Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Những lợi ích mang lại từ việc tái sử dụng rác thải sinh hoạt để sản xuất phân Compost ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.81 KB, 37 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá ở Việt
Nam đã tăng mạnh mẽ và đang có xu hướng tiếp tục tăng mạnh trong những
năm tới. Đặc biệt ở thành phố Hà Nội, thủ đô của chúng ta đã từng được
cộng đồng quốc tế tôn vinh là “Thành phố xanh”, “Thành phố hoà bình”. Hà
Nội là thành phố văn hiến có bề dày lịch sử lâu đời . Hà Nội bây giờ đã phát
triển lớn lên , vươn cao cùng năm tháng . Sự phát triển mãnh mẽ như vậy là
một điều cần thiết để cho Hà Nội phát triển , hội nhập với nền kinh tế trong
nước và trên thế giới . Nhưng chính sự phát triển cao như vậy đã gây ra
nhiều áp lực nặng nề đối với môi trường và cộng đồng . Nhiều vấn đề nan
giải , những thách thức lớn đangđặt ra trong công tác bảo vệ môi trường
nhằm phát triển ổn định và bền vững thành phố . Muốn vậy cần giải quyêt
hài hoà các yếu tố kinh tế , văn hoá , xã hội và môi trường .
Hơn lúc nào hết, vấn đề giữ gìn bảo vệ môi trường đối với Hà Nội
ngày càng cấp thiết, đòi hỏi sự quan tâm từ các cơ quan quản lí chức năng
đến mọi tổ chức, đoàn thể và quần chúng. Bên cạnh nhiều khó khăn, tồn tại
trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến nước thải và ô nhiễm không
khí, vấn đề rác thải rắn đang thực sự là một thách thức lớn, một mối đe doạ
khủng khiếp đối với môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Giải quyết vấn đề
rác thải đô thị thành phố Hà Nội là một bài toán phức tạp, từ khâu thu gom,
vận chuyển và xử lí rác. Hiện nay có nhiều biện pháp kỹ thuật được áp dụng
để xử lí rác thải đô thị trong đó biện pháp xử lí rác thải chủ yếu vẫn là chôn
lấp. Nhưng thực trạng các bãi rác hiện nay đã quá tải và gây ô nhiễm môi
trường rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó việc xử lí rác thải bằng phương pháp
sử dụng chúng làm phân Compost, một phương pháp được nhiều nơi trên thế
giới áp dụng đã mang lại lợi ích to lớn về kinh tế cũng như môi trường. Đó
chính là nội dung của đề tài “Những lợi ích mang lại từ việc tái sử dụng
rác thải sinh hoạt để sản xuất phân Compost ở Hà Nội” do nhóm sinh
viên Kinh tế môi trường K42 thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy
Nguyễn Thế Chinh và thầy Lê Trọng Hoa.


LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau khi có những kiến thức ban đầu về môn học kinh tế môi trường
nhóm sinh viên kinh tế môi trường K42 muốn có sự nghiên cứu nội dung
môn học và có điều kiện tham khảo thêm những tài liệu bên ngoài để làm
phong phú thêm những kiến thức về môn học. Trong các nội dung của môn
học được tiếp cận chúng em thấy vấn đề xử lí rác thải sinh hoạt là vấn đề
chúng em quan tâm nhất. Bởi vì xuất phát từ thực tiễn ở Hà Nội ta thấy
lượng rác thải sinh hoạt thải ra ngày càng nhiều đã làm cho đường phố Hà
Nội có nhiều đống rác nằm ngổn ngang làm mất mỹ quan thành phố.
Bên cạnh đó việc xử lí rác thải làm phân Compost còn chưa được phổ
biến rộng. Do vậy để giúp cho mọi người nhận thức được những lợi ích từ
việc tái sử dụng rác thải làm phân Compost nhóm chúng em đã chọn đề tài
này. Trong quá trình nghiên cứu mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chúng
em vẫn còn nhiều thiếu sót. Nên chúng em mong nhận được sự giúp đỡ của
các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để chúng em hiểu sâu hơn về lĩnh vực
này.

