Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp trong đối tương quan với chính sách kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.01 KB, 9 trang )

Tạp chí Đại học Công nghiệp
31
NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN
Nguyễn Thị Thu Hoàn
*
TÓM TẮT
Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và chính sách kế toán luôn có sự khác biệt về mục
tiêu và bản chất. Tuy nhiên giữa chúng lại có mối tương quan mật thiết, chặt chẽ với nhau vì lợi
ích chung của xã hội. Để tìm hiểu mối tương quan giữa chúng như thế nào, đề tài đã nghiên cứu
về các lý thuyết được sử dụng trong việc xây dựng chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, chính
sách kế toán tài chính, đồng thời tìm hiểu mối quan hệ giữa chúng ở một số quốc gia trên thế
giới và ở Việt Nam. Từ đó tìm ra những nguyên nhân, bất cập hiện nay giữa hai chính sách để
đưa ra một số gợi ý nhằm hoàn thiện chúng.
Từ khóa: Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, chính sách kế toán, mối tương quan,
thuế thu nhập doanh nghiệp
RESEARCH INTO CORPORATE TAX POLICIES IN RELATION TO ACCOUNTING
POLICIES
ABSTRACT
Income tax policy and accounting policy have differences in the objectives and nature.
However there are intimately correlated closely together for the common benefit of society. To
find out the relationship between them, this topics study about the theories which used in the
formulation of this policies, as well as learn the relationship between them in some countries
over the world, Vietnam and find out the causes and current limitations between the two policies
to give some suggestions to perfect them.
Keywords: Income tax policy, accounting policy, correlation, income tax
I. GIỚI THIỆU
Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
và chính sách kế toán của các nước trên thế
giới cũng như ở Việt Nam có ảnh hưởng rất
lớn đến lợi ích của nhà nước và chủ doanh


nghiệp. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa
chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hay
chính sách kế toán đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới cũng như Việt Nam
quan tâm đến. Quan điểm của một số nhà
nghiên cứu cho rằng chính sách thuế và chính
sách kế toán luôn có sự thống nhất với nhau,
nhưng một số nhà nghiên cứu khác lại cho
rằng luôn có sự độc lập giữa chính sách thuế
và chính sách kế toán. Việc tìm hiểu chi tiết
hơn về chính sách thuế thu nhập trong mối
tương quan với chính sách kế toán sẽ giúp cho
chúng ta có một bức tranh tổng thể vấn đề còn
tồn tại giữa chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp và chính sách kế toán, mối quan hệ
giữa chúng ở một số nước trên thế giới từ đó
có những gợi ý đối với việc thu hẹp khoảng
cách hợp lý giữa chính sách kế toán và chính
sách thuế thu nhập doanh nghiệp.



*
Trường Đại học Công nghiệp TPHCM
Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp …
32
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp sử dụng chủ yếu trong
nghiên cứu là phương pháp định tính. Dữ liệu
được tác giả sử dụng tổng hợp là dữ liệu thứ

cấp, phân tích từ đó nội suy để giới thiệu việc
nghiên cứu chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp trong mối tương quan với chính sách
kế toán.
III. KHÁI NIỆM “CHÍNH SÁCH KẾ
TOÁN”, “CHUẨN MỰC KẾ TOÁN” VÀ
“THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP”.
1. Chính sách kế toán
Theo Chuẩn mực kế toán số 29 định
nghĩa: “Chính sách kế toán là các nguyên tắc,
cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể được
doanh nghiệp áp dụng trong việc lập và trình
bày báo cáo tài chính”.
Theo chuẩn mưc kế toán số 21 “Trình
bày báo cáo tài chính”: Chính sách kế toán bao
gồm những nguyên tắc, cơ sở và các phương
pháp kế toán cụ thể được doanh nghiệp áp
dụng trong quá trình lập và trình bày báo cáo
tài chính. Doanh nghiệp phải lựa chọn và áp
dụng chính sách kế toán cho việc lập và trình
bày báo cáo tài chính phù hợp với quy định
của từng chuẩn mực kế toán.
Chính sách kế toán là những nguyên
tắc, khi doanh nghiệp lập báo cáo tài chính
phải tuân thủ các nguyên tắc của kế toán. Bên
cạnh đó chính sách kế toán còn là những lựa
chọn. Chuẩn mực kế toán cho phép doanh
nghiệp lựa chọn các phương pháp kế toán khác
nhau cho phù hợp với mục tiêu của doanh
nghiệp. Việc lựa chọn chính sách kế toán khác

