Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Một số giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong quản lý khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 120 trang )


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong quản lý khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh” là công
trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu, kết quả, ý kiến nêu trong luận
văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây.


Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả



Đỗ Văn Chung


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả Luận văn xin bày tỏ sự cảm ơn chân
thành, sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Bá Uân vì sự tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác
giả trong quá trình thực hiện luận văn tại trường Đại học Thuỷ lợi.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu, các thầy cô giáo đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức và toàn thể cán bộ, nhân viên trường Đại học
Thuỷ lợi đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và
nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình học.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo, đồng nghiệp, các cơ quan
hữu quan, bạn bè và gia đình đã động viên, quan tâm, giúp đỡ tạo điều kiện cho
tác giả hoàn thành chương trình học tập và bản luận văn này.


Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Hội đồng bảo
vệ và kính mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các thầy, cô để tác giả có
điều kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được tính
hiệu quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn.
Xin trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Tác giả



Đỗ Văn Chung


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1: Sơ đồ cách tiếp cận mới trong quản lý môi trường 41
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Quảng ninh 43
Hình 2.2: Biểu đồ sản lượng khai thác than giai đoạn 2003 - 2012 47
Hình 2.3: Sơ đồ khái quát các khâu hoạt động trong quá trình khai thác than
lộ thiên, hầm lò và phát sinh nguồn ô nhiễm môi trường 49
Hình 2.4: Những bãi thải do khai thác than lộ thiên ở Hạ Long, Cẩm Phả
đang gây ô nhiễm nước vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long 53
Hình 2.5: Ngành than - ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Quảng Ninh 60
Hình 2.6: Trạm xử lý nước thải mỏ than Hà Tu 69


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU


Bảng 2.1: Thống kê thị trường xuất khẩu than 7 tháng đầu năm 2013 48
Bảng 2.2: Khối lượng các chất thải rắn (đất đá thải, m
3
) của các mỏ lộ thiên
vùng Quảng Ninh trong các năm gần đây 55

Bảng 2.3: Mức độ tạo bụi của các hoạt động khai thác than 57
Bảng 2.4: Tình hình quản lý phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp 66



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết tắt đầy đủ
BTNMT Bộ Tài nguyên và Môi trường
BVMT Bảo vệ môi trường
CHLB Cộng hòa Liên bang
CP
Chính phủ
CP Cổ phần
dB Đơn vị hàm loga
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HĐND Hội đồng nhân dân
KH Kế hoạch
NĐ Nghị định
NEDO
Cơ quan Phát triển năng lượng công nghiệp
NQ Nghị quyết

NSNN Ngân sách Nhà nước
NTCN Nước thải công nghiệp
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
pH
Chỉ số đo độ hoạt động của các ion hiđrô
(H
+
)
trong
dung dịch

Quyết định
TT Thông tư
UBND Ủy ban nhân dân
UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hiệp quốc
USD Đồng đô la Mỹ
XK7T/2013 Xuất khẩu than 7 tháng đầu năm 2013

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG KHAI THÁC THAN 1
1.1. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững 1
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1
1.1.2. Mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và phát triển bền vững 6

1.1.3. Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu
phát triển bền vững 9
1.2. Vai trò, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về môi trường 14
1.2.1. Vai trò của quản lý môi trường 14
1.2.2. Nội dung công tác quản lý nhà nước về môi trường 18
1.2.3. Các công cụ quản lý môi trường 19
1.3. Vai trò của Ngành công nghiệp khai thác than ở nước ta 26
1.3.1. Đóng góp vào việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia 26
1.3.2. Đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh 28
1.4. Tác động môi trường của hoạt động khai thác than 28
1.5. Vai trò, nội dung của công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than
32
1.5.1. Sự cần thiết bảo vệ môi trường trong khai thác than 32
1.5.2. Nội dung của công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than 34
1.5.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác bảo vệ môi trường trong
khai thác than 35
1.6. Những kinh nghiệm về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản nói
chung, khai thác than nói riêng trên thế giới và bài học cho Việt Nam 38
1.6.1. Những kinh nghiệm về bảo vệ môi trường trong khai thác
khoáng sản trên thế giới 38