NỘI DUNG
I. NHẬN THỨC VỀ LỢI ÍCH CỦA VIỆC TÁI SỬ DỤNG RÁC THẢI
ĐỂ SẢN XUẤT PHÂN COMPOST
Kinh tế rác thải là một khía cạnh của kinh tế môi trường nó bao gồm
tất cả các khâu phát sinh, thu gom, vận chuyển, tái chế, thiêu đốt, chôn lấp
các chất thải mà những chất thải đó được sinh ra từ các hoạt động của nền
kinh tế, mặt khác nó cũng nghiên cứu những tác động về mặt kinh tế của
công tác thiêu đốt, chôn lấp các chất thải đó đến môi trường một khi chúng
được thải ra.
Việc hạn chế phát sinh chất thải tại nguồn mang lại hiệu quả rất lớn. Nó
không chỉ tiết kiệm nguồn tài nguyên năng lượng mà còn hạn chế lượng chất
thải ra môi trường, nó phù hợp với các nước đang phát triển. Nhưng trong
nhiều trường hợp việc xử lí cuối đường ống là vấn đề bất khả kháng. Do vậy

chúng ta phải xử lí chất thải một cách tốt nhất là tái sử dụng chất thải để đạt
tới mục tiêu: tiết kiệm nguyên liệu và năng lượng; môi trường hạn chế tối đa
thu nhận chất thải. Xuất phát từ quan điểm trên ta thấy rác thải sinh hoạt là
nguồn nguyên liệu để tái sản xuất phân Compost sẽ mang lại những lợi ích
sau:
1. Lợi ích về kinh tế
1.1 Tiết kiệm diện tích chôn lấp
Hiện nay rác thải sinh hoạt thải ra ngày càng nhiều do đời sống ngày
càng được nâng cao dẫn đến tiêu dùng của người dân ngày càng nhiều.
Trong khi đó việc xử lí rác thải vẫn theo phương pháp truyền thống là chôn
lấp. Do vậy các bãi rác đã chiếm một diện tích rất lớn. Để hạn chế lượng rác
phải chôn lấp thì việc tái sử dụng rác làm phân Compost đã giảm thiểu khối
lượng rác cần chôn lấp cho nên đã tiết kiệm được diện tích dùng để chôn lấp.
Đồng thời việc định địa điểm bãi chôn lấp rất khó khăn do những người dân
ở xung quanh không chấp nhận để bãi rác ở gần khu vực họ sinh sống.
1.2 Tiết kiệm chi phí vận chuyển
Do qui trình công nghệ ở nước ta còn lạc hậu do vậy chúng ta không
thể xử lí rác khép kín trong thành phố được. Muốn xử lí rác chúng ta phải
vận chuyển rác ra ngoại thành ở xa khu vực dân cư. Do vậy với khối lượng
rác lớn chúng ta phải bỏ ra nhiều chi phí hơn khi khối lượng rác nhỏ hơn do
hạn chế khối lượng rác thải thông qua chế biến thành phân Compost ở gần
thành phố.
1.3 Tận dụng nguồn tài nguyên rác thải
Một trong những chiến lược để phát triển bền vững là phải tiết kiệm
nguồn tài nguyên. Tái sử dụng để sản xuất phân Compost cũng là một cách
tiết kiệm nguồn tài nguyên. Bởi vì trong thành phần rác thải sinh hoạt nước
ta có chứa thành phần hữu cơ rất cao nên tạo điều kiện thuật lợi cho việc
cung cấp nguyên liệu đầu vào cho việc sản xuất phân. Do vậy nó sẽ hạn chế
việc sử dụng các nguồn tài nguyên khác để đảm bảo nguồn tài nguyên cho sự
phát triển của thế hệ tương lai.