nhau sẽ làm thay đổi thông tin trình bày trên
báo cáo tài chính.
2. Chuẩn mực kế toán
Theo điều 8 Luật kế toán: “Chuẩn mực
kế toán gồm những nguyên tắc và phương
pháp kế toán cơ bản để ghi sổ kế toán và lập
báo cáo tài chính”.
Như vậy, chuẩn mực kế toán là những
quy định và hướng dẫn các nguyên tắc, nội
dung, phương pháp và thủ tục kế toán cơ bản
nhất, chung nhất làm cơ sở ghi chép và lập báo
cáo tài chính nhằm đạt được sự đánh giá trung
thực, hợp lý.
Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu mối
tương quan giữa chính sách thuế thu nhập
doanh nghiệp với chính sách kế toán. Để làm
rõ mối quan hệ này, tác giả cũng đã nghiên
cứu cả với chuẩn mực kế toán thuế thu nhập
doanh nghiệp.
3. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm thu nhập
tùy theo mục đích của các nhà nghiên cứu.
Tuy nhiên, đại diện cho lý thuyết về bổ sung
tài sản, tăng thêm tiềm lực kinh tế mà không
quan tâm đến tính thường xuyên của thu
nhập G.Schamt coi thu nhập là khả năng
kinh tế sẽ được bổ sung trong một khoản thời
gian nhất định.
Định nghĩa cổ điển chi phí (Barton,

1982): “Chi phí là giá trị của nguồn lực được
sử dụng để tạo ra thu nhập trong kỳ”. Theo
định nghĩa này, thuế thu nhập doanh nghiệp
không phải là chi phí, vì nó không phải được
chi ra để thực hiện doanh thu.
Định nghĩa của IASB: “Chi phí là sự
giảm đi của tài sản/tăng lên của nợ phải trả
làm giảm vốn chủ sở hữu nhưng không
phải là phân phối lợi nhuận. Thuế thu nhập
doanh nghiệp thỏa mãn định nghĩa hiện
đại của chi phí”.
Các nhà kinh tế học cho rằng thuế là
chi phí. Theo Chuẩn mực kế toán của
Australia “Chi phí là sự tiêu dùng, mất đi
của tài sản hay sự tăng lên của khoản nợ
phải trả của doanh nghiệp, đưa tới kết quả
làm giảm lợi nhuận trong kỳ báo cáo”.
Theo định nghĩa này, chi phí không cần
tham gia quá trình tạo ra lợi nhuận. Do đó,
thuế thu nhập doanh nghiệp là chi phí.
Tạp chí Đại học Công nghiệp
33
Nhà kinh tế R.M.Hais và H.C.Simons
(Haig-Simons) người Anh cho rằng: “Thu
nhập là tổng đại số của các giá trị thị
trường, quyền lợi được hưởng dưới dạng
tiêu dùng và những thay đổi về giá trị
trong tổng các quyền sở hữu trong khoảng
một thời gian nhất định”.
Paul.A.Samuelson, nhà kinh tế học

người Mỹ cho rằng “thu nhập là tổng số
tiền kiếm được hoặc thu góp được trong
khoảng thời gian nhất định”.
Thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật
thuế: là loại thuế trực thu đánh trực tiếp
vào thu nhập chịu thuế của cơ sở sản xuất
kinh doanh sau khi đã trừ đi các khoản chi
phí liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu
thuế của cơ sở sản xuất kinh doanh.
Mặc dù có nhiều lý luận chưa thống
nhất, nhưng đa số các ý kiến hiện nay cho
rằng thuế thu nhập doanh nghiệp là khoản
chi phí.
IV. CÁC LÝ THUYẾT ĐƯỢC SỬ
DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH THIẾT LẬP
CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ CHÍNH SÁCH
KẾ TOÁN.
Lý thuyết lợi ích xã hội (Public –
interest theory): Theo lý thuyết lợi ích xã hội,
khi ban hành các quy định cần thiết trong việc
thiết lập các mục tiêu đều nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội trong việc điều chỉnh sự không
hiệu quả hoặc sự bất công giá cả thị trường
nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Bên
cạnh đó, quan điểm này cũng giải thích sự can
thiệp của nhà nước vào những thị trường cạnh
tranh không lành mạnh, thị trường có độc
quyền hoặc chi phối bởi nhóm người bán hoặc
có rào cản ngăn chặn thâm nhập vào thị
trường. Giữa người bán và người mua luôn có

