Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.61 KB, 84 trang )

Lời nói đầu

Trong cơ chế thị trường hiện nay, các đơn vị thuộc mọi thành phần
kinh tế khác nhau đều hoạt động theo nguyên tắc tự chủ - hợp tác - cạnh tranh
và bình đẳng trước pháp luật. Theo cơ chế này các doanh nghiệp phải bố trí
sắp xếp tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh làm sao để sản xuất ra những
sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng, để có thể đạt kết quả hoạt
động kinh doanh tốt nhất. Một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chính xác kết quả
hoạt động của doanh nghiệp là hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chỉ có những
doanh nghiệp nào có hiệu quả kinh doanh cao, ổn định thì mới có thể đứng
vững và phát triển trên thị trường. Đây cũng là điều kiện để doanh nghiệp tái
mở rộng sản xuất, để đóng góp vào hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân.
Vì vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đã và đang trở thành vấn đề
bức thiết có tính chất sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Công ty Vận tải thuỷ bắc là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
cũng lấy việc nâng cao hiệu quả kinh doanh làm kim chỉ nam cho hoạt động
của mình. Trong quá trình thực hiện mục tiêu này, Công ty đã thu được nhiều
thành công, tuy vậy vẫn còn những hạn chế nhất định. Xuất phát từ nhận thức
của mình về tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
và thực trạng vấn đề này của Công ty. Trong thời gian thực tập tại Công ty,
được sự giúp đỡ của thầy giáo PGS. TS. Phạm Quang Huấn và sự giúp đỡ
của cán bộ nhân viên của công ty Vận tải thuỷ bắc, em đã chọn đề tài: “Một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty Vận
tải thủy bắc” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Trong luận văn, em chỉ
nghiên cứu vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh, trên cơ sơ các phương pháp
khảo sát, phân tích, tổng hợp từ lý luận đến thực tiễn để đánh giá tình hình
hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty vận tải thuỷ bắc.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
1
Chương I: Những vấn đề cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản


xuất kinh doanh ở Công ty Vận tải thủy bắc
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh ở Công ty Vận tải thuỷ bắc
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS. Phạm Quang
Huấn cùng tập thể cán bộ nhân viên trong công ty đã giúp đỡ em hoàn thành
đề tài này. Do trình độ và thời gian có hạn nên luận văn không thể trỏnh khỏi
những thiếu sót nhất định, kính mong sự chỉ bảo của các thầy cô để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Chương I
Những vấn đề cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất
2
kinh doanh
I. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
1. Khái niệm và bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1. Khái niệm
Hiệu quả sản xuất kinh doanh hay nói cách khác là hiệu quả kinh tế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh là phạm trù có nhiều ý kiến khác nhau từ
trước đến nay. Điều này là do điều kiện lịch sử và do các nhà kinh tế đứng
trên các góc độ khác nhau nghiên cứu vấn đề này. Ta có thể kể ra một số quan
điểm sau:
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giưó phần tăng thêm
của kết quả và phần tăng thêm của chi phí sản xuất kinh doanh. Theo quan
điểm này tính hiệu quả chỉ được xột tơớ phần kết quả và chi phí bổ sung,
trong khi đó sản xuất kinh doanh lại là một quá trình, trong đó các yếu tố tăng
thêm có sự liên hệ mật thiết vơớ cỏc yếu tố sẵn có.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bằng hiệu số giữa kết
quả và chi phí bỏ ra để có đựơc kết quả đó. Quan điểm này có ưu điểm là đã
gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh
trình độ sử dụng các chi phí, thể hiện được mối quan hệ bản chất của hiệu quả

kinh tế. Tuy nhiên quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng
và chất giữa kết quả với chi phí và chưa phản ánh được mức hết mức độ chặt
chẽ của mối liên hệ này.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế, được phản
ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này mới chỉ đứng
trên góc độ biến động theo thời gian, chưa phản ánh được tương quan về
lượng và chất của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ của sản phẩm sản xuất ra,
nh doanh thu tiêu thụ hàng hoá hoặc là kết quả đạt được trong hoạt động kinh
3
tế. Quan niệm này lẫn lộn giữa hiệu quả với kết quả sản xuất kinh doanh, giữa
hiệu quả vơớ mục tiêu kinh doanh.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy
luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách
là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là
chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Nếu theo quan điểm này thì khó có
phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó bởi đời sống và mức
sống của con người là rất đa dạng và phong phó.
- “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập
trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các
nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong qỳa trỡnh tái sản xuất
nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh.”
(1)

- Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nh vậy, nhưng theo em khái
niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh được sử dụng rộng rãi hiện nay là :
“- Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao
nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.”
( 2 )