2. Lợi ích về mặt môi trường
2.1. Giảm lượng phát thải ra môi trường
Một trong những vai trò cơ bản của hệ thống môi trường tự nhiên là:
nơi chứa đựng chất thải của các hoạt động của con người. Nhưng sức chịu
đựng của môi trường là có giới hạn cho nên nếu lượng rác thải nếu lượng rác
thải thải ra môi trường vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường sẽ dẫn
đến tình trạng suy thoái môi trường. Do vậy hạn chế lượng phát thải ra môi
trường chính là một trong những biện pháp để bảo vệ môi trường một cách
tốt nhất. Tái sử dụng rác thải làm phân Compost đã hạn chế một lượng rác
thải đáng kể cho môi trường.
2.2 Giảm sự ảnh hưởng tới các thành phần của môi trường
Hình thức xử lí rác thải bằng biện pháp chôn lấp do không đúng tiêu
chuẩn kĩ thuật cho nên đã gây ra ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng: ô
nhiễm môi trường nước, môi trường đất do lượng nước rác ngấm vào và các
hoá chất độc hại lẫn trong nước; ô nhiễm môi trường không khí do các rác
thải bốc mùi rất nghiêm trọng. Trong khi đó xử lí rác thải làm phân Compost
được thực hiện trong qui trình khép kín nên đã không gây ảnh hưởng tới môi
trường xung quanh.
3. Lợi ích xã hội
3.1 Tạo công ăn việc làm
Việt Nam- một nước có dân số đông đứng hàng thứ 13 trên thế giới mà
nền kinh tế đất nước lại đang trong tình trạng kém phát triển nên việc đáp
ứng đủ nhu cầu về việc làm là hết sức khó khăn. Đã vậy trình độ lao động ở
nước ta còn thấp nên người lao động càng ít có cơ hội tìm được việc làm.
Việc xây dựng nhà máy sản xuất phân Compost đã thu hút được một số
lượng lao động đáng kể vào làm việc trong nhà máy. Đồng thời cũng tạo
công ăn việc làm cho người dân thu gom rác ở xung quanh.
3.2 Đảm bảo sức khoẻ.
Việc tập trung rác thải tại nhà máy để sản xuất phân Compost đã hạn
chế được lượng rác thải tại các bãi rác .Do vậy hạn chế được lượng người

đến các bãi rác để thu gom các thành phần của rác có thể tái chế được. Việc
tiếp xúc với rác thải ở các bãi rác là rất nguy hiểm đối với con người do rác
thải ở đó không được phân loại nên có nhiều chất độc hại lẫn trong đó. Trong
khi đó tại nhà máy có công đoạn phân loại rác nên những người thu gom phế
liệu không phải tiếp xúc với những chất độc hại cho nên sức khoẻ được đảm
bảo hơn . Ngoài ra những người dân ở xung quanh nhà máy không phải chịu
một môi trường ô nhiễm nặng như khi sống ở khu vực gần bãi rác.
3.3 Văn minh xã hội.
Khoa học công nghệ càng phát triển, đời sống nhân dân càng được nâng cao
thì nhu cầu có một môi trường xanh sạch đẹp càng được quan tâm. Nhưng
đời sống càng cao con người có tiêu dùng càng lớn, lượng rác thải càng lớn
mà rác thải là một trong những nguyên nhân gây mất mỹ quan ô nhiễm môi
trường. Giảm lượng rác thải đồng nghĩa với giảm nguồn gây mất mỹ quan và
ô nhiễm môi trường. Vì vậy, phương pháp xử lí rác thải bằng việc làm phân
Compost là hoàn toàn phù hợp bởi nó giải quyết được vấn đề bức súc hiện
nay là vấn đề rác thải sinh hoạt. Đồng thời đây là phương pháp đang được thế
giới sử dụng đặc biệt là những nước tiên tiến do đó sử dụng phương pháp này
chính là đi theo xu hướng chung của thế giới.
Vậy tổng lợi ích thu được từ việc tái sản xuất rác thải sinh hoạt làm
phân Compost được biểu diễn dưới hàm sau:
F(lợi ích)= lợi ích kinh tế + lợi ích môi trường + lợi ích xã hội
II ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH SẢN XUẤT PHÂN COMPOST TỪ RÁC THẢI SINH
HOẠT TẠI HÀ NỘI
1. Tổng quan về thực trạng xử lí rác thải sinh hoạt
1.1 Tình trạng rác thải hiện nay
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do các
chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư đang dần dần trở nên hợp lý nên các
thành phần kinh tế đã có sự phát triển nhanh chóng. Tình hình phát triển kinh
tế nước ta đang ngày càng có những bước tiến bộ đáng khích lệ, các ngành

