Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Đặc điểm chung của triết học trung quốc cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.54 KB, 10 trang )

Đặc điểm chung của triết học trung quốc cổ đại
Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trung Quốc đất đai rộng lớn, có hai con
sông lớn Hoàng Hà và Trường Giang, là một trong những nước có nền văn minh hình thành sớm nhất và
rực rỡ nhất trong lịch sử.
Triết học Trung Quốc suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Trung Quốc. Triết học Trung Quốc có mầm
mống từ lâu, nhưng thực sự nở rộ vào khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ III tr.CN. Đây là thời kỳ biến đổi dữ
dội, chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu phương Đông – thời kỳ Đông
Chu liệt quốc hay Xuân Thu chiến quốc với chiến tranh liên miên, tàn khốc, trật tự xã hội cũng như luân
lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua, cái mới chưa đến, lòng người chao đảo không biết đi về đâu.
Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc là thời kỳ hai chế độ xã hội chuyển giao, đấu tranh giai cấp gay gắt, chiến
tranh liên miên. Đó là thời kỳ “Bá đạo lấn át vương đạo”, thời kỳ: Vua không phải đạo vua, tôi không
phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con. Đạo đế vương mờ tối, người đời say đắm
đường danh lợi, không ai muốn làm điều nghĩa nữa. Để góp phần cứu vãn tình thế đó, “Bách gia chư tử”
ra đời. Nhiều nhà tư tưởng muốn trình bày quan điểm của mình, phê phán trật tự xã hội cũ, đề ra mẫu
hình xã hội tương lai.
Phải nói lịch sử Trung Quốc, đây là thời kỳ có một không hai về tự do học thuật, bởi vậy, các trường phái
triết học mọc lên như nấm gặp mưa rào. Nền văn minh Hoa Hạ rộng lớn đặc sắc đã được đặt nền móng từ
đấy với các tư tưởng phong phú và đa dạng, phức tạp. Nó cũng chứa đựng những mâu thuẫn nhiều khi rất
gay gắt. Khái quát lại có 9 hệ thống triết học chính xuất hiện: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm
Dương gia, Danh gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia (có thuyết còn cho có thêm trường phái Tiểu
thuyết gia).
Có thể khái quát một số đặc điểm của lịch sử xã hội Trung Quốc như sau:
Một là, công xã nông thôn được bảo tồn lâu dài trong suốt thời kỳ lịch sử cổ - trung đại, với hạt nhân của
nó là chế độ đại gia đình phụ quyền (tông pháp) được xác lập vững chắc. Địa vị của người con trưởng
quan trọng nhất trong nhà, trách nhiệm cũng lớn nhất, được hưởng gia tài, giữ việc hương khói.
Hai là, ở Trung Quốc, nhà nước ra đời trên cơ sở trình độ kỹ thuật còn non kém (đồ sắt chưa được sử
dụng phổ biến); trong xã hội, mức độ phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Hình thức bóc lột là hình thức cống
nạp; tô và thuế nhập làm một. Mối quan hệ của các thành viên trong xã hội đối với nhà nước là quan hệ
của thần dân đối với vua chứ không phải là mối quan hệ của công dân đối với nhà nước.
Ba là, ruộng đất công, trên nguyên tắc, toàn bộ đất đai trong toàn quốc là thuộc quyền sở hữu của nhà
vua, mọi người dân chỉ có quyền sử dụng đất. Chỉ bằng một quyết định, nhà nước có thể tịch thu ruộng