bất đối xứng thông tin và vì tính chất lợi ích
của công chúng.
Vì vậy, trong lĩnh vực kế toán cũng như
lĩnh vực thuế, lợi ích xã hội là cơ sở cần thiết
để thiết lập các tổ chức lập quy về kế toán và
thuế. Trong lĩnh vực thuế, việc xây dựng các
chính sách thuế của nhà nước bao giờ cũng
nhằm phục vụ cho mục đích chung của xã hội,
cộng đồng và phục vụ cho việc phát triển kinh
tế xã hội. Để xây dựng chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp, lý thuyết lợi ích xã hội sẽ
là rất quan trọng mà nhà làm luật không thể
không sử dụng.
Lý thuyết nắm giữ (Capture theory) –
Lý thuyết nhóm lợi ích (interest –group
theory). Các quy định được thiết lập theo yêu
cầu của các nhóm lợi ích trong xã hội, mục
đích của lý thuyết này là mong muốn tối đa
hóa lợi ích của các thành viên trong nhóm.
Bằng các cách và phương pháp khác nhau,
nhóm lợi ích sẽ tìm cách vận động trực tiếp
hoặc gián tiếp với mục đích để làm tăng lợi ích
của họ được ban hành hoặc các quy định bất
lợi cho họ sẽ dần dần bị vô hiệu hóa. Quá trình
nắm giữ có thể xảy ra khi các nhóm lợi ích
kiểm soát được các quy định và tổ chức lập
quy, thành công trong việc liên kết các hoạt
động của tổ chức lập quy với hoạt động của
nhóm lợi ích qua đó tìm cách để chuyển các
quy định theo hướng phù hợp với lợi ích riêng

của nhóm, chia sẻ quan điểm nhằm hướng các
quy định theo mục đích riêng của nhóm lợi
ích. Mức lợi ích của nhóm có thể được xem
như là chỉ số tổng hợp phản ánh vị thế và khả
năng tác động của nhóm đến các chính sách
nhà nước.
Đối với lĩnh vực kế toán, tổ chức lập quy
được thành lập trên quan điểm lợi ích xã hội
có thể bị nắm giữ bởi tổ chức nghề nghiệp.
Đối với lĩnh vực thuế, các cơ quan ban hành
chính sách thuế được thiết lập trên quan điểm
lợi ích của nhà nước vì bản chất của thuế là tận
thu.
Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory): Lý
thuyết ủy nhiệm được phát triển bởi Jensen và
Meckling trong công bố năm 1976. Đề cập đến
mối quan hệ hợp đồng giữa một bên là người
chủ sở hữu vốn của công ty và một bên khác là
Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp …
34
người quản lý - người đại diện thực hiện các
quyết định của công ty. Để thực hiện việc quản
lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc
trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài
sản của công ty. Lý thuyết về ủy nhiệm cho
rằng, nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ
đông và người quản lý công ty) đều muốn tối
đa hóa lợi ích của mình. Lý thuyết ủy nhiệm
nêu ra vấn đề chính là làm thế nào để người
đại diện làm việc vì lợi ích cao nhất cho người

chủ khi họ có lợi thế về thông tin hơn người
chủ và có những lợi ích khác với lợi ích của
những ông chủ này. Sự phân chia quyền sở
hữu và quyền quản lý trong công ty cổ phần:
mâu thuẫn giữa các cổ đông và người đại diện,
các cổ đông và chủ nợ. Trong lý thuyết ủy
nhiệm cũng giải thích khả năng người quản lý
sẽ tìm cách tác động vào các báo cáo tài chính
để đạt được mục đích mà họ mong muốn và
khả năng các nhà quản lý sẽ tìm cách vận dụng
các chính sách kế toán có lợi cho mình khi lập
báo cáo tài chính nếu tình hình tài chính gặp
khó khăn.
Lý thuyết ủy nhiệm cũng là cơ sở để
thiết lập báo cáo tài chính phục vụ cho nhu cầu
của nhà quản lý, nhà đầu tư và các cổ đông,
quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp cho
nhà quản lý, cơ quan thuế và các cơ quan hữu
quan có liên quan. Trong kế toán, việc vận
dụng chính sách kế toán cho công ty cũng như
thực thi chính sách thuế thu nhập của doanh
nghiệp, các nhà quản lý thường lựa chọn chính
sách kế toán mang tính chủ quan của nhà quản
lý nhằm mục đích có lợi cho bản thân và
những cổ đông góp vốn. Trong chính sách
thuế, lý thuyết ủy nhiệm để xem xét tác động
chính sách thuế như tỷ lệ, thuế suất…
Tóm lại, nghiên cứu các lý thuyết lợi ích
xã hội, lợi ích nhóm, lợi ích ủy nhiệm là việc
quan trọng trong việc thiết lập chính sách thuế,