Nh vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh mô tả mối quan hệ giữa lợi Ých
(1). Giáo trình Thống kê doanh nghiệp, Bộ môn thống kê kinh tế, nhà xuất
bản giáo dục, 1996, trang190.
(2) Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, Khoa Kế toán, nhà xuất bản
giáo dục, 1997, trang 219.
kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có
được lợi Ých kinh tế đó. Biểu hiện của lợi Ých và chi phí kinh tế phụ thuộc
vào mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra, đó có thể là doanh thu bán hàng và
những chi phí gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để có doanh thu
đú v v
4
Nói tóm lại, hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo quan trọng để
đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ
và nó cũng là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp.
1.2. Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh
Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao
động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết
của vấn đề hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản
xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian.
Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh
nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai
thác tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh
doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy
năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải
đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả nhất
định với chi phí tối thiểu.
(3 )
2. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề phức tạp, khó đánh giá

chính xác. Ngay từ phần khái niệm đã trình bày ở trên ta đã biết rằng, hiệu
quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa lợi Ých kinh
tế hay kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để kết quả đó. Mà việc xác định chính xác các đại lượng
kết quả và chi phí của doanh nghiệp trong thực tế không phải là dễ dàng.
(3). Xem: Giáo trình Thống kê doanh nghiệp, 1996, trang190-191.
Xét về kết quả mà doanh nghiệp thu được, sở dĩ điều này thường không
xác định được chính xác bởi nhiều lý do.
5
Thứ nhất là, có những kết quả mà không thể đo lường, định lượng được
nh: uy tín của hãng, thị hiếu mà người tiêu dùng dành cho sản phẩm của hóng,
cỏc mục tiêu định tính mà doanh nghiệp đã đặt ra, các lợi Ých kinh tế
khỏc vv
Thứ hai là, trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh để tạo ra kết
quả diễn ra trong doanh nghiệp, thường có những sản phẩm hỏng, kộm chất
lượng, sản phẩm dở dang thì sẽ phải tính như thế nào? Hơn thế nữa, trong nền
kinh tế thị trường quá trình tiêu thụ sản phẩm lại không đồng nhất với quá
trình tạo ra kết quả. Trong một thời kỳ nào đó, có thể sản xuất ra rất nhiều sản
phẩm hoặc thực hiện được nhiều dịch vụ nhưng tiêu thụ sản phẩm được Ýt
hoặc chậm được thanh toán, nh thế chưa thể coi là doanh nghiệp đạt hiệu quả
kinh tế.
Mặt khác, để đánh giá hiệu quả thỡ cỏc kết quả cũng như các chi phí
thường được đưa về một đơn vị đo lường chung là tiền trong một thời điểm
nhất định. Trong khi đó, giá hàng hoá, dịch vụ cũng như giá trị của tiền trên
thị trường liên tục thay đổi theo thời gian. Đối với việc xác định chi phí mà
doanh nghiệp phải bỏ ra cũng không phải là điều dễ dàng. Trong hoạt động
sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại chi phí khác nhau như : chi phí nguyên
vật liệu, chi phí nhân công, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp việc xác định các loại chi phí này một cách hoàn toàn đầy đủ gặp rất
nhiều khó khăn. Mặt khác, trong thực tế bên cạnh những chi phí hoạt động

sản xuất kinh doanh cũn cú những chi phí khác cho các hoạt động xã hội và
các chi phí đặc biệt khác mà không thể tính đầy đủ chính xác được.
3. Phân biệt các loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được
thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Việc phân biệt các loại hiệu quả sẽ có tác
dụng khác nhau trong đánh giá và phân tích kinh tế, từ đó tìm ra các biện
pháp nâng cao hiệu quả kinh tế.
Trong bài viết này, chỉ giới hạn phân biệt một số loại hiệu quả sau:
6
- Hiệu quả của các chi phí bộ phận và hiệu quả của tổng chi phí
Hiệu quả chi phí bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu
được và lượng chi phí từng loại yếu tố đã bỏ ra nh chi phí về lao động, chi phí
về thiết bị, nguyên vật liệu Hiệu quả của tổng chi phí thể hiện mối tương
quan giữa tổng lượng kết quả thu được và tổng lượng chi phí các yếu tố đã bỏ
ra để có được tổng lượng kết quả đó.
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong
những điều kiện cụ thể về nguồn tài nguyên, lao động, trình độ trang thiết bị
kỹ thuật, trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh, với các chi phí của mỗi yếu
tố khác nhau cấu thành nên tổng chi phí. Do vậy, đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh không thể không đánh giá hiệu quả tổng chi phí, đồng thời cũng
cần phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí để có thể xác định ảnh hưởng
của từng loại yếu tố. Từ đó, có những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu
quả toàn diện trờn cỏc yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh.
“- Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối
Hiệu quả tuyệt đối và tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ
giữa kết quả và chi phí. Trong đó hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số
giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỷ số giữa kết
quả và chi phớ.”
( 4)
Nếu chỉ dùng một trong hai loại chỉ tiêu này để đánh giá kết quả hoạt

động sản xuất kinh doanh thì sẽ không thể cho ta kết luận chính xác được, do
vậy ta cần phải kết hợp hai loại chỉ tiêu này khi đánh giá kết quả kinh doanh.
- Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài
Hiệu quả trước mất là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian
ngắn. Còn hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian
(4). Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước, Khoa Khoa học quản lý,
NXB Khoa học và kỹ thuật, năm 1998, trang 7.
7
dài. Việc phân biệt hai loại hệu quả này được căn cứ vào lợi Ých mà doanh
nghiệp nhận được trong những khoảng thời gian khác nhau. Lợi Ých trong
hiệu quả trước mắt chỉ là mang tính tạm thời, có thể chỉ để đáp ứng yêu cầu
cấp thiết của doanh nghiệp hoặc do điều kiện của doanh nghiệp chi phối. Ví
dụ như việc nhập các máy móc thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu rẻ tiền có thể
mang lại hiệu quả trước mắt, bởi vì doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra một lượng
tiền Ýt (nhưng cũng có thể doanh nghiệp không có khả năng về vốn ), nhưng
về mặt lâu dài không hẳn là vậy. Bởi lợi Ých lâu dài mới là vấn đề quan
trọng đáp ứng cho sự phát triển ổn định và lâu dài của doanh nghiệp. Chính vì
vậy hai loại hiệu qủa này có mối quan hệ mật thiết với nhau, và trong hai loại
hiệu quả này thì doanh nghiệp phải ưu tiên cho hiệu quả lâu dài trong điều
kiện có thể dù có phải hy sinh lơị Ých trước mắt. Chẳng hạn nh việc bỏ tiền
mua bảo hiểm có thể lợi Ých trước mắt bị vi phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn
định lâu dài bởi nó cho phép giảm được rủi ro trong kinh doanh.
- Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng
doanh nghiệp.