đất của bất cứ ai.
Bốn là, cho đến trước khi bị chủ nghĩa thực dân tư bản phương Tây xâm lược, trên đất nước Trung Quốc
chưa hề có một cuộc cách mạng xã hội theo đúng nghĩa. Trong lòng xã hội, các kết cấu mới – cũ đan xen
lẫn nhau, cùng cộng sinh bên nhau trong suốt quá trình lịch sử. Thế kỷ VIII tr.CN phân tầng xã hội đã bắt
đầu biến đổi sâu sắc, kết cấu giai tầng phức tạp, xung đột đã gay gắt.
Năm là, Trung Quốc được gọi là một trong những nước có nền văn minh sớm nhất và rực rỡ nhất trong
lịch sử, cho đến năm 1911, lịch sử Trung Quốc trải qua ba thời kỳ kế tiếp nhau: thời kỳ thượng cổ, cổ
đại, trung cổ. Tuy nhiên, tư tưởng triết học Trung Quốc chỉ nở rộ ở nửa cuối thời kỳ cổ đại (vào thời
Đông Chu) và được duy trì phát triển ít nhiều ở thời kỳ Trung cổ.
Xuất hiện và phát triển trong điều kiện như vậy, triết học Trung Quốc có một số đặc điểm cơ bản sau:
1. Thứ nhất, triết học Trung Quốc nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Đây là tư tưởng xuyên suốt nhiều trường phái, học thuyết khác nhau. Trong những kinh điển chủ yếu của
Nho giáo (Kinh dịch, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử ) đều nhất quán tư tưởng “biết đến cùng
cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cùng cái tính của vạt vật trời đất”. Ngoài ra, các trường
phái, học thuyết khác cũng thể hiện rõ quan điểm này, Trang Chu cho rằng, trời đất với ta cùng sinh, vạn
vật với ta là một
2. Thứ hai, triết học Trung Quốc xuất phát từ con người, lấy con người làm vấn đề trung tâm. Nghiên cứu
thế giới cũng chỉ nhằm làm rõ vấn đề con người. Tuy nhiên con người không được chú ý trên tất cả các
mặt mà chỉ chú ý trên khía cạnh luân lý, đạo đức. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung Quốc rất mờ
nhạt, còn trong triết học phương Tây lại đặt trọng tâm vào nghiên cứu thế giới, vấn đề con người cũng chỉ
được bàn tới nhằm giải thích thế giới. Do đó, khác với triết học Trung Quốc, trong triết học phương Tây,
vấn đề bản thể luận rất đậm nét.
Về bản chất con người (tính người, Khổng Tử cho gần nhau (giống nhau), nhưng do tập quán, phong tục
mà xa nhau (khác nhau) (“Tính tương cận, tập tương viễn”); Mạnh Tự cho tính người (nhân tính) vốn
thiện; Tuân Tử cho tính người vốn ác; Cáo Tử cho tính không thiện cũng không bất thiện. Đổng Trọng
Thư đưa ra tính tam phẩm, còn Hàn Dũ đưa ra có tính ba bậc.
Về số phận con người, Nho giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử cho rằng con người có thể thắng
được trời. Từ đó triết học Trung Quốc hướng đến mẫu người lý tưởng như sĩ, quân tử, đại trượng phu,
thánh nhân.
3. Thứ ba, triết học Trung Quốc ít tồn tại dưới dạng triết học thuần túy mà thường được trình bày xen kẽ