chính sách kế toán để qua đó xem xét mối
tương quan giữa chính sách thuế và chính sách
kế toán.
V. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH
SÁCH THUẾ THU NHẬP DOANH
NGHIỆP VÀ CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN
TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA.
1. Trên thế giới
Trên thế giới luôn tồn tại song song hai
hệ thống chính sách kế toán và chính sách thuế
thu nhập doanh nghiệp, kế toán liên kết với
thuế khi các nguyên tắc đo lường thuế được áp
đặt trong kế toán để xác định lợi nhuận kế
toán, kế toán độc lập với hệ thống thuế, lợi
nhuận kế toán không chịu ảnh hưởng của các
nguyên tắc đo lường của luật thuế.
Tại Đức, luôn luôn tồn tại mối quan hệ
chặt chẽ giữa bảng cân đối (Handelsbilanz)
cho mục đích báo cáo tài chính và bảng cân
đối cho mục đích thuế (Steuerbilanz). Mối
quan hệ chặt chẽ giữa Luật thương mại Đức –
HGB (Handelsgesetzbuch) và pháp luật về
chính sách thuế thu nhập Đức
(Einkommenssteuergesetz, EStG) đã được
thông qua nguyên tắc thẩm quyền
(Maßgeblichkeitsprinzip). Nguyên tắc thẩm
quyền cho rằng báo cáo tài chính là cơ sở để
tính thuế. Trong nghiên cứu của Hellmann,
A., Perera, H., & Patel, C. (2013), ông đã
phỏng vấn trực tiếp mười một người bao gồm

bảy giáo sư kế toán Đức, một thành viên của
Hội đồng chuẩn mực kế toán Đức (Deutscher
Standardisierungsrat- DSR), Ban thực thi báo
cáo tài chính Đức (Deutsche Prüfstelle für
Rechnungslegung – DPR), Bộ Tư pháp liên
Bang Đức (Bundesministerium der Justiz –
BMJ) và còn lại là kiểm toán viên chuyên
nghiệp. Kết quả từ việc phỏng vấn các chuyên
gia đã được lựa chọn 10/11 người đều đưa ra
quan điểm giải thích rằng lý do cho mối quan
hệ này là để giảm thiểu chi phí thiết lập báo
cáo tài chính là cần thiết cho cả hai mục đích
báo cáo tài chính và thuế. Tuy nhiên, ảnh
hưởng pháp luật đối với chính sách thuế thu
nhập của Đức (Einkommenssteuergesetz-
EStG) về báo cáo tài chính đã bị chỉ trích với
Tạp chí Đại học Công nghiệp
35
lý do nó làm méo mó giá trị thông tin của báo
cáo tài chính tồn tại trong quy định chính sách
thuế. Sự khác biệt trong nguyên tắc thẩm
quyền rất quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng rất
lớn đến việc thiết lập chính sách thuế và chính
sách kế toán.
Báo cáo tài chính theo Luật thương mại
Đức (HGB) vẫn là cơ sở cho việc đánh thuế
nhưng chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
(EStG) luôn áp đặt quy tắc riêng của mình trên
Luật thương mại Đức. Chính vì vậy khiến cho
các kế toán viên ít quan tâm đến việc trình bày