Hiệu quả này phản ánh mối quan hệ giữa lợi Ých kinh tế mà
doanh nghiệp nhận được và chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi
Ých đó. Hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả tổng hợp được tính cho toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Chủ thể của hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội

mà người đại diện là Nhà nước, và do đó kết quả và chi phí trong hiệu quả
này xuất phát từ quan điểm toàn bộ xã hội.
Nh vậy, hiệu quả kinh tế cá biệt được xem xét trên quan điểm hay là
trong phạm vi mét doanh nghiệp, còn hiệu quả kinh tế quốc dân được xem xét
trên quan điểm toàn bộ xã hội. Quan hệ giữa hai loại hiệu quả này là quan hệ
giữa lợi Ých bộ phận và lợi Ých tổng thể, giữa lợi Ých cá nhân, tập thể và xã
hội. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được khi các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả, và hiệu quả kinh tế quốc dân lại là tiền đề cho doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả. Tóm lại, hiệu quả kinh tế cá biệt là mối quan tâm
8
hàng đầu của các doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp cần phải quan tâm đến
việc rằng, nú cú phạm vi đến lợi Ých của xã hội hay không để tránh bị xã hội
trừng phạt.
4. Các nguyên tắc xác định hiệu quả
Để có thể đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
thì cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả
Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục
tiêu. Mục tiêu khác nhau, tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau, mục tiêu thay đổi
tiêu chuẩn hiệu quả thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem nh là thước đo
để thực hiện các mục tiêu.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp luôn phải dùa vào
phân tích mục tiêu. Doanh nghiệp được coi là đạt hiệu quả cao nhất khi thực
hiện được các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất.
- Nguyên tắc về tính chính xác, tính khoa học
Để đánh giá hiệu quả các phương án cần phải dùa trên một hệ thống
các chỉ tiêu có thể lượng hoá được và không lượng hoá được, tức là phải kết
hợp phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế
phân tích định lượng bằng phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa
đủ bảo đảm chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi Ých còng nh

mọi chi phí mà chủ thể quan tâm.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả phải
được xác định chính xác, tránh chủ quan tuỳ tiện.
- Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế
Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu
quả kinh tế phải được dựa trờn cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và
dễ hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có
đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính
xác.
9
- Nguyên tắc về sự thống nhất lợi Ých
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh cần
phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà các loại lợi Ých. Bao gồm lợi Ých của chủ
doanh nghiệp và lợi Ých của xã hội, lợi Ých trước mắt và lợi Ých lâu dài, lợi
Ých vật chất và lợi Ých tinh thần, lợi Ých kinh tế và lợi Ých xã hội.
5. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với các
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Đối với mỗi doanh nghiệp, việc giải quyết các vấn đề cơ bản nh sản
xuất cái gì? sản xuất nh thế nào? sản xuất cho ai? sẽ không thành vấn đề nếu
nh các nguồn lực sản xuất kinh doanh : nguyên vật liệu, vốn, là vô tận. Hay
nói cách khác, doanh nghiệp sẽ không cần phải tính toán tới hiệu quả hoạt
động kinh doanh của mình làm gì, bởi vì điều đó chỉ là vô Ých khi mà họ có
được sự cung cấp vô tận cho hoạt động của họ. Nhưng trên thực tế, trong cơ
chế thị trường hiện nay, bất kỳ một tổ chức nào dự cú lớn và mạnh đến đâu
chăng nữa cũng đều bị giới hạn bởi một vài yếu tố nào đó về nguồn lực mà nó
có được. Cú hóng thỡ bị giới hạn về nguồn nguyên vật liệu, chẳng hạn như
nguồn nguyên vật liệu này chủ yếu được khai thác từ tài nguyên thiên nhiên
mà tài nguyên thì đang ngày càng trở nên khan hiếm, cạn kiệt, trong khi vật
liệu mới chưa ra đời hoặc đã ra nhưng không đáp ứng được. Có doanh nghiệp
lại rất có nhu cầu về vốn nhưng lại khó có khả năng xoay xở. Và có những tổ