1.6.2. Những kinh nghiệm quốc tế, rút ra bài học cho Việt Nam về bảo
vệ môi trường trong khai thác khoáng sản nói chung, khai thác than
nói riêng 40
Kết luận Chương 1 42
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG KHAI THÁC THAN TẠI TỈNH QUẢNG NINH TRONG
NHỮNG NĂM QUA 43
2.1. Sơ lược về tình hình khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh 43
2.1.1. Vài nét về tỉnh Quảng Ninh 43

2.1.2. Trữ lượng và tình hình khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh 46
2.2. Các tác động môi trường của hoạt động khai thác than tại Quảng Ninh 49
2.2.1. Các vấn đề tác động môi trường chủ yếu của ngành than 49
2.2.2 Hiện trạng các nguồn gây ô nhiễm môi trường của ngành than 55
2.3. Công tác quản lý môi trường trong khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh 59
2.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý môi trường trong khai thác than tại
Quảng Ninh 59
2.3.2. Thực trạng công tác quản lý môi trường trong khai thác than tại
tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua 61
2.4. Đánh giá chung về công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than tại
tỉnh Quảng Ninh 72
2.4.1. Những kết quả đạt được
72
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân 74
Kết luận Chương 2 80
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TRONG QUẢN LÝ KHAI THÁC THAN TẠI TỈNH
QUẢNG NINH ĐẾN NĂM 2020 81
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh đến 2020 81
3.2. Quan điểm và định hướng phát triển Ngành công nghiệp than đến 2020 83

3.2.1. Quan điểm phát triển 83
3.2.2. Định hướng phát triển 85
3.3. Nguyên tắc đề xuất các giải pháp quản lý môi trường trong khai thác than . 87
3.4. Các giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong quản lý khai
thác than tại tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 88
3.4.1. Các giải pháp về cơ chế chính sách và tổ chức quản lý 88
3.4.2. Các giải pháp về kinh tế 94
3.4.3. Giải pháp về khoa học công nghệ, kỹ thuật 97
3.4.4. Giải pháp về tuyên truyền giáo dục 100

3.5. Các giải pháp hỗ trợ 101
3.5.1. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực 101
3.5.2. Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ ngành than 101
3.5.3. Giải pháp về trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng 102
Kết luận Chương 3 103
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO





PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây nhờ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và
Nhà nước đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển kinh tế là các vấn đề môi trường diễn
ra ngày càng phức tạp. Nguy cơ ô nhiễm môi trường đang ở tình trạng báo động
ở những quốc gia đang phát triển, nơi nhu cầu cuộc sống ngày càng xung đột
mạnh mẽ với sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Bất kỳ hoạt động kinh tế xã hội cũng như trong đời sống sinh hoạt con
người đều phải sử dụng các nguồn năng lượng khác nhau. Mặc dù đã có nhiều
tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới, song
chúng chưa thể thay thế cho nhiên liệu hoá thạch và có khả năng cạn kiệt bất cứ
lúc nào như than đá, dầu mỏ, Quá trình khai thác, chế biến và đốt cháy các
nhiên liệu hoá thạch thường có ảnh hưởng tác động rất lớn đến môi trường. Nếu
như quá trình đốt cháy than tạo ra các khí nhà kính thì quá trình khai thác than
lại gây ô nhiễm, suy thoái và có những sự cố môi trường diễn ra ngày càng phức
tạp đặt con người trước những thảm hoạ ghê gớm của thiên nhiên kết cục này sẽ
ảnh hưởng trở lại tới phát triển kinh tế của con người.

Ở nước ta, hoạt động khai thác than có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, xong việc khai thác thiếu
quy hoạch tổng thể, không quan tâm đến cảnh quan môi trường đã và đang làm
biến động nguồn tài nguyên thiên nhiên như mất dần canh tác, giảm diện tích
rừng gây ô nhiễm nguồn nước bao gồm nước mặt, nước ngầm và cả ô nhiễm
biển ảnh hưởng tới tài nguyên sinh vật và sức khoẻ cộng đồng. Kết quả tính toán
của một số công trình nghiên cứu cho thấy, chi phí thiệt hại môi trường do hoạt
động khai thác than gây ra là rất lớn, bằng khoảng 5% tổng giá thành than.Trong
quá trình sản xuất than thải ra nhiều chất thải: đất, đá (mỗi năm trên 50 triệu m
3
),
nước thải mỏ (hàng trăm triệu m
3
/năm), khí thải và các phế liệu, phế thải sản