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ … được mở rộng và phát triển nhanh chóng.
Các hoạt động này một mặt đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, nhưng mặt khác cũng tạo ra một khối lượng lớn chất thải
mà nếu không được quản lí một cách đúng đắn thì sẽ gây ra ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Nguy cơ ô nhiễm môi trường do chất thải gây ra đang
trở thành một trong những vấn đề cấp bách cuả công tác bảo vệ môi trường
của nước ta hiện nay. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, tổng
lượng chất thải rắn của Việt Nam hiện nay là không lớn. Thế nhưng, điều
quan tâm ở đây là chất lượng của chất thải này, nhất là chất thải sinh hoạt và
chất thải bệnh viện ở hầu hết địa phương và thành phố chưa được xử lí hợp
vệ sinh trước khi thải ra môi trường. Các chất thải rắn ở các đô thị và khu
công nghiệp hầu như không được phân loại trước khi chôn lấp. Tất cả các
loại đều được chôn lấp lẫn lộn . Tỉ lệ thu gom mới chỉ đạt 20-30%, lượng
chất thải không được chôn lấp (70-80%) đã và đang gây nên những tác động
môi trường, ảnh hưởng không tốt không chỉ tới đời sống, sinh hoạt mà còn
cả tới hoạt động kinh tế .
Ước tính hiện nay tổng lượng chất thải rắn thải ra ở Việt Nam khoảng
49,3 nghìn tấn/ngày, trong đó chất thải rắn công nghiệp khoảng 27 nghìn tấn
(54,8%), chất thải sinh hoạt 21,9 nghìn tấn (44,4%), và chất thải bệnh viện:
0,4 nghìn tấn (0,8%).
Hà Nội là một trong những thành phố điển hình, tiêu biểu cho các đô
thị của Việt Nam. Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà XHCNVN, là trung
tâm văn hoá, chính trị, kinh tế và khoa học kĩ thuật của cả nước. Thành phố
Hà Nội là một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam với diện tích
927,3 km
2
, dân số 2,3 triệu người, trong đócó 1,1 triệu người sống tập trung
trong 4 quận nội thành Hà Nội trên diện tích 43km
2
. Hàng ngày có 30-40 vạn

người ở các tỉnh qua lại và sinh sống ở Hà Nội. Cùng với sự phát triển công
nghiệp, dân cư trong thành phố, hệ thống dịch vụ, bệnh viện, chất thải rắn ở
các nguồn trên cũng tăng lên nhanh chóng. Ước tính hàng ngày nội thành
thải ra khoảng 3000m
3
chất thải .chất thải sinh hoạt chiếm 80% chất thải rắn
công nghiệp chiếm 12%. Công ty Môi trường- Đô thị Hà Nội mới thu gom
được 80% tổng số rác trong nội thành.
Lượng rác thải đô thị tập trung nhiều nhất ở các đô thị thuộc vùng kinh
tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam. Trong đó rác thải sinh hoạt chiếm tỉ lệ
cao nhất (khoảng 70%) trong tổng lượng rác thải. Thành phần rác thải sinh
hoạt gồm rác hữu cơ,thực phẩm, lá cây, nilông, chất dẻo, các đồ dùng văn
phòng phẩm và các chất vô cơ khác . Trong các thành phần này, rác hữu cơ,
thực phẩm, lá cây chiếm khoảng 40-60% ( tại Hà Nội là 46%-năm 1996) . Tỉ
lệ rác hữu cơ cao cho phép xử lí rác thải sinh hoạt bằng phương pháp sử dụng
chúng làm phân Compost, một phương pháp được áp dụng ở nhiều nơi trên
thế giới để tránh mất diện tích chôn lấp.
Rác thải sinh hoạt theo số liệu của công ti SODEXEN.INC và
URENCO Hà Nội, khối lượng rác thải nội thành năm 1997 là:
Khối lượng
/ngày
Thể tích/ngày
Chỉ tiêu Tổng(tấn) BQđầu
người(Kg)
Tổng(m
3
) BQđầu
người (m
3
)