chức thì trình độ năng lực, phẩm chất của đội ngò lao động chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra v v
Mặt khác, cơ chế thị trường cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh khốc
liệt, nếu doanh nghiệp nào không chịu đựng nổi, lại không nắm bắt được cơ
hội, không phát huy được các lợi thế cạnh tranh của mình, thường xuyên đạt
hiệu quả kinh doanh thấp thì tất yếu sẽ dẫn đến giải thể, phá sản. Bởi vậy,
nhiều người cho rằng : “ Thương trường như chiến trường ”, chỉ cần một chót
10
(5). Những lý luận được viết trong phần 4 này chủ yếu được trích dẫn từ Giáo
trình hiệu quả và quản lý dự án nhà nước, Khoa Khoa học quản lý, nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội - 1998, trang 16-17.
sai lầm thụi thỡ có thể các đối thủ cạnh tranh sẽ tấn công chiếm lĩnh thị
trường
của hãng ngay và đẩy hãng vào tình thế khó khăn. Chính vì thế, trong điều
kiện phải tự hạch toán lỗ lãi, phải tự tìm kiếm thị trường, phải cạnh tranh gay
gắt với các đối thủ khác doanh nghiệp luôn phải tìm cách cắt giảm chi phí, lùa
chọn sản phẩm dịch vụ, lùa chọn phương thức sản xuất kinh doanh sao cho có
lợi nhất, bởi vì nguồn lực là có hạn mà sự lùa chọn đúng đắn sẽ mang lại hiệu
quả cao nhất.
Nh vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là điều tất
yếu đối với mỗi tổ chức sản xuất kinh doanh. Điều đó không chỉ có ý nghĩa
hiện tại mà nó còn là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tiếp tục mở rộng
sản xuất, chiếm lĩnh thị trường mới, nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp trong tương lai. Không những thế, nâng cao hiệu quả ở doanh nghiệp
cũng chính là đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế xó hụị đất nước,
làm cho đất nước phát triển hơn, từ đó tác động tích cực trở lại đối với doanh
nghiệp.
Nói tóm lại, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề tất yếu
mà bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng phải thực hiện, bởi đó
chính là điều kiện để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị

trường.
6. Các nhân tố chủ yếu tác động tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
6.1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Khi tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp
đều phải tập hợp các yếu tố sản xuất và đưa chúng vào hoạt động để tạo ra lợi
nhuận. Các yếu tố đó như lao động, đất đai, trang thiết bị cụng nghệ, tỏc
động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tập hợp
11
các yếu tố này sẽ tạo lên sự vận hành của doanh nghiệp, và khi mỗi yếu tố này
thay đổi tất yếu dẫn đễn các kết quả khác nhau trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Sau đây ta sẽ xem xét một số yếu tố chủ yếu.
- Lực lượng lao động
Lực lượng lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngò lao động
cựng trỡnh độ tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của họ. Chất lượng tốt của lao động
sẽ cho phép doanh nghiệp áp dụng nhanh chóng, thuận tiện các tiến bộ khoa
học kỹ thuật hiện đại vào dây chuyền sản xuất kinh doanh đưa đến sự thành
công cho doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp thì số lượng và kết cấu lao động
hợp lý, phân công đúng người vào đúng việc sẽ cho phép tận dụng tối đa khả
năng còng nh trình độ của ngươỡ lao động, phát huy tính sáng tạo của họ.
Đồng thời, trả công lao động theo đúng công sức mà họ bỏ ra sẽ khuyến khích
lòng hăng say nhiệt tình làm việc, từ đó mà nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nh vậy, số lượng, chất lượng, tinh thần làm việc của những người lao
động đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp. Vì vậy, mỗi tổ chức sản xuất kinh doanh cần phải có kế hoạch tuyển
dụng, đào tạo hợp lý, có sự quan tâm đúng mức đến người lao động, để
người lao động có thể phát huy hết trình độ và khả năng của mình.
- Công nghệ trang thiết bị
Công nghệ là tập hợp những hiểu biết (các phương pháp, các quy tắc,
các kỹ năng) hướng vào cải tạo thiên nhiên phục vụ cho các nhu cầu của con

người. Công nghệ, trang thiết bị với tư cách là phương tiện, công cụ lao động
sử dụng trong sản xuất, nó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp. Thông qua việc tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, tiết kiệm
chi phí nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động từ đó hạ giá thành sản
phẩm tạo ra sức cạnh tranh cho doanh nghiệp (đối với những công nghệ hiện
đại, hợp lý). Chớnh vì vậy, trong cơ chế thị trường nh hiện nay, trước rất
nhiều đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp cần có sự đầu tư, nghiên cứu cải
12
tiến và đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, cũng cần phải thực hiện nghiêm túc công tác bảo quản máy móc
thiết bị, đảm bảo cho máy móc hoạt động tốt nhất.
- Vốn bằng tiền
“ Là tiền đề cần thiết của sản xuất, đó là lao động của quá khứ, lao
động được vật hóa mà con người lưu trữ để sử dụng cho hiện tại và tương lai.
Nó là phương tiện để đẻ ra phương tiện; nhờ có vốn bằng tiền ( kể cả ngoại tệ,
đá quý, kim loại hiếm ) mà con người có điều kiện để tạo ra các yếu tố phục
vụ sản xuất khác ( mua công nghệ, mua đất đai, mua trang thiết bị, mua
nguyên vật liệu, thuê sức lao động v v )”
( 6 )
Có thể nói trong bất cứ một doanh nghiệp nào yếu tố vốn bằng tiền là
rất quan trọng. Bởi vì ngoài việc trang trải các chi phí ở hiện tại, doanh
nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, muốn cải tiến công nghệ, muốn
tham gia vào những lĩnh vực mới để nâng cao sức cạnh tranh, mà không có
vốn thì không thể làm được. Thực tế chứng minh một điều rằng: trong sự
cạnh tranh gay gắt diễn ra trên thị trường, nếu doanh nghiệp nào có tiềm lực
vốn mạnh mẽ sẽ vẫn có thể tồn tại và phát triển được mặc dù gặp thất bại một
vài lần. Nh vậy, nếu thiếu vốn thì doanh nghiệp khó có thể liên tục nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
- Yếu tố quản lý
Quản lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là nhân tố cơ