xuất khác, đồng thời chiếm và phá huỷ nhiều diện tích đất (hàng trăm ngàn ha).
Quảng Ninh là tỉnh có trữ lượng than lớn nhất nước ta (chiếm tới 90% trữ
lượng than của cả nước). Với sản lượng khai thác than nguyên khai hơn 40 triệu
tấn/năm, mỗi năm ít nhất là 100 triệu m
3
chất thải rắn như đất, đá được thải ra.
Đây là nguyên nhân khiến Quảng Ninh là địa phương duy nhất có rất nhiều "núi
chết" cao ngất ngưởng, tồn tại hàng chục năm, không loại cây cối nào sống nổi,
đủ để trở thành mối đe dọa về sạt lở, vùi lấp sông suối, công trình, nhà cửa vùng
sản xuất và tính mạng người dân. Điều đó cho thấy để góp phần cho việc xây
dựng, phát triển kinh tế xã hội và khai thác than một cách bền vững tại tỉnh
Quảng Ninh, thì một vấn đề quan trọng cần được quan tâm đặc biệt là cần tăng
cường hơn nữa công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than trên địa bàn.
Xuất phát từ những yêu cầu, điều kiện thực tiễn trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Một số giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển

bền vững trong khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình, với mong muốn đóng góp những kiến thức và hiểu biết của
mình trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận và những kết quả đánh giá thực trạng công tác bảo vệ
môi trường trong khai thác than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
, Luận văn nghiên
cứu một số giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than
nhằm phát triển bền vững sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
a. Cách tiếp cận
Dựa trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý môi
trường, phát triển bền vững, yêu cầu về bảo vệ môi trường trong khai thác tài
nguyên thiên nhiên và các hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước về quản lý
môi trường để xem xét, nghiên cứu giải quyết vấn đề.

b. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề của đề tài, Luận văn áp dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp điều tra khảo sát; Phương pháp thống kê; Phương
pháp hệ thống hóa; Phương pháp phân tích so sánh; Phương pháp phân tích tổng
hợp; Phương pháp đối chiếu với hệ thống văn bản pháp quy; Phương pháp
chuyên gia.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác bảo vệ môi trường trong khai
thác than tại tỉnh Quảng Ninh, những nhân tố ảnh hưởng và những giải pháp
nhằm tăng cường hiệu quả công tác này.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than tại

tỉnh Quảng Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2008-2012 để từ đó đề xuất giải
pháp tăng cường hiệu quả công tác này cho đến năm 2020.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học
Những kết quả nghiên cứu hệ thống hoá các cơ sở lý luận và thực tiễn về
công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất nói chung, trong khai thác
than nói riêng. Những nghiên cứu này có giá trị tham khảo trong học tập, giảng
dạy và nghiên cứu các vấn đề về quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Những phân tích đánh giá và giải pháp đề xuất là những tham khảo hữu
ích có giá trị gợi mở trong việc tăng cường hiệu quả và chất lượng công tác bảo
vệ môi trường nhằm phát triển bền vững trong khai thác khoáng sản nói chung
và khai thác than nói riêng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

6. Kết quả dự kiến đạt được
Đề tài nghiên cứu dự kiến đạt được những kết quả nghiên cứu sau:
- Hệ thống hoá những cơ sở lý luận cơ bản về bảo vệ môi trường, phát triển
bền vững, quản lý nhà nước về môi trường và các nội dung cơ bản của phát triển
bền vững ngành công nghiệp than Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác bảo vệ môi trường trong khai thác
than tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian vừa qua, từ đó đánh giá những kết quả
đạt được cần phát huy và những tồn tại cần tìm giải pháp khắc phục.
- Nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả và chất
lượng công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh nói
riêng và trong khai thác khoáng sản nói chung.
7. Nội dung của luận văn
Ngoài những nội dung quy định của một bản luận văn thạc sĩ như: Phần
mở đầu, kết luận kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, Phần chính của luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ môi trường và phát

triển bền vững trong khai thác than.
Chương 2: Thực trạng công tác bảo vệ môi trường trong khai thác than tại
tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong
quản lý khai thác than tại tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020.