Chất thải sinh hoạt 1368 1140 2652 0,000221
Chất thải công nghiệp 328 0,276 336 0.00028
Chất thải bệnh viện 12 0,01 26 0.00002
Chất thải độc hại 140 0,117 300 0,000205
Tổng cộng 1848 1,543 3312 0,00272
Tổng cộng năm 601520 1208000
Từ những số liệu và phân tích trên cho thấy vấn đề rác thải sinh hoạt
(cả vô cơ và hữu cơ) đang là vấn nổi cộm hết sức bức xúc ở các đô thị hiện
nay. Nhưng một vấn đề thực tế đặt ra hiện nay là phương thức thu gom, phân
loại, xứ lí, chế biến rác thải sinh hoạt cũng đang chứa đựng nhiều bất cập và
ở vào tình trạng bế tắc. Phương pháp xử lí chủ yếu hiện nay là chôn lấp trực
tiếp mà không qua phân loại, xử lí tại nguồn nên đã gây ra ô nhiễm nặng nề
ở khu vực bãi rác . Mặt khác, rác hữu cơ vốn là loại rác có khả năng tự phân
huỷ, thậm chí phân huỷ nhanh, nhưng nay thanh phần lớn lại được bỏ vào
túi nilon buộc lại nên bị yếm khí, làm chậm quá trình phân huỷ, tăng thêm
mức độ ô nhiễm. Nếu cứ giữ nguyên phương thức thu gom, xử lí rác thải như
hiện nay thì quy mô bãi rác ngày càng tăng, chi phí cho xây dựng các bãi rác
ngày càng lớn . Vì vậy phải giải quyết vấn đề từ gốc, từ nơi bắt đầu của sự ô
nhiễm môi trường do rác thải gây ra.
1.2 Chôn lấp - hình thức xử lí rác thải chủ yếu hiện nay
Chính phủ Việt Nam đang gặp khó khăn trong nhiều lĩnh vực. Trong
đó lĩnh vực y tế và môi trường bao gồm nhiều vấn đề nghiêm trọng như vệ
sinh, thoát nước, ô nhiễm không khí và nhiều vấn đề khác .Vấn đề gay go
nhất trong lĩnh vực này là tìm ra giải pháp cần thiết và có hiệu quả để xử lí
phế thải đô thị. Các biện pháp quản lí chất thải hiện có chưa đáp ứng được
nhu cầu đối với khối lượng phế thải cuả thành phố.
Việc xử lí phế thải độc hại hầu như chưa được quản lí riêng, trong đó
các phế thải hoá chất độc hại như pin, thuỷ ngân… Nghiên cứu, xác định
phương pháp xử lí phế thải đô thị phù hợp với điều kiện Việt Nam nói chung
và môi trường đô thị Hà Nội nói riêng là đề tài đang được nhiều chuyên gia

trong nước và ngoài nước quan tâm.
Hiện nay năng lực xử lí chất thải rắn của các thành phố và các cơ sơ
công nghiệp không theo kịp được với nhịp độ tăng của sản xuất công nghiệp
cũng như của sinh hoạt. Thực tế cho thấy mới khoảng 10-20% chất thải rắn ở
các đô thị được thu gom (ở Hà Nội và TP HCM cao hơn, khoảng 60%) thì sẽ
thấy rằng phải có sự nỗ lực về đầu tư như thế nào mới nâng cao đáng kể
năng lực thu gom và xử lí chất thải rắn ở đô thị và khu công nghiệp.
Sự gia tăng dân số nhanh chóng ở các đô thị và khu công nghiệp là xu
thế không thể cưỡng lại nổi bới sự áp dẫn to lớn về công ăn, việc làm,thu
nhập và cả điều kiện sống đối với người lao động. Sự phát triển với tốc độ
cao của kinh tế đô thị kéo theo sự gia tăng đáng kể thu nhập và đồng thời kéo
theo cả sự tiêu dùng của dân cư, trong đó có cả những tiện nghi đi lại (xe
máy, ô tô) và các nhu cầu giải trí khác. Từ đó đã dẫn đến sự gia tăng chất
thải gây ô nhiễm không khí, tiếng ồn và cả chất thải rắn mà trong điều kiện
năng lực quản lí của Nhà nước có được nâng cao đáng kể cũng không đủ sức
ngăn chặn đà quay lớn của cỗ xe nhu cầu tiêu dùng ấy của người dân đô thị.
Có thể nói phương thức thu gom, vận chuyển và công nghệ xử lí rác ở
Việt Nam vẫn còn thô sơ, lạc hậu. Hệ thông kiểm tra, kiểm soát các chất thải
ở đô thị còn yếu kém . Các cơ quan nghiên cứu, đánh giá môi trường đô thị
nói chung và chất thải rắn đô thị nói riêng cong thiếu đội ngũ chuyên gia và
nghèo nàn về thiết bị nghiên cứu . Đồng thời cũng rất thiếu vốn và thiếu khả
năng kỹ thuật để áp dụng các công nghệ xử lí chất thải đô thị . Hệ thống thu
hồi chất thải tái sinh trong các đô thị chưa được hợp pháp hoá mà được “tổ
chức” lỏng lẻo với một mạng lưới gồm những người thu nhặt và thu mua tự
phát . Do vậy hiệu quả thu gom rất thấp. Theo số liệu năm 1999, lượng chất
thải rắn đô thị được thu gom, quản lí mới chỉ đạt khoảng 40 - 70% (Hà Nội :
65%). Nhiều thị xã , tỷ lệ thu gom chất thải rắn trung bình chỉ đạt từ 20 -
40%, thậm chí có một số thị xã và nhiều thị trấn chưa có tổ chức thu gom
chất thải rắn và chưa có bãi đổ rác chung của đô thị. Ở các đô thị lớn, chất
thải từ các đường phố được công ty môi trường, dịch vụ công cộng hoặc