bản quyết định sự tồn và phát triển hay trì trệ và diệt vong của doanh nghiệp.
Thật vậy, nếu các nguồn lực của doanh nghiệp là rất dồi dào nhưng nếu không
có cách thức quản lý đúng đắn thì cuối cùng những nguồn lực kia cũng sẽ cạn
kiệt và tất yếu sẽ dẫn đến thất bại trong hoạt động. Yếu tố quản lý được áp đặt
trên tất cả cỏc khõu của quá trình sản xuất kinh doanh, ở một khâu nào đó mà
không có sự tác động của quản lý thì không thể không hoàn thành nhiệm vụ
cuả mình một cách khoa học và đem lại hiệu quả cao được. Chính vì vậy,
trong doanh nghiệp vai trò của các nhà quản trị là rất quan trọng, đòi hỏi họ
13
phải có đủ trình độ, năng lực, kinh nghiệm, nghệ thuật quản lý, sự sáng tạo và
quyết đoán, họ chính là người đưa ra các quyết định liên quan đến đường lối,
chiến lược, kế hoạch của doanh nghiệp để đưa doanh nghiệp đi tới mục tiêu
đã định. Nói tóm lại, các nhà quản trị sẽ mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh
nghiệp hoặc là sẽ không mang lại hiệu quả như mong muốn mà có thể đạt
được.
(6) Giáo trình quản lý kinh tế (tập 1), Khoa Khoa học quản lý, NXB Khoa
học và Kỹ thuật 1999, trang8.
- Hệ thống thông tin trong doanh nghiệp
Hệ thống thông tin được quan niệm là tập hợp các phương tiện, các
phương pháp và các cơ quan có liên hệ chặt chẽ với nhau, nhằm đảm bảo cho
việc thu thập, lưu trữ, tìm kiếm, xử lý và cung cấp những thông tin cần thiết
cho công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, giữa các bộ
phận, phòng ban cũng như giữa những người lao động luụn cú sự trao đổi,
giao tiếp với nhau nhằm thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, hệ thống
thông tin cần phải thu thập những vấn đề xảy ra trong công việc, cũng như
bầu không khí làm việc để cho các nhà quản trị có thể đưa ra các quyết định
điều chỉnh kịp thời và thông qua đó truyền đạt các mục tiêu, kế hoạch đến
mọi bộ phận, mọi người lao động trong doanh nghiệp. Mặt khác, hệ thống

thông tin trong doanh nghiệp sẽ xác định những yếu tố của môi trường bên
ngoài như : những yêu cầu về sản phẩm, nhu cầu về sản phẩm của doanh
nghiệp, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, chính xác của nhà nước, các đối
thủ cạnh tranh
hay nói cách khác là những vấn đề và cơ hội phát triển của doanh nghiệp, từ
đó xử lý, phân tích chúng để cho các nhà quản trị có những quyết định chính
xác. Tóm lại, trong điều kiện hiện nay, khi mà thông tin kinh tế đang bùng nổ
14
một cách nhanh chóng thì việc xây dựng một hệ thống thông tin vững mạnh
trong doanh nghiệp sẽ góp phần đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
- Yếu tố văn hoá trong doanh nghiệp
Đây là môi trường của các mối quan hệ trong tập thể và trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Yếu tố văn hoá bao gồm các
quan hệ ứng xử giữa các thành viên, các bộ phận, với các triết lý kinh doanh,
cỏc thói quen hoạt động, làm việc,
“ Thế mạnh của một doanh nghiệp (hay một tổ chức) có thể là kết quả
của văn hoá doanh nghiệp mạnh và ngược lại điểm yếu của doanh nghiệp có
thể là hậu quả khôn lường của văn hoá doanh nghiệp yếu. Một doanh nghiệp
mạnh về văn hoá là một doanh nghiệp có phương châm, đường lối rành mạch,
nhất quán, được thể hiện qua những triết lý kinh doanh. Đó thường là những
doanh nghiệp đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, các thành viên hiểu rõ con đường
phát triển của doanh nghiệp đang làm, họ đầy nhiệt tình không ngại khó khăn,
dám nhận trách nhiệm và mạo hiểm.vv Ngược lại ở những doanh nghiệp
yếu về văn hoá, thường có sự thiếu nhất quán trong bản thân các chính sách
lớn của doanh nghiệp, trong việc thực hiện chỳng, cỏc thành viên Ýt cởi mở
với nhau, thế thủ thiếu ăn khớp, lục đục.vv ”
( 7 )
.
Như vậy, có thể thấy rằng yếu tố văn hoá có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm hiệu quả đó.