1
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG KHAI THÁC THAN

1.1. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về môi trường
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định: “Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người,
có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
sinh vật”.
Theo định nghĩa trên thì con người trở thành trung tâm trong mối quan hệ
với tự nhiên và dĩ nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau tạo thành trung
tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi trường.
Như vậy bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong một môi
trường của nó. Tuy nhiên môi trường, cái mà loài người hiện nay phải đối mặt và
nghiên cứu bảo vệ nó là môi trường sống bao quanh con người.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
- Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác
động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả không khí, động,
thực vật, đất,nước… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây
dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên

khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất
thải, cung cấp cho ta cảnh quan để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm
phong phú.
- Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người với người,
đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định,… Ở các cấp khác nhau như: Liên
Hiệp Quốc, hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan làng xã, họ tộc, gia
2
đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,… Môi trường xã hội định
hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh
tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với
các sinh vật khác.
Tóm lại, Môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để
sống và phát triển. Môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhân loại,
nó biểu hiện qua 3 chức năng cơ bản sau:
1. Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống
và hoạt động sản xuất của con người: Tài nguyên thiên nhiên bao gồm tài
nguyên có khả năng tái sinh, không có khả năng tái sinh và các dạng thông tin
mà con người khai thác sử dụng đều chứa đựng trong môi trường. Tài nguyên
thiên nhiên có trong thạch quyển, thuỷ quyển, khí quyển và trong sinh quyển.
Càng ngày con người càng khai thác tài nguyên thiên nhiên cho nhu cầu vật chất
ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
2. Môi trường với chức năng nơi chứa đựng chất thải: Trong mọi hoạt
động của con người từ quá trình khai thác tài nguyên cho sản xuất chế biến tạo ra
sản phẩm đến quá trình lưu thông và tiêu dùng đều có phế thải và tạo ra chất
thải. Chất thải bao gồm nhiều dạng nhưng chủ yếu tồn tại ba dạng là: Chất thải
dạng khí, chất thải dạng rắn, chất thải lỏng. Ngoài ra còn một số dạng khác như
nhiệt, tiếng ồn, chất nguyên tử…tất cả các chất đều được đưa vào môi trường.
3. Môi trường với chức năng là không gian sống, cung cấp các dịch vụ
cảnh quan: Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong không gian môi
trường. Đây là nơi duy nhất cho con người được hưởng các cảnh đẹp thiên nhiên

thư thái về tinh thần thoả mãn những nhu cầu tâm lý.
Thế giới ngày càng phát triển đã gây nên những tác động xấu đến môi
trường, làm cho môi trường ngày càng biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ, bị ô nhiễm
nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn của hành tinh chúng ta. Vì vậy, vấn đề môi
3
trường và phát triển đã trở thành vấn đề hết sức cấp bách của chúng ta. Ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết
giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong
thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Theo khoản 3 Điều 3 Luật
Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt
động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu
đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thối,
phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, các nguyên
tắc bảo vệ môi trường bao gồm:
- Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo
đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia
phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu;
- Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, là quyền và trách nhiệm
của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân;
- Hoạt động bảo vệ môi trường phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là
chính kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi
trường;
- Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa,
lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn;
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo
quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Phát triển bền vững