trung thực và hợp lý mà chủ yếu chỉ quan tâm
đến việc tuân thủ các quy định của thuế. Khả
năng khác biệt giữa báo cáo tài chính cho mục
đích báo cáo bên ngoài và báo cáo tài chính vì
mục đích thuế càng ngày càng có khoảng cách.
Hoa Kỳ - Anh: Thuế thu nhập doanh
nghiệp là một nhân tố trong những môi trường
pháp lý có tác động rất lớn đến hệ thống kế
toán quốc gia. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ và Anh,
thuế có ảnh hưởng không đáng kể đến việc
tính toán lợi nhuận của kế toán. Khi thiết lập
báo cáo tài chính, kế toán thường dựa vào
những nguyên tắc cơ bản của kế toán. Còn khi
lập bảng khai thuế thu nhập, kế toán dựa vào
những chính sách của thuế. Vì vậy, số liệu của
kế toán cung cấp có thể khác biệt giữa các báo
cáo trên. Khi kế toán lập báo cáo tài chính, họ
có thể lựa chọn các phương pháp kế toán phù
hợp với chuẩn mực kế toán để phản ánh trung
thực và hợp lý tình hình kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Còn khi lập các tờ khai liên
quan đến thuế thu nhập doanh nghiệp, các
khoản chi phí hay các khoản thu nhập ghi nhận
không phù hợp với luật thuế thu nhập sẽ được
điều chỉnh lại.
Như vậy, các quốc gia theo điển luật
phần lớn có thị trường vốn không mạnh như
các nước Đức, Indonesia, Thái Lan, Lào, Việt
Nam, kế toán luôn có mối quan hệ chặt chẽ với

chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và các
giá trị kế toán thiên về hướng thận trọng, bảo
mật, thống nhất và tuân thủ. Ngược lại, các
nước thông luật có nguồn cung cấp vốn chủ
yếu từ thị trường vốn như Anh, Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Australia, Hàn Quốc không có quan hệ
chặt chẽ giữa kế toán và chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp. Vì thế, giá trị kế toán của
họ thiên về hướng lạc quan, minh bạch, linh
hoạt và phát triển nghề nghiệp.
2. Tại Việt Nam
Trần Đình Khôi Nguyên (2010) nghiên
cứu ảnh hưởng của chính sách thuế thu nhập
doanh nghiệp đến sự lựa chọn chính sách kế
toán của doanh nghiệp, kết quả nghiên cứu
thông tin trên báo cáo tài chính mục tiêu là ưu
tiên cho nhà quản trị doanh nghiệp và cơ quan
thuế là chủ yếu hay thuế có ảnh hưởng đến sự
lựa chọn chính sách kế toán, mặt khác nhân tố
chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp là
không thể thiếu trong việc vận dụng chuẩn
mực kế toán trong thời điểm hiện nay.
Mối liên hệ kế toán và thuế ảnh hưởng
của các quy định về thuế có tác động rất lớn
đối với công tác kế toán và trong rất nhiều
trường hợp, các báo cáo tài chính cần phải
chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu của cơ
quan thuế. Như vậy, sẽ phát sinh trường hợp
có sự khác biệt giữa các quy định về tài chính
và quy định về thuế.

Chi phí thuế thu nhâp doanh nghiệp ảnh
hưởng đến dòng tiền, vì vậy các doanh nghiệp
thường ưu tiên lựa chọn chính sách kế toán với
mục tiêu sao cho thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp là hợp lý và tiết kiệm nhất Cloyd et
al. (1996), Christos Tzovas (2006) trích
Nguyễn Thị Phương Hồng và Nguyễn Thị
Kim Oanh (2014).
Việc vận dụng thông tư hướng dẫn về
thuế áp dụng vào việc hạch toán kế toán của
doanh nghiệp thực tế đã xảy ra như thông tư số
201/2009/TT-BTC hoặc thông tư hướng dẫn
về trích khấu hao số 45/2013/TT-BTC ngày
Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp …
36
25/4/2013 với mục đích hạn chế mức chênh
lệch giữa thuế và kế toán. Chính điều này dẫn
đến việc hệ thống báo cáo tài chính trong
doanh nghiệp được thiết lập dựa trên chính
sách kế toán và chính sách thuế.
Chính sách thuế và chính sách kế toán
luôn có sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn
nhau. Việc xác định thu nhập chịu thuế thường
dựa vào lợi nhuận kế toán với các điều chỉnh
cần thiết. Theo quy định về thuế hiện nay, thu
nhập chịu thuế được xác định dựa trên Tờ khai
quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu
nhập chịu thuế được tính bằng lợi nhuận kế
toán và thực hiện điều chỉnh các khoản tăng,
giảm thu nhập, chi phí trên Báo cáo kết quả