hoặc ẩn giấu đằng sau với những vấn đề cấu trúc xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. Vì vậy, ở Trung
Quốc ít khi có triết gia và các phần triết học độc lập. Cho nên, nếu ở phương Đông nói chung, Trung
Quốc nói riêng triết học ẩn giấu đằng sau các khoa học khác thì ở phương Tây ngay từ đầu, triết học đã là
một khoc học độc lập, các khoa học khác lại ẩn giấu ở đằng sau triết học ở vào buổi bình minh của nó.
4. Thứ tư, về mặt nhận thức, triết học Trung Quốc bàn nhiều về vấn đề trực giác tâm linh, những vấn đề
phi lý tính. Phương pháp nhận thức này, xét về góc độ nào đó nó phù hợp với đối tượng mà nó đặt ra để
nghiên cứu. Nó thường không được trình bày dưới dạng hình thức hệ thống lý luận lôgic như các tác
phẩm triết học hiện đại. Nhìn chung, lý luận nhận thức trong triết học Trung Quốc là phiến diện, không
xem giới tự nhiên là đối tượng nhận thức, mà chỉ nhận thức chủ yếu về mặt luân lý đạo đức.
5. Thứ năm, triết học Trung Quốc vừa thống nhất vừa đa dạng. Thống nhất ở chỗ nó đều nhằm mục đích
ổn định xã hội, chấm dứt chiến tranh, chẳng hạn, Nho gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Pháp gia
đưa ra đường lối pháp trị; Mặc gia đưa ra đường lối kiêm ái; Đạo gia đường lối vô vi Nó đa dạng ở chỗ
có rất nhiều trường phái, khuynh hướng tư tưởng, với 9 trường phái và đặc biệt nổi bật hơn cả là 6 trường
phái lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống, trong lịch sử xã hội là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp
gia, Âm Dương gia, Danh gia. Mỗi nhà đều có chủ trương, đường lối riêng của mình.
Trong các trào lưu triết học Trung Quốc cổ đại, thường đan xen các yếu tố duy vật và duy tâm, biện
chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt quyết liệt
như ở phương Tây. Chẳng hạn như:
- Nho giáo về cơ bản là duy tâm, nhưng vẫn có những luận điểm duy vật, nhất là ở thời kỳ đầu.
- Đạo gia, Mặc gia, Âm Dương ngũ hành gia bên cạnh những luận điểm duy vật lại có cả những luận
điểm duy tâm
Trong suốt chiều dài hơn 2.000 năm phong kiến Trung Hoa, các học thuyết cổ đại thường được các nhà tư
tưởng phong kiến kế thừa, tự nhận thuộc về trường phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập ra học
thuyết mới cho nên sự phát triển của triết học Trung Quốc chủ yếu theo hướng từ từ thay đổi về lượng mà
ít thấy có sự nhảy vọt về chất.
6. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc thể hiện trong học thuyết biến dịch (Kinh dịch); sự tương
tác giữa âm dương, ngũ hành; trong học thuyết Lão Tử. Nhìn chung, biện chứng trong triết học Trung
Quốc vẫn còn thô sơ, đơn giản, biện chứng vòng tròn, tuần hoàn khép kín.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba dòng chủ đạo, kiến tạo nên hệ tư tưởng phong kiến Trung Quốc,
song trên thực tế, Nho giáo vẫn là dòng chủ đạo, đóng vai trò Trung Quốc.

Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
2.1. Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành
Ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành" đã được lưu truyền từ rất sớm. Tới
thời Xuân thu - Chiến quốc, những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các
quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
a. Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật;
đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm và Dương.
"Âm" là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến của vạn vật như: nhu,
thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn (2,4,6 ). "Dương" là phạm trù đối lập với "Âm", phản
ánh khái quát những tính chất phổ biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía trái,
số lẻ (1,3,5 ). Nhưng hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế
ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên lý của sự thống nhất của hai
mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và
cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương
đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát bằng vòng tròn khép
kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia thành hai nửa (đen trắng) và trong nửa này
đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu
hiện cho nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương tiến đến đâu thì Âm lùi
đến đó và ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì Dương khởi", "Dương cực thì Âm sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật, phái Âm -
Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng
(Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương - Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái ( Càn - Khảm - Cấn -
Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch,
trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội

như: Kiền, Khôn, Bĩ, Thái, Truân ; Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại
khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một "tập đại thành" của sự chú giải, bao
hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b. Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về
những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những tương tác (tương sinh, tương khắc)
với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng,
khô, cay, phía Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng trưng
cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.;
Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với
nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh
Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc
Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm - Dương và Ngũ hành đã làm cho mỗi thuyết có sự bổ túc,
hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ đơn (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn -
Đoài) đều được quy về Ngũ hành để biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm -
Dương. Chẳng hạn: Kiền - Đoài thuộc hành Kim; chấn - Tốn thuộc hành Mộc v.v. và Kim cũng có
Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
2.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551
- 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển
theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh
hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ
Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh
nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức
là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu

sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội, trong
đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty
trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha -
chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho
gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến
động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một
xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên cơ sở
địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng
của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng "đại đồng". Do
không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào
việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
"Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ
thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị -xã
hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết
vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề
này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con người vốn là thiện" (Nhân chi
sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như:
Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng là tiên thiên, bẩm sinh.
Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng - Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con
người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác (Nhân chi
sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ). Xuất
phát từ quan niệm đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và
Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)

Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn. Một mặt, khi chống
lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn
tự vận động,biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận
hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi
vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật
chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể
chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của
ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời”
(Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện
tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên
truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động
con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không đặt ra vấn đề chân
lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là
“thượng trí” (không học cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có
tri thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí”
và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu
điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một
số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ;
phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan
niệm học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi trong học thuyết
Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân,
lễ, trí, dũng cùng với một hệ thống quan niệm về chính trị - xã hội như “nhân trị”, “chính danh”,
“thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình. Nhân có ý nghĩa
rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình
độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều
gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là nhân” Tư
tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.

Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những phong tục, tập quán,
những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ,
triều sính, luật lệ, hình pháp Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ
của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành
một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cương. Để làm đươc điều đó cần
phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan
Uyên,1); “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi,
cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật,
19) Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh không chính
thì lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công
thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình phạt không
đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội
Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết
này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ
trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị,
vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ,
Tử Lộ, 2). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức
tham gia vào công cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục đích chính trị là
“Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ
không phục. Theo ông, làm chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một
nơi mà các sao khác đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả;
hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn
năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả
là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng
Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ

sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của Nho gia theo mục đích
ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng
Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần
bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các
quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng các quan
điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng
về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng
Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các
tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và
ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có
dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
2.3. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học thuyết của ông được Dương Chu
và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư
tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện chứng, cùng với học
thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của Đạo gia. Phạm trù Đạo
bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội nguồn của Đạo.
- "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không thể tách rời nhau.
Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: Đạo là
nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại.
- "Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo pháp tự nhiên".
Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về những vấn đề bản
nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan niệm về "Đạo", trong đó bao
hàm những tư tưởng chủ yếu sau:

Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" (cân bằng và quay trở lại cái
ban đầu).
- Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong
cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo gia không nhấn mạnh
tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái
lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia
không bao hàm tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi không phải là cái thụ động, bất
động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự nhiên của "Đạo".
2.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng lập thời Xuân Thu. Sang
thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương
thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm
này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta
nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với
quan niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận thức, có xu hướng duy
vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản
đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ trong học thuyết "Nhân". Ông chủ
trương mọi người yêu thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện nhận thức luận.
2.5. Pháp gia
Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những luật lệ, hình pháp của
nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế
thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công
xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời.

Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa
trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách quan mà ông gọi là Đạo.
Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có
"Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến
hóa và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy luật
khách quan, mà còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ.
Về lịch sử:
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể có chế độ xã hội nào là
không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển
của xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng
với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hội.
Về thuyết "Tính người":
Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết luân lý cá nhân vị lợi, luôn
có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con
người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị.
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh
sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho
giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp,
thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện
chính sách đó.
+ "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là quy định, luật lệ có tính
chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể
chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ

danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
+ "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua nhằm lấy danh mà
tránh thực.
Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ, trung
đại, tư tưởng liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị,
triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai là chính trị đạo đức, các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem
việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ
nhất của sinh hoạt xã hội.
Thứ ba là nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Các nhà triết học nhấn mạnh sự
hài hoà, thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của
các khái niệm, coi việc điều hoà các mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết các vấn đề.
Thứ tư là tư duy trực giác. Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết học cổ, trung đại Trung Hoa
là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa
đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp, khơi vậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều
trong chốc lát, từ đó mà nắm bản thể trừu tượng. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác
dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.

×