Môi trường ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng, gây tổn thương cho con
người đang sống ở hiện tại và các thế hệ tương lai, điều này buộc chúng ta phải
4
xem xét lại thước đo của sự phát triển. Cần phải tính đến lợi ích của những cộng
đồng không được hưởng lợi hoặc hưởng lợi quá ít từ sự tăng trưởng, đến lợi ích
của thế hệ mai sau, đến chi phí cần phải sử dụng để đền bù thiệt hại về môi
trường hoặc để cải thiện môi trường. Việc tính toán chi phí môi trường gộp vào
chi phí phát triển đã dẫn đến một khái niệm mới, đó là phát triển bền vững.
Khái niệm về phát triển bền vững được đề cập trong nhiều ngành và nhiều
lĩnh vực từ 3 thập kỷ gần đây. Hiện nay, khi nói đến quản lý tài nguyên thiên
nhiên người ta không thể không nói tới Phát triển bền vững hay Sử dụng bền
vững. Năm 1987, Uỷ ban Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc đã đưa ra
khái niệm phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp
ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai”.
Theo khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005: “Phát triển bền
vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt
chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Các nguyên tắc phát triển bền vững:
- Nguyên tắc về sự uỷ thác của nhân dân: Nguyên tắc này yêu cầu chính
quyền phải hành động để ngăn ngừa các thiệt hại môi trường xảy ra ở bất cứ đâu,
bất kể đã có hoặc chưa có các điều luật quy định về cách ứng xử các thiệt hại đó.
Nguyên tắc này cho rằng, công chúng có quyền đòi chính quyền với tư cách là tổ
chức đại diện cho họ phải có hành động ứng xử kịp thời các sự cố môi trường.
- Nguyên tắc phòng ngừa: Ở những nơi có thể xảy ra các sự cố môi trường
nghiêm trọng và không đảo ngược được, thì không thể lấy lý do là chưa có
những hiểu biết chắc chắn mà trì hoãn các biện pháp ngăn ngừa sự suy thoái môi
trường. Về mặt chính trị, nguyên tắc này rất khó được áp dụng, và trên thực tế
nhiều nước đã cố tình quên. Việc chọn lựa phương án phòng ngừa nhiều khi bị

5
gán tội là chống lại các thành tựu phát triển kinh tế đã hiện hình trước mắt và
luôn luôn được tụng xưng, ca ngợi theo cách hiểu của tăng trưởng kinh tế.
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các thế hệ: Đây là nguyên tắc cốt lõi của
phát triển bền vững, yêu cầu rõ ràng ràng, việc thoả mãn nhu cầu của thế hệ hiện
nay không được làm phương hại đến các thế hệ tương lai thoả mãn nhu cầu của
họ. Nguyên tắc này phụ thuộc vào việc áp dụng tổng hợp và có hiệu quả các
nguyên tắc khác của phát triển bền vững.
- Nguyên tắc bình đẳng trong nội bộ thế hệ: Con người trong cùng thế hệ
hiện nay có quyền được hưởng lợi một cách bình đẳng trong khai thác các nguồn
tài nguyên, bình đẳng chung hưởng một môi trường trong lành và sạch sẽ.
Nguyên tắc này được áp dụng để xử lý mối quan hệ giữa các nhóm người trong
cùng một quốc gia và giữa các quốc gia. Nguyên tắc này ngày càng được sử
dụng nhiều hơn trong đối thoại quốc tế. Tuy nhiên, trong phạm vi một quốc gia,
nó cực kỳ nhạy cảm đối với các nguồn lực kinh tế - xã hội và văn hoá.
- Nguyên tắc phân quyền và uỷ quyền: Các quyết định cần phải được soạn
thảo bởi chính các cộng đồng bị tác động hoặc bởi các tổ chức thay mặt họ và
gần gũi nhất với họ. Các quyết định cần ở mức quốc gia hơn là mức quốc tế,
mức địa phương hơn là mức quốc gia. Đây là nguyên tắc cơ bản nhằm kiểm soát
sự uỷ quyền của các hệ thống quy hoạch ở tầm quốc tế, nhằm cổ vũ quyền lợi
của các địa phương về sở hữu tài nguyên, về nghĩa vụ đối với môi trường và về
các giải pháp riêng của họ, áp lực ngày càng lớn đòi hỏi sự uỷ quyền ngày càng
tăng. Tuy nhiên, cần phải hiểu cho đúng rằng địa phương chỉ là một bộ phận của
các hệ thống rộng lớn hơn chứ không được thực thi chức năng một cách cô lập.
Thường thì các vấn đề môi trường có thể phát sinh ngoài tầm kiểm soát địa
phương, ví dụ như sự ô nhiễm “ngược dòng" của nước láng giềng hay cộng đồng
lân cận. Trong trường hợp đó, nguyên tắc uỷ quyền cần được xếp xuống thấp
hơn các nguyên tắc khác.
- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền: Người gây ô nhiễm phải
6