hoạt động kinh doanh theo quy định của Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, báo cáo
tài chính còn là nơi chứa thông tin để cơ quan
thuế xem xét tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế
thu nhập của doanh nghiệp với nhà nước.
VI. ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÀNH
TỰU, NGUYÊN NHÂN, BẤT CẬP VỀ
CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP VÀ CHÍNH SÁCH KẾ
TOÁN, CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
1. Những thành tựu đạt được
Về chính sách thuế
Thứ nhất, hệ thống chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp đang có xu hướng bắt kịp
với thế giới bằng chứng là đã có việc cắt giảm
mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và
đề ra lộ trình giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
cho những năm tiếp theo bắt đầu từ 2016 để
giảm bớt gánh nặng thuế đối với doanh
nghiệp, mục đích đẩy mạnh phát triển kinh tế
xã hội cho đất nước.
Thứ hai, hệ thống chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp đã có một số sửa đổi, bổ
sung phù hợp với các nước trong khu vực
nhưng vẫn bảo đảm lợi ích quốc gia với việc
không lấy mục tiêu thuế thu nhập doanh
nghiệp là nguồn thu chính mà tập trung chủ
yếu nguồn thu chính là thuế gián thu thay vì
thuế trực thu như hiện nay.
Thứ ba, hệ thống chính sách thuế thu

nhập doanh nghiệp sửa đổi theo hướng đơn
giản, minh bạch, dễ hiểu và dễ áp dụng phù
hợp với mọi thành phần kinh tế, tạo môi
trường pháp lý bình đẳng, công bằng không có
sự phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau.
Thứ tư, tạo điều kiện cho người nộp thuế
trong việc sử dụng tờ khai mã vạch hai chiều,
áp dụng hình thức kê khai thuế điện tử đã tạo
thuận lợi và giảm thiểu chi phí cho người nộp
thuế và cơ quan thuế.
Về chính sách kế toán, chuẩn mực kế
toán
Việc xây dựng chuẩn mực kế toán việt
nam dựa trên nền tảng chuẩn mực kế toán
quốc tế được xây dựng phù hợp, thống nhất
với thông lệ kế toán của các quốc gia trên thế
giới trong thời gian qua đã giúp chúng ta đẩy
nhanh tiến trình hội nhập toàn cầu.
Các chuẩn mực kế toán đã được ban
hành theo khuôn mẫu thống nhất vì thế các
thông tin trên báo cáo tài chính đã tiến gần hơn
với sự trung thực và hợp lý
Chính sách kế toán đã không ngừng cải
thiện về chất lượng dịch vụ vì vậy đã thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế trong nước hơn.
2. Những bất cập và nguyên nhân
Những bất cập
Theo lý thuyết lợi ích nhóm (interest –
group theory), khi thiết lập chính sách thuế và

kế toán, mỗi bên đều dựa trên lợi ích nhóm của
mình để ban hành hoặc quy định, vì vậy dẫn
đến việc có sự chênh lệch giữa lợi nhuận kế
toán và thu nhập chịu thuế.
Các văn bản ban hành thiếu sự thống
nhất, giữa các thông tư, quyết định, nghị định
thường xuyên thay đổi khiến cho kế toán của
Tạp chí Đại học Công nghiệp
37
các doanh nghiệp phải chịu áp lực về việc vận
dụng và xử lý các chính sách kế toán, chính
sách thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này
dẫn đến việc họ có thể chủ động trong việc tự
thiết lập hai hệ thống kế toán (nội bộ) và hệ
thống kế toán thuế trong doanh nghiệp. Vô
hình chung chính sách thuế thu nhập doanh
nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp trốn
thuế. Tuy nhiên, theo Dự thảo Luật Kế toán
sửa đổi bổ sung (trích điều 14): “Nghiêm cấm
lập hai hoặc nhiều hệ thống sổ kế toán tài
chính khác nhau”. Như vậy, việc các doanh
nghiệp tự chủ động mở hệ thống sổ sách kế
toán nội bộ và hệ thống sổ sách kế toán thuế là
hành vi phạm pháp luật.
Tính tuân thủ nguyên tắc trong thực
hành kế toán còn thấp. Nguyên nhân là trình
độ của người làm kế toán còn hạn chế về sự
hiểu biết và tôn trọng pháp luật. Áp lực cạnh
tranh trên thị trường chưa đủ mạnh để thúc đẩy
các doanh nghiệp quan tâm đến việc xây dựng