- Công tác tổ chức bảo đảm vật tư, nguyên vật liệu
Muốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
được tiến hành đều đặn, liên tục phải đảm bảo được vấn đề về cung cấp
nguyên vật liệu. Đây là vấn đề rất quan trọng, nó có tác động mạnh mẽ đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì :
+ Cung ứng dự trữ đồng bộ, kịp thời và chính xác nguyên vật liệu là
điều kiện có tính chất tiền đề cho sự liên tục của quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
15
+ Đảm bảo cung ứng nguyên vật liệu có chất lượng tốt còn là điều kiện
nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu,
tăng năng suất lao động.
+ Đảm bảo cung ứng, sử dụng tiết kiệm, dự trữ đầy đủ nguyên vật liệu
còn ảnh hưởng tích cực đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, ảnh hưởng
đến việc giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận, tăng tích luỹ cho doanh
nghiệp.
(7). TS Nguyễn Thị Hồng Thuỷ, chương Lập kế hoạch trong quản trị kinh
doanh, Giáo trình Lý thuyết quản trị kinh doanh, NXB Khoa học và kỹ thuật,
năm 1999, trang 181-182.
6.2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm nhân tố bên ngoài hay nói cách khác là môi trường bên ngoài
của doanh nghiệp, là tập hợp các yếu tố nằm ngoài doanh nghiệp nhưng có tác
động lên doanh nghiệp hoặc là chịu sự tác động của doanh nghiệp. Môi
trường nàu của doanh nghiệp luôn tồn tại một cách khách quan, doanh nghiệp
không thể nào quản lý và kiểm soát được. Môi trường là hết sức quan trọng
bởi một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển bình thường nếu có môi
trường thuận lợi. Chính vì thế, doanh nghiệp cần phải hiểu được, phải dự báo
được sự biến động của môi trường, tận dụng các yếu tố thuận lợi của môi
trường để biến nó thành sức mạnh, nguồn lực của mình. Mặt khác, cũng cần
phải khắc phục những cản trở, những tác động tiêu cực hay nói cách khác là

nhiễu của môi trường.
Có như vậy doanh nghiệp mới có thể đạt được hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp có thể chia thành môi
trường kinh doanh trực tiếp (tác nghiệp) và môi trường kinh doanh gián tiếp
(vĩ mô). Sau đây, ta sẽ đi vào từng loại một.
16
6.2.1. Môi trường kinh doanh trực tiếp
- Nhà cung ứng: là các đơn vị cung cấp cho doanh nghiệp các nguồn
nguyên vật liệu và vật tư cần thiết để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp. Những tổ chức cung ứng này ( có thể là cá nhân ) có ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn
như nếu doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào một nguồn cung ứng thì có thể
sẽ bị chèn Ðp về giá cả nguyên vật liệu đầu vào, hoặc có thể chỉ nhận được
những nguyên liệu kém phẩm chất, hoặc không có đủ để cung ứng cho doanh
nghiệp. Như vậy, sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, làm chậm kế hoạch đề ra của doanh nghiệp, từ đó kéo theo rất nhiều
ảnh hưởng tai hại khác. Do đó, doanh nghiệp cần phải có nhiều nguồn cung
ứng khác nhau và có mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng, đồng thời luôn
theo dõi sát sự biến động của giá cả nguyên vật liệu đầu vào trên thị trường.
- Khách hàng : là các cá nhân, nhóm người hoặc doanh nghiệp có nhu
cầu và có khả năng thanh toán về hàng hoá của doanh nghiệp mà chưa được
đáp ứng và mong được thoả mãn. Trong mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh
doanh khách hàng luôn tranh đua với doanh nghiệp thông qua sự bắt Ðp giảm
giá hoặc yêu cầu chất lượng hàng hoá tốt hơn. Nhưng khách hàng cũng chính
là nguồn sống của doanh nghiệp bởi họ tiêu thụ sản phẩm, hoặc sử dụng dịch
vụ của doanh nghiệp, từ đó tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp. Cho nên
doanh nghiệp cần phải hiểu được khách hàng, nắm bắt được tâm lý khách
hàng, tìm mọi cách giữ chân khách hàng khi họ đã đến với sản phẩm, dịch vụ
của doanh nghiệp. Đồng thời phải liên tục tìm kiếm khách hàng mới mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Làm được như thế thì

doanh nghiệp sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Đối thủ cạnh tranh: trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
đều đứng trước nhiều đối thủ cạnh tranh và sự cạnh tranh diễn ra ở mọi nơi,
mọi lúc. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh luụn tỡm mọi cách để giành giật khách hàng
17
và chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Bất kỳ hành động nào của doanh
nghiệp cũng rất dễ làm cho các đối thủ cạnh tranh bắt chước hoặc kích thích
sự trả đũa hay cố gắng chống trả. Kết quả là hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty sẽ gặp khó khăn, lợi nhuận giảm xuống Để khắc phục sự cạnh
tranh này, doanh nghiệp phải luụn cú những sáng kiến đổi mới chất lượng,
mẫu mã sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mới giá rẻ. Ngoài ra, doanh nghiệp
phải luôn nắm bắt thông tin về đối thủ cạnh tranh để tìm ra điểm mạnh cũng
như điểm yếu của họ, các ý đồ của họ từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
Đồng thời phải tuyệt đối giữ bí mật thông tin về doanh nghiệp mình.
- Sản phẩm thay thế: sản phẩm thay thế có tác động không nhỏ đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó hạn chế mức lợi nhuận của
Công ty, bởi vì nếu hãng mà tăng giá thành sản phẩm, dịch vụ của mỡnh thỡ
nhiều khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng hàng thay thế. Chẳng hạn như : mét
Công ty kinh doanh dịch vụ vận tải bằng đường thuỷ, nếu doanh nghiệp đó
mà tăng giá cước vận chuyển thì có thể khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng
dịch vụ vận chuyển bằng đường bộ, đường không, nếu họ cảm thấy có lợi
hơn. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải luôn giữ chữ tín, phải tạo được những
sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, ưu thế hơn hẳn so với hàng thay thế.
Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp đứng vững được trên thị trường và đạt hiệu
quả kinh doanh.
6.2.2. Môi trường kinh doanh gián tiếp
- Môi trường pháp lý: bao gồm các luật, các văn bản dưới luật, các
chính sách, chế độ, thủ tục của nhà nước có liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp. Nhà nước là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động