công ty vệ sinh thu gom và vận chuyển tới các bãi đổ rác hoặc xí nghiệp chế
biến rác.
Hiện nay có một số giải pháp xử lí phế thải sau :
- Làm phân ủ : đối với loại phế thải chứa các chất hữu cơ
- Chôn lấp hợp vệ sinh : đối với loại phế thải không thể chế biến được
nữa.
- Đốt : đối với một số loại phế thải độc hại.
Những biện pháp xử lí chất thải rắn đô thị ở Việt Nam hiện nay chủ
yếu là chôn lấp. Tuy nhiên, chưa có bãi chôn lấp chất thải rắn nào ở Việt
Nam đạt tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh môi trường mà chỉ là những bãi đổ rác
lộ thiên không được chèn lót kỹ. Vị trí chôn lấp chất thải hiện thời chưa được
thiết kế thích hợp, hầu hết các bãi rác đều nằm cách khu dân cư từ 200-500
m, do đó không đảm bảo yêu cầu vệ sinh. Cũng cần nhấn mạnh là không đô
thị nào có phương tiện đầy đủ và thích hợp để xử lí chất thải nguy hại từ
công nghiệp và y tế.
Ở Hà Nội hiện nay tuy có nhiều cố gắng trong việc thu gom chất thải
sinh hoạt nhưng xử lí còn gặp rất nhiều khó khăn, phát sinh nhiều vấn đề môi
trường và xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có đủ cơ sở để xử lí tận gốc
chất thải rắn. Giải pháp hiện tại là chôn lấp nhưng chưa đáp ứng được yêu
cầu về môi trường và mất nhiều phí tổn : Hà Nội trước đây đã sử dụng các
bái rác ở Vạn Phúc, Thủ Lệ, Ngọc Khánh, Thái Hà, Thành Công, Bồ Đề, Gia
Lâm, Tam Hiệp, Văn Điển, Mễ Trì, Tây Mỗ (Từ năm 1992 đến 7- 1997, toàn
bộ rác thải sinh hoạt của thành phố Hà Nội được chôn lấp tại bãi rác Mễ Trì .
Từ ngày 7-7-1997 , do tình trạng quá tải, nhân dân xung quanh phản đối, bãi
rác đã phải ngừng hoạt động . Từ 8-1997, việc chôn lấp rác được tiến hành
tại bãi phế thải Tây Mỗ). Các bãi này đều đã đầy và đóng cửa. Hiện nay, Hà
Nội đang chôn lấp chất thải rắn chung ở đô thị ở bãi rác Tây Mỗ và chủ yếu
là ở bãi Nam Sơn. Tại bãi này, thành phố đã và đang tiến hành xây dựng
“Khu liên hợp xử lí chất thải rắn” (Từ ngày 1-6-1999, việc chôn lấp rác
được tiến hành tại bãi Nam Sơn - Sóc Sơn khoảng 30%, Tây Mỗ 70%. Từ 1-

