt động huy động
vốn khác của công ty, đặc biệt là huy động bằng phát hành cổ phiếu thường
mới. Sở dĩ như vậy là vì, khi công ty để lại một phần lợi nhuận sau thuế trong
năm cho tái đầu tư, tức là, công ty không dùng số lợi nhuận đó chia lãi cổ
phần, các cổ động không nhận được cổ tức nhưng bù lại họ có quyền sở hữu
vốn cổ phần tăng lên của công ty và giá trị ghi sổ của các cổ phiếu tăng lên

cùng với việc huy động từ lợi nhuận giữ lại tăng lên. Điều này một mặt
khuyến khích các cổ động nắm giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác sẽ làm
giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được
một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức quá thấp, hoặc số lãi ròng
không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị sụt giảm và ảnh hưởng đến việc
phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn của công ty. Do đó, chính sách
phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố liên quan
như:
Tổng số lợi nhuận sau thuế trong kỳ: Tổng số lợi nhuận sau thuế trong
kỳ ảnh hưởng đến chính sách phân phối cổ tức vì cổ tức của các cổ phiếu có
được chia hay không? mức cổ tức cao hay thấp? phụ thuộc vào lợi nhuận sau
thuế của công ty trong kỳ. Nếu trong kỳ, công ty cổ phần không có lợi nhuận
hay mức lợi nhuận quá nhỏ thì công ty sẽ tuyên bố không chia cổ tức cho các
cổ đông, hay chính sách phân phối cổ tức sẽ không hình thành trong kỳ đó
của công ty. Nếu công ty có lợi nhuận sau thuế trong kỳ lớn thì tùy thuộc vào
13
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
kế hoạch phát triển công ty trong giai đoạn kế tiếp, công ty sẽ quyết định trích
bao nhiêu % của lợi nhuận sau thuế để chia lãi cổ tức.
Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước: Khi xây dựng chính
sách phân phối cổ tức trong kỳ, công ty phải so sánh mức chia lãi trên một cổ
phiếu năm nay với năm trước để làm sao tỷ lệ lãi/cổ phiếu năm nay không
thấp hơn năm trước và vẫn đảm bảo nguồn lợi nhuận để lại cho hoạt động tái
đầu tư. Sở dĩ chính sách phân phối cổ tức của công ty phải đáp ứng yêu cầu
này vì cổ đông thường mong muốn mức lãi cổ tức họ nhận được năm sau phải
cao hơn hay ít nhất cũng phải bằng năm trước. Điều này thể hiện công ty hoạt
động có hiệu quả trong kỳ vừa qua và làm tăng thêm sự tin tưởng của các nhà
đầu tư vào cổ phiếu của công ty.
Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu

của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó: Một cổ phiếu
của một công ty cổ phần được đánh giá xếp thứ hạng cao trên thị trường, có
tính ổn định về thị giá, đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó tốt thì công ty
cổ phần phát hành cổ phiếu đó không phải thay đổi thường xuyên chính sách
phân phối cổ tức của mình, vì độ rủi ro của cổ phiếu đó thấp hơn các cổ phiếu
khác và các nhà đầu tư dễ dàng chấp nhận bất kỳ chính sách phân phối cổ tức
nào của công ty. Ngược lại, một cổ phiếu được xếp hạng thấp trên thị trường,
không có tính ổn định về thị giá và không tạo ra được sự đánh giá tốt của
công chúng thì công ty phát hành cổ phiếu đó sẽ phải thường xuyên thay đổi
chính sách phân phối cổ tức của mình để thu hút được các nhà đầu tư
Hiệu quả của việc tái đầu tư: Lợi nhuận sau thuế của công ty không chỉ
được dùng chia cổ tức cho cổ đông mà còn dùng vào hoạt động tái đầu tư.
Nếu công ty nhận thấy hiệu quả của việc tái đầu tư từ lợi nhuận để lại không
cao thì chính sách phân phối cổ tức của công ty sẽ là sử dụng phần lợi nhuận
để lại nhiều hơn cho việc chia lãi cổ tức. Điều này khuyến khích các nhà đầu
tư quan tâm nhiều hơn đến cổ phiếu công ty. Ngược lại, nếu công ty nhận
14
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
thấy rằng việc tái đầu tư mang lại nhiều lợi ích hơn cho công ty thì chính sách
phân phối cổ tức năm nay sẽ là duy trì mức lãi cổ tức như năm trước.
Phát hành cổ phiếu mới:
Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu là cách huy động vốn đặc
trưng của loại hình công ty cổ phần. Cách này giúp công ty cổ phần có thể
huy động được nguồn vốn chủ sở hữu lớn từ dân chúng và các nhà đầu tư.
Công ty cổ phần có thể lựa chọn phát hành ra thị trường chứng khoán nhiều
loại cổ phiếu khác nhau, nhưng khi đề cập đến cổ phiếu và phát hành cổ phiếu
công ty cổ phần thường lựa chọn giữa cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu ưu đãi
hay cả hai. Vì vậy, một công ty cổ phần muốn huy động bằng phát hành cổ
phiếu phải hiểu rõ về đặc điểm của từng loại để có sự lựa chọn đúng đắn.

Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty và
cho phép người nắm giữ nó được hưởng các quyền lợi thông thường trong
công ty. Người nắm giữ cổ phiếu thường là các cổ đông thường, cổ động
thường có những quyền chủ yếu sau:
Quyền tham gia bỏ phiếu và ứng cử vào Hội đồng quản trị và được
quyền tham gia quyết định các vấn đề quan trọng đối với hoạt động của công
ty.
Quyền đối với tài sản của công ty: Quyền này được thể hiện trước hết là
quyền được nhận phần lợi nhuận của công ty chia cho các cổ đông hàng năm
dưới hình thức lợi tức cổ phần và phần giá trị còn lại của công ty khi thanh lý,
sau khi đã thanh toán các khoản nợ, các khoản thanh toán cho cổ đông ưu đãi.
Quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần.
Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi mua bán
trên thị trường chứng khoán vì việc phát hành chúng mang lại những lợi thế
cho tổ chức phát hành:
Thứ nhất, huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường giúp công ty
tăng được nguồn vốn đầu tư dài hạn, nhưng công ty không bị bắt buộc có tính
15
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
chất pháp lý phải trả khoản tiền chi phí cho việc sử dụng vốn này một cách cố
định như khi sử dụng vốn vay. Khi huy động vốn theo cách này để mở rộng
kinh doanh, nếu công ty không may chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc bị thua lỗ,
công ty có thể tuyên bố không phân chia lợi tức cổ phần cho các cổ đông
thường cho đến khi công ty thu được lợi nhuận, có khả năng trả lợi tức cổ
phần. Do vậy, cách thức huy động này giúp công ty giảm được nguy cơ tổ
chức lại hay phá sản.
Thứ hai, huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường ra công chúng là
một phương thức huy động vốn từ bên ngoài nhưng công ty không có nghĩa

vụ hoàn trả theo kỳ hạn cố định. Điều đó giúp công ty chủ động sử dụng vốn
linh hoạt trong kinh doanh mà không lo “gánh nặng” nợ nần.
Thứ ba, việc phát hành thêm cổ phiếu thường mới ra công chúng làm
tăng thêm vốn chủ sở hữu của công ty, từ đó làm hệ số nợ giảm và tăng thêm
mức độ vững chắc về tài chính của công ty. Với tác động đó làm tăng khả
năng vay vốn và mức độ tín nhiệm cho doanh nghiệp.
Thứ tư, trong một số trường hợp cổ phiếu thường được bán ra dễ dàng
hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu (tức là những chứng khoán có lợi tức
cố định). Cổ phiếu thường có thể lôi cuốn hấp dẫn một số nhóm người đầu tư
nhất định, bởi lẽ cổ phiếu thường hứa hẹn mang lại lợi tức cao hơn cổ phiếu
ưu đãi và trái phiếu, mặt khác cổ phiếu thường tạo cho nhà đầu tư một rào
chắn tốt hơn so với đầu tư vào trái phiếu để chống đỡ với lạm phát không dự
kiến được, bởi lẽ cổ phiếu thường đại diện cho quyền sở hữu trong công ty,
đầu tư vào cổ phiếu thường cũng có nghĩa là đầu tư vào một tài sản thực trong
công ty. Thông thường, trong thời kỳ lạm phát cổ phiếu thường không bị mất
giá như trái phiếu.
Mặc dù việc phát hành cổ phiếu thường có nhiều ưu thế như vậy song
phương thức huy động này cũng có những hạn chế, ràng buộc mà công ty cổ
phần phải cân nhắc kỹ lưỡng:
16
Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần xây lắp
Bưu điện Hà Nội
Một là, cổ phiếu thường bị giới hạn lượng cổ phiếu tối đa mà công ty
được phép phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Đây là một trong
những quy định của Ủy ban chứng khoán Nhà nước nhằm quản lý và kiểm
soát chặt chẽ hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Thông thường,
một công ty có thể phát hành một lần hoặc một số lần trong giới hạn số cổ
phiếu đã được cấp phép phát hành. Như vậy, công ty cổ phần muốn tăng vốn
cổ phần thì trước hết phải được Đại hội cổ đông cho phép sau đó phải hoàn tất
các thủ tục quy định khác, điều này nhiều khi làm lỡ mất cơ hội huy động vốn

của doanh nghiệp trên thị trường và có thể gây tâm lý e ngại cho doanh
nghiệp khi lựa chọn cách thức huy động phát hành cổ phiếu thường.
Hai là, việc phát hành cổ phiếu thường mới ra công chúng làm tăng thêm
cổ đông mới, từ đó phải phân chia quyền bỏ phiếu và kiểm soát công ty cho
số cổ đông này. Điều này có thể gây bất lợi đối với cổ đông hiện hành. Vì thế,
các công ty mới thành lập và công ty nhỏ thường né tránh việc phát hành
thêm cổ phiếu ra bên ngoài để không phải chia sẻ quyền kiểm soát công ty
cho người khác.
Ba là, phát hành thêm cổ phiếu thường mới làm tăng thêm cổ đông mới
và như vậy các cổ đông cũ phải chia sẻ quyền phân phối thu nhập cho các cổ
đông mới. Điều này càng trở nên bất lợi cho các cổ đông cũ khi công ty có
khả năng thu được nhiều lợi nhuận, làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu đối
với cổ đông cũ và ảnh hưởng đến huy động vốn của công ty.
Bốn là, chi phí phát hành cổ phiếu thường mới như chi phí hoa hồng cho
người bảo lãnh, chi phí quảng cáo….nói chung cao hơn chi phí phát hành cổ
phiếu ưu đãi và trái phiếu. Sở dĩ như vậy là do đầu tư vào cổ phiếu thường có
độ rủi ro cao hơn so với các chứng khoán khác, để thực hiện trọn vẹn đợt phát
hành cổ phiếu phải thu hút được người đầu tư trên diện rộng hơn, từ đó chi
phí quảng cáo, chi phí phân phối cổ phiếu thường phải cao hơn.
17

×