của các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế. Nhà nước tạo môi trường
và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng
các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo của kế hoạch vĩ
mô. Chính sách kinh tế của nhà nước đối với các doanh nghiệp có ý nghĩa rất
quan trọng trong định hướng đầu tư phát triển kinh doanh, với các đòn bẩy
18
kinh tế, nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh vào
những ngành nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh.
Như vậy, một môi trường pháp lý lành mạnh, đúng đắn, ổn định sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, cho phép doanh nghiệp tìm
mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình trong khuôn khổ
của pháp luật. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ rất vất vả khi môi trường này hay
thay đổi, các quy định không hợp lý. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm
vững các quy định của pháp luật, tuân thủ pháp luật, theo dõi sát môi trường
này để tránh bị pháp luật trừng phạt và thích ứng kịp thời với sự thay đổi của
môi trường pháp lý.
- Môi trường kinh tế: là một doanh nghiệp trong nền kinh tế thì mỗi
doanh nghiệp đều chịu tác động chung của nền kinh tế, như sự thay đổi về tốc
độ tăng trưởng, lạm phát, biến động tài chính tiền tệ, cán cân thanh toán, tỷ
giá hối đoái, Chúng tác động mạnh đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
hãng thông qua việc xác định cung cầu, giá cả, quy mô sản xuất.
- Môi trường chính trị: môi trường chính trị ổn định là cơ sở để tạo ra
một nền kinh tế ổn định, đây cũng là cơ sở để doanh nghiệp có thể yên tâm
đầu tư vào việc phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, tìm cách nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường. Mặt khỏc, nú cũn tạo điều kiện để doanh
nghiệp thực hiện việc liên doanh, liên kết với các Công ty nước ngoài nhằm
đạt được hiệu quả kinh tế cao.
- Môi trường công nghệ: là toàn bộ các nhân tố khoa học, kỹ thuật, các
phát minh sáng chế, những tiến bộ về công nghệ, có liên quan đến công nghệ
của doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm dịch vụ. Khi mà công nghệ phát

triển thỡ chỳng sẽ tạo ra sức Ðp đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp để
nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào, cũng như nâng cao chất lượng,
chủng loại, mẫu mã hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng. Bởi vì, rất có thể nếu doanh nghiệp không kịp thời đổi mới thỡ cỏc đổi
19
thủ cạnh tranh sẽ áp dụng công nghệ mới trước, làm tăng sức cạnh tranh của
họ.
- Mụi trường xó hội: môi trường văn hoá xã hội có những ảnh hưởng
nhất định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu
doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm hoặc cung ứng những dịch vụ đi
ngược lại với các giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội hay là truyền thống phong
tục tập quán của một địa phương, một quốc gia thì tất yếu sẽ thất bại. Mặt
khác, môi trường này cũng tác động đến tác phong làm việc của con người lao
động trong doanh nghiệp. Họ sẽ có tác phong công nghiệp nếu môi trường
văn hoá xã hội phát triển cao và ngược lại.
II. hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh
1. Hệ thống chỉ tiêu tổng quát
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp có quan
hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh như lao động, tư liệu lao
động, đối tượng lao động nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao
khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ
tiêu tổng hợp (khái quát) và các chỉ tiêu chi tiết (cụ thể). Các chỉ tiêu chi tiết
đó phải phản ánh được sức sản xuất, suất hao phí cũng như sức sinh lợi của
từng yếu tố, từng loại vốn (kể cả tổng số và phần gia tăng) và phải thống nhất
với công thức đánh giá hiệu quả chung.
Nếu ký hiệu :
K : là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đó bằng các đơn vị khác nhau.
C : là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau.

E : là hiệu quả.
Ta có công thức chung là :
E = K - C (1): Hiệu quả tuyệt đối (1): Hiệu quả
tuyệt đối
20
C
K
E
=
(2): Hiệu quả tương đối
Như vậy, ta thấy rằng kết quả (K) mà doanh nghiệp nhận được theo
hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bá ra bao
nhiêu thì càng có hiệu quả cao.
2. Hệ thống các chỉ tiêu cụ thể
2.1. Lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu
mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động của mình với chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó.
Như vậy: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí
Lợi nhuận của doanh nghiệp nếu xét theo nguồn hình thành bao gồm
các bộ phận sau: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh; lợi nhuận từ hoạt động
tài chính; lợi nhuận bất thường.
Lợi nhuận là chỉ tiêu rất quan trọng trong đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Ta có thể thấy điều này qua các nhận định sau :
- Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong việc hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ
chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều
quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế, lợi
nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời còn là một chỉ tiêu cơ
bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