1-2000 việc chôn lấp rác được tiến hành tại bãi Nam Sơn. Ngoài ra cũng
xuất hiện các bãi rác lộ thiên tự phát của nhân dân các vùng dọc quốc lộ gây
ảnh hưởng đến môi trường, gây mất mỹ quan.
Việc xử lí rác thải chủ yếu bằng biện pháp chôn lấp chỉ giải quyết
được nhu cầu rác thải trước mắt ở Hà Nội . Nhưng chi phí vận chuyển rác
đến bãi chôn lấp rất lớn. VD : Kinh phí vận chuyển rác từ nội thành đến bãi
rác Nam Sơn tính cho 900 tấn/ngày có kết quả cụ thể :
+ Một ngày : 62,949 triệu đồng
+ Một tháng : 1.888,488 triệu đồng
+ Một quí : 5.728,414 triệu đồng
( Theo số liệu phân tích của JICA - dự thảo báo cáo cuối cùng)
Đồng thời các bãi rác chiếm diện tích đất rất lớn :
+ Diện tích bãi rác Nam Sơn : 150 ha
+ Diện tích bãi rác Kiêu Kỵ (Gia Lâm) : 5,3 ha
+ Diện tích bãi rác Nguyên Khê (Đông Anh) :1,5 ha
+ Diện tích bãi rác Phú Ninh - Sóc Sơn : 1,2 ha
Ngoài thiệt hại về kinh tế nêu trên thì việc xử lí rác bằng chôn lấp còn
gây ra ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng từ đó gây ra những ảnh hưởng
tới sức khoẻ của những người dân xung quanh .Đặc biệt do lượng rác thải
không được phân loại tại nguồn nên các rác thải sinh hoạt được chôn lấp lẫn
với các chất thải độc hại khác nên gây ô nhiễm nước ngầm nghiêm trọng và
gây độc hại cho những người nhặt rác tại các bãi rác.
Do vậy cần phải có những biện pháp cấp bách trong việc xử lí rác thải
để đảm bảo cho thành phố Hà Nội thoát khỏi tình trạng ùn tắc rác như hiện
nay.
1.3 Hiện trạng một số bãi rác hiện nay
Để giải quyết nhu cầu cấp bách về xử lí rác thải ở Hà Nội đã có rất
nhiều bãi rác được xây dựng như khu xử lí chất thải Nam Sơn_Sóc Sơn, Tây
Mỗ, Kiêu kỵ (Gia Lâm), Nguyên Khê (Đông Anh)... Nhưng các bãi rác
không được xây dựng đúng tiêu chuẩn kĩ thuật. Hầu hết các bãi rác đều xử lí

rác theo các bước: xe đổ xuống hố mỗi ngày sau khi đổ song rác xe nén rác
được vận hành để trải đều rác và nén chặt rác tiếp đó dùng xe rắc vôi bột nên
bề mặt nhằm tẩy trùng sau đó dùng hai xe bồn để phun chế phẩm EM nhằm
hạn chế mùi hôi.Cuối cùng dùng xe phủ cán một lớp đất mỏng 3-4 cm lên bề
mặt.
Với kết cấu và kĩ thuật chèn lấp rác như trên, các bãi rác ở Hà Nội hiện
nay đã nảy sinh nhiều vấn đề nhức nhối, nguy hiểm về vệ sinh môi trường,
khó khăn trong khâu quản lí, phức tạp về mặt kinh tế xã hội:
-Đang tiếp nhận quá tải lượng rác thải hàng ngày của thành phố.
Nguy hiểm về vệ sinh môi trường với các yếu tố đặc thù:
+ Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc từ bãi rác (mặc dù đã giảm đáng kể so
với trước đây khi chưa phun chế phẩm EM) và mùi do những người nhặt rác
phơi bao bì nilon dọc hai bên đường nhựa.
+ Các khí độc hại do rác phân huỷ không có lối thoát, phun trào tự
nhiên trên khắp bề mặt bãi rác.
+ Phát sinh ruồi, nhặng, muỗi, các loại côn trùng và các loài gặm
nhấm khác làm mầm gây bệnh lây lan rất nguy hiểm(dân quanh vùng phải
giăng mùng để ăn cơm do có quá nhiều ruồi).
+ Do không được chống thấm nên nước rò rỉ từ rác thải xuống đất gây
ô nhiễm các tầng nước ngầm. Rất nhiều giếng đào và giếng khoan của dân
cư xung quanh vùng này không còn sử dụng được vì nước rất đen và bốc
mùi hôi thối.
+ Nước rò rỉ từ bãi rác(chủ yếu là các hồ tích trữ nước rác bố trí xung
quanh tường bao) ra ngoài hệ thống bờ bao gây thiệt hại nặng nề đến đời
sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân: cá nuôi bị chết, lợn gà vịt bị chết,
năng suất hoa màu tụt giảm...
+ Nước rác từ các hồ tích trữ chưa được xử lí đạt yêu cầu và không có
lối thoát, chỉ trông chờ vào khả năng bay hơi, còn lại là hầu như bị thấm hết
xuống các tầng nước ngầm. Mộ nguy cơ khủng khiếp về ô nhiễm và suy
thoái tài nguyên nước ngầm đang đặt ra ở phía trước.