và phát triển hệ thống thông tin kế toán. Hệ
thống văn bản pháp luật về kế toán còn thiếu,
chưa đồng bộ và chưa thật sự phù hợp với
thông lệ quốc tế. Pháp luật chủ yếu tập trung
vào kế toán tài chính, điều tiết thuế, vì thế kế
toán các doanh nghiệp thường thiên về việc
phản ánh kế toán để đối phó với thuế nhiều
hơn là phục vụ cho công tác tham mưu ra
quyết định của người quản lý.
Việc thực hiện và áp dụng các thông tư
hướng dẫn về chế độ kế toán còn chưa đồng
bộ, có nhiều văn bản pháp luật bất hợp lý so
với thực tế nhưng chưa được bổ sung hoặc
thay đổi kịp thời, gây ra những khó khăn trong
việc thực thi.
Trong công tác kiểm tra quyết toán thuế
thu nhập doanh nghiệp của cơ quan thuế đối
với các doanh nghiệp thường có sự sai lệch về
doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp, chi
phí trong kỳ do cơ quan thuế xác định và lợi
nhuận trước thuế của doanh nghiệp xác định.
Thu nhập tính thuế do cơ quan thuế xác định
thường lớn hơn lợi nhuận trước thuế theo báo
cáo quyết toán tài chính của doanh nghiệp.
Điều này xuất phát từ việc vận dụng chính
sách thuế và chính sách kế toán khác nhau.
Nguyên nhân: Kế toán doanh nghiệp
chưa hiểu rõ mục tiêu của thuế và mục tiêu của
kế toán; chưa hiểu được mối quan hệ giữa thuế
và kế toán. Vì thế chưa tổ chức hệ thống thông

tin kế toán phục vụ cho mục đích thuế được.
VII. GỢI Ý MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN
HOÀN THIỆN ĐỂ CHÍNH SÁCH THUẾ
THU NHẬP DOANH NGHIỆP CÓ MỐI
TƯƠNG QUAN VỚI CHÍNH SÁCH KẾ
TOÁN
1. Quan điểm
Chính sách thuế và kế toán khi xây dựng
cần phải đưa lợi ích xã hội lên trên hết và cần
bảo vệ lợi ích chung của xã hội theo lý thuyết
lợi ích xã hội (Public – interest theory)
Lợi ích của nhà nước luôn đặt lên hàng
đầu nhưng bên cạnh đó sự phát triển của từng
cá nhân, từng tập thể trong xã hội sẽ luôn có
sức mạnh to lớn thúc đẩy sự phát triển chung
của xã hội theo lý thuyết nhóm lợi ích (interest
–group theory), vì vậy khi xây dựng hay ban
hành chính sách thuế cần đứng trên góc độ của
người thực thi hơn là người ban hành.
Khi ban hành chính sách thuế thu nhập
doanh nghiệp và chính sách kế toán phải có
mối quan hệ mật thiết, kế thừa, liên kết với
nhau và được triển khai một cách đồng bộ để
giảm thiểu tính phức tạp của thông tin kế toán
đối với người sử dụng.
Cần hài hòa một cách hợp lý sự khác
biệt giữa chính sách thuế và chính sách kế
toán.
2. Một số gợi ý để hoàn thiện
Cần rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp

quy hiện nay đang còn hiệu lực liên quan đến
chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và
những văn bản không còn hiệu lực sau đó
Nghiên cứu chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp …
38
thông báo cụ thể cho các doanh nghiệp để
tránh sự trùng lặp, chồng chéo giữa văn bản
này với văn bản khác như Luật Thuế Thu nhâp
doanh nghiệp số 14/2008/QH 12 có hiệu lực
thi hành ngày 1/1/2009, Thông tư
123/2012/TT-BTC Hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số
14/2008/QH12, Luật Quản lý thuế số
78/2006/QH11, Luật quản lý thuế số
21/2012/QH12 ban hành ngày 20/11/2012,
Chuẩn mực kế toán số 17 - Thuế thu nhập
doanh nghiệp được ban hành theo Quyết định
số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15/02/2006 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính được hướng dẫn, Thông
tư số 20/2006/TT- BTC ngày 20/3/2006 hướng
dẫn chuẩn mực kế toán số 17 - Thuế thu nhập
doanh nghiệp ban hành theo quyết định số
12/2005/QĐ-BTC, Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp số 32/2013/QH13 ngày 19/6/2013 của
Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu
lực ngày 1/1/2014, Nghị định số
218/2013/NĐ-CP quy định một số điều của
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và thông tư
số 78/2014 hướng dẫn thi hành một số điều