( 8)
- Đối với mỗi doanh nghiệp có thể coi tăng lợi nhuận là biểu hiện trực
tiếp của tăng hiệu quả kinh tế. Chính lợi nhuận là điều kiện quan trọng nhất
bảo đảm khă năng tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong
các lĩnh vực kinh doanh.
( 9 )
Như vậy, lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản
ánh mục tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để
21
duy trì sự tồn tại và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, cải thiện và nâng
cao mức sống của người lao động.
2.2. Hệ số doanh lợi vốn kinh doanh
“ Để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn, người phân tích thường tính ra
và so sánh chỉ tiêu sau:
Hệ số doanh lợi
của vốn kinh doanh
Lợi nhuận
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại mấy đồng
lợi nhuận. Trong công thức trên, chỉ tiêu lợi nhuận thường là lợi nhuận ròng
trước thuế hay sau thuế lợi tức hoặc lợi tức gộp, còn vốn kinh doanh có thể là
tổng nguồn vốn (vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả) hay vốn chủ sở hữu,
vốn vay ”
( 10 )
(8). Quản trị tài chính doanh nghiệp, Bộ môn Tài chính doanh nghiệp, NXB
Tài chính, năm 1999, trang 92.
(9). Kinh tế các ngành sản xuất vật chất, Khoa Quản trị kinh doanh công
nghiệp và xây dựng cơ bản, Khoa Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ
môn Kinh tế đầu tư, NXB Giáo dục, 1996, trang 61.
(10). Xem: Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh, 1997, trang227.

2.3. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng chi phí
• “ Hiệu quả sử dụng chi phí
DT
Chi phí
Hiệu quả sử dụng chi phí phản ánh doanh thu đạt được khi bá ra một
đồng chi phí.
• Mức sinh lợi của một đơn vị chi phí
P
C
Mức sinh lợi của một đơn vị chi phí biểu thị mức lợi nhuận thu được
khi một đồng chi phí được bỏ ra.”
( 11 )
22
=
T
1
=
T
2
=
Trong đó : T T
1
: là hiệu quả sử dụng chi phí
T
2
: là mức sinh lợi của một đơn vị chi phí
DT : là doanh thu
C : là chi phí
P : lợi nhuận
2.4. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản và lao động

- Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định
“ Hiệu quả sử dụng tài sản cố định được tính toán bằng nhiều chỉ tiêu,
nhưng phổ biến là các chỉ tiêu sau :
• Sức sản xuất
của tài sản cố định
Tổng doanh thu thuần ( hoặc giá trị tổng sản lượng )
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định
dem lại mấy đồng doanh thu thuần ( hay giá trị sản lượng ).

(11). Kinh tế Thương mại-dịch vô, Bộ môn Kinh tế thương mại, NXB Thống
kê, năm 1997, trang 263-264
• Sức sinh lợi của
Tài sản cố định
=
Lợi nhuận thuần ( hay lãi gộp)
Nguyên giá bình quân Tài sản cố định
Chỉ tiêu mức sinh lợi tài sản cố định cho biết 1 đồng nguyên giá bình
quân tài sản cố định đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp.
• Suất hao phí của
Tài sản cố định
=
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần
(hay giá trị tổng sản lượng )
Qua chỉ tiêu này ta thấy để có 1 đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận
thuần có bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định.
- Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Tổng doanh thu thuần
23

=
• Sức sản xuất
Của vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại
lại mấy đồng doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này còn gọi là “ số vòng quay của vốn lưu động ” cho biết số
vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng, chứng
tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số
luân chuyển.
• Sức sản xuất
của vốn lưu động
Lợi nhuận thuần ( hay lãi gộp )
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn lưu động là ra mấy đồng lợi nhuận
thuần hay lãi gộp trong kỳ.
Khi phân tích chung, cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ
phân tích với kỳ gốc ( kỳ kế hoạch hoặc thực tế kỳ trước ), nếu các chỉ tiêu
sức sản xuất và sức sinh lợi vốn lưu động tăng lên thì chứng tỏ hiệu quả sử
dụng chúng tăng lên và ngược lại.”
(12 )
(12). Xem: Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh,1997, trang 220-221.
- Các chỉ tiêu hiệu quả sức lao động
• “Doanh thu bình quân một lao động
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể làm được bao nhiêu đồng
doanh thu trong một kỳ.
• Mức sinh lợi của một lao động

N
P

B
=
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của mỗi người lao động đối
với xí nghiệp vào lợi nhuận hay kết quả kinh doanh.”
( 13 )
24
N
DT
W
=
=
=
Trong đó :DT : là doanh trong kỳ DT : là doanh trong kỳ
N : là số lao động
P : là lợi nhuận hay lãi thực hiện
W : là doanh thu bình quân 1 lao động
B : là mức sinh lợi của 1 lao động.
(13). Xem: Kinh tế Thương mại-dịch vụ,1997, trang 261- 262.
Chương II
Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh
doanh ở Công ty Vận tải thuỷ I
I. Khái quát tình hình chung của Công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển
Năm 1962 do nhu cầu vận tải nói chung và vận tải đường sống nói
riêng để phục vụ cho công cuộc thống nhất đất nước và phát triển kinh tế,
Công ty Vận tải thuỷ Sông Hồng đã được thành lập vào ngày 5 tháng 9 năm
1962.
Lúc đó Công ty bao gồm 4 đơn vị :
- Đường sông Hà Nội
- Đường sụng Phú Thọ

25

×