+Việc sử dụng chế phẩm EM ở bãi rác có an toàn về mặt sinh thái
chưa vẫn còn là vấn đề cần nghiên cứu ( hiện nay ở Nhật Bản đã cấm sử
dụng loại chế phẩm này vì có những hiệu ứng phụ đối với môi trường và
sinh thái)
Công tác xử lí chất thải sinh hoạt trong năm 1999 gặp khó khăn rất lớn
về địa điểm chôn lấp. Các bãi rác bị ngừng hoạt động do gây ô nhiễm nặng
nề đối với môi trường xung quanh nên người dân không đồng tình ủng hộ.
Cính vấn đề này đã làm cho Hà Nội bị tồn đọng rác ngay trên đường phố
trong ngày 19-20/9/1999. Hiện trạng các bãi rác này như sau:
- Bãi rác Kiêu Kỵ (Gia Lâm): diện tích 5,3 ha được xây dựng từ năm
1997 và công trình đã được đưa vào sử dụng tháng 9/1999 do bãi rác Tây
Mỗ, Nam Sơn bị ngừng hoạt động. Đến tháng 4/2000 do nhân dân xung
quanh phản đối và chưa giải quyết được trợ cấp môi trường nên bãi rác phải
ngừng hoạt động. Rác thải của xí nghiệp môi trường đô thị Gia Lâm phải
đưa về bãi rác Nam Sơn _ Sóc Sơn.
-Bãi rác Nguyên Khuê (Đông Anh): diện tích khoảng 1,5 ha tiếp nhận
rác của huyện với khối lượng khoảng 40 m³/ngày bằng hai xe 92A và một xe
huyndai của xí nghiệp môi trường đô thị huyện. Bãi rác Nguyên Khuê dựa
trên một số hố gạch do các chủ lò gạch khai thác để lại. Việc tiếp nhận
không được đầm nén ngay, không được phủ đất thậm chí không có xe ủi để
san ủi mặt bằng. Bãi rác Nguyên Khuê cũng gây ảnh hưởng tới môi trường
xung quanh nhưng với khối lượng nhỏ nhưng vẫn còn được duy trì, mặc dù
vậy nhưng đây là bãi rác không đúng tiêu chuẩn.
-Bãi rác Phú Ninh_Sóc Sơn: diện tích khoảng 1,2 ha, hàng ngày tiếp
nhận khoảng 50m³ cũng trong tình trạng không có xe ủi mặt bằng, đây cũng
là bãi rác không đúng tiêu chuẩn.
-Bãi Nam Sơn: nằm trong tổng thề khu liên hợp xử lí chất thải rắn của
Hà Nội với diện tích 150 ha. Ở đây sẽ có các nhà máy xử lí chất thải bệnh
viện, chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, phân loại và tái chế. Diện
tích đã giải phóng giai đoạn một để thực hiện chôn lấp rác là 13,5 ha. Đến

nay đã tiến hành xây dựng xong hai lò và lò thứ ba đang tiếp tục thi công, hệ
thông xử lí nước rác cũng đang được thi công.
Ngoài các bãi rác trên cũng xuất hiện các bãi rác lộ thiên tự phát của
nhân dân các vùng dọc quốc lộ gây mất mỹ quan và ảnh hưởng tới môi
trường.
Từ hiện trạng các bãi rác ở trên ta có nhận xét chung về hoạt động của
các bãi rác thải tại Hà Nội: xử lí rác tại các bãi chôn lấp không đúng yêu cầu
kĩ thuật, không triệt để... dẫn đến ảnh hưởng tới môi trường là điều khó tránh

×