nghị định 218, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp số 14/2008/ đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Luật số 32/2013/QH13,
Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
21/2012/QH13… Nếu cần thiết có thể ra quyết
định hủy bỏ những văn bản không còn hiệu lực
và thay thế bằng một văn bản cụ thể khác thay
thế.
Cần điều chỉnh giảm mức thuế suất
chung theo lộ trình phù hợp với các nước trong
khu vực và trên thế giới, đồng thời có chính
sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hơn
nữa để nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài, tạo điều kiện tăng nguồn lực tài
chính để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Cần bổ sung thêm các khoản chi phí
được trừ và không được trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế thay vì ở mức khống chế như
hiện nay để thu hẹp khoảng cách so với chính
sách kế toán
Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
và chính sách kế toán cần được đổi mới một
cách đồng bộ và hài hòa có quan hệ mật thiết
với nhau với mục đích thu hẹp khoảng cách
một cách hợp lý.
Trong quá trình soạn thảo, cần lấy ý kiến
và có sự tham gia của những chuyên gia trong
lĩnh vực kế toán hoặc những kế toán trưởng

của những công ty có quy mô lớn phản biện,
góp ý. Hoặc trước khi một văn bản thuế có
hiệu lực cần tổ chức hội thảo để phản biện của
những người làm kế toán cùng với thành viên
trong cơ quan thuế, người trực tiếp quản lý các
doanh nghiệp.
Chính sách thuế phải ổn định lâu dài để
chính sách kế toán không bị ảnh hưởng nhiều,
điều này đồng nghĩa với việc phải có sự phối
hợp một cách chặt chẽ trong việc xây dựng
chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và
chính sách kế toán để phát huy tối ưu mặt tích
cực của kế toán và thuế.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống khung pháp
lý đối với chính sách kế toán, ban hành và sửa
đổi tiếp các chuẩn mực kế toán còn thiếu và
còn hạn chế. Các văn bản hướng dẫn nên
mang tính hướng dẫn, định hướng hơn là việc
quy định quá chi tiết về kỹ thuật hạch toán để
doanh nghiệp có tính chủ động hơn.
Cơ quan ban hành chính sách thuế và kế
toán cần tăng cường trao đổi thông tin, hoặc tổ
chức các cuộc hội thảo để xác định mục tiêu
cụ thể nhằm thu hẹp khoảng cách giữa chính
sách thuế và kế toán một cách hợp lý để đảm
bảo các chính sách được ban hành có tính thực
tiễn cao.
VIII. KẾT LUẬN
Chính sách thuế và chính sách kế toán
luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với các nhà

hoạch định chính sách thuế và kế toán không
Tạp chí Đại học Công nghiệp
39
chỉ tồn tại ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Vì
vậy, đề tài nghiên cứu mối tương quan giữa
chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và
chính sách kế toán để làm rõ nội dung các lý
thuyết sử dụng trong việc thiết lập chúng bằng
phương pháp định tính, và tìm hiểu cụ thể các
chính sách đó ở một số quốc gia trên thế giới.
Từ đó đưa ra một số gợi ý nhằm hoàn thiện hai
chính sách trên cũng như thu hẹp khoảng cách
giữa chúng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hellmann, A., Perera, H., & Patel, C. (2013), “Continental European accounting model and
accounting modernization in Germany”, Advances in Accounting, 29(1), 124–133.
2. Jensen, Michael C., and William Meckling (1976), “Theory of the Firm: Managerial
Behavior, Agency Costs and Ownership Structure”, Journal of Financial Economics 3
(1976) 305-360.
3. Nguyễn Thị Phương Hồng, Nguyễn Thị Kim Oanh (2014), “Các nhân tố ảnh hưởng đến
lựa chọn chính sách kế toán tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, Thị trường - Tài
chính - Tiền tệ số, 2014 (13.7.2014)
4. Price Waterhouse Coupers, 2010/2011 Malaysian Tax and Business Booklet.
5. Price Waterhouse Coupers, In-đô-nê-xi-a Pocket Tax Book 2011.
6. Price Waterhouse Coupers, Thai Tax 2011 Booklet.
7. Taxation in Japan 2010 (KPMG) và Japan Highlights 2012 (Deloitte).
8. Trần Đình Khôi Nguyên (2010), “Bàn về mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng
chế độ kế toán trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại

học Đà Nẵng, (40) 2010, 2.
9. Vũ Hữu Ðức (2010), Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán, Nhà xuất bản Lao
động,TP.HCM.
10.
11.
12.


×