chịu mọi chi phí ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm, phải nội bộ hóa tất cả các chi
phí môi trường nảy sinh từ các hoạt động của họ, sao cho các chi phí này được
thể hiện đầy đủ trong giá cả của hàng hóa và dịch vụ mà họ cung ứng. Tuy
nhiên, sẽ không tránh khỏi trường hợp là, nếu áp dụng nguyên tắc này quá
nghiêm khắc thì sẽ có xí nghiệp công nghiệp bị đóng cửa. Cộng đồng có thể cân
nhắc, vì trong nhiều trường hợp, các phúc lợi có được do có công ăn việc làm
nhiều khi còn lớn hơn các chi phí cho vấn đề sức khoẻ và môi trường bị ô nhiễm.
Do đó, cơ chế áp dụng nguyên tắc này cũng cần linh hoạt và trong nhiều trường
hợp phải tạo điều kiện về thời gian để các doanh nghiệp thích ứng dần dần với
các tiêu chuẩn môi trường.
- Nguyên tắc người sử dụng phải trả tiền: Khi sử dụng hàng hóa hay dịch
vụ, người sử dụng phải trang trải đủ giá tài nguyên cũng như các chi phí môi
trường liên quan tới việc chiết tách, chế biến và sử dụng tài nguyên.
1.1.2. Mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác
động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất. Môi trường tự nhiên (bao gồm cả tài
nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Sự
giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên. Rất nhiều
quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại
tệ, thiết bị công nghệ hiện đại, Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường
tự nhiên nói chung có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế
- xã hội ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương vì:
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa
đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên
liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động
của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không
phải gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.
7
Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để thở,

cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập
nâng cao hiểu biết, Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi trường.
Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên - kể cả sức
lao động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con
người. Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra
nhiều thảm họa cho con người (thiên tai) và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu
con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân
bằng tự nhiên.
Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu
ra” các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản
xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất thải rắn).
Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái,
hoặc gây ra các sự cố về môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội
loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu
không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất
thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối với môi trường.
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ
xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân
cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát
triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát
triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
8
Trong hệ thống kinh tế - xã hội, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng
lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành

phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó.
Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải
tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.
Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển
kinh tế - xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên - đối tượng của
sự phát triển kinh tế - xã hội hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt
động kinh tế - xã hội trong khu vực.
Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng
gây ô nhiễm môi truờng khác nhau:
- Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng
80% tài nguyên và năng lượng của loài người. Sản xuất công nghiệp phát triển
mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra một
lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí thải).
- Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ
sử dụng 20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, nhưng những người nghèo
khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên
nhiên (rừng, khoáng sản, đất đai, ) mà không có khả năng hoàn phục.
Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng
gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững không được khai
thác quá mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp
sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo
tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng
nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo vệ môi trường,
9
Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.
Bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã
hội được bền vững. Kinh tế - xã hội phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để
đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó

lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để kinh tế - xã hội phát triển. Bảo vệ
môi trường là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả
hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có mang lại những lợi
ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi
trường, làm cho các thế hệ sau không còn điều kiện để phát triển mọi mặt (cả về
kinh tế, xã hội, thể chất, trí tuệ con người ), thì sự phát triển đó không có ích gì.
Nếu hôm nay thế hệ chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác bảo vệ
môi trường, làm cho môi trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng
ta chắc chắn sẽ phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ.
Như vậy, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững có mối quan hệ tương
tác rất chặt chẽ, thường xuyên, phụ thuộc và quy định lẫn nhau. Cách mạng khoa
học và kỹ thuật thúc đẩy mối quan hệ tương tác đó. Xã hội cần hướng tới một sự
phát triển bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường lấy con người làm trung tâm.
1.1.3. Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu phát
triển bền vững
Trong vài thập niên gần đây, ở khắp nơi trên thế giới, tình trạng ô nhiễm
môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường và những biến đổi bất lợi
của thiên nhiên đang hằng ngày, hằng giờ ảnh hưởng tới chất lượng sống của con
người. Việt Nam là quốc gia đang phát triển cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề
môi trường, như: Cạn kiệt tài nguyên, mất cân bằng sinh thái, biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, ô nhiễm môi trường sống. Vấn đề bảo vệ môi trường được coi là
một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Vì vậy, vấn đề này đã
được văn kiện các kỳ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam liên tục đề cập đến. Văn
kiện đã định ra các quan điểm, giải pháp phù hợp, kịp thời, đặc biệt Đại hội
10
Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định: “Môi trường ở nhiều nơi
đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử
dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp”. Vì vậy, bảo vệ
môi trường ngày càng trở thành một trong những chính sách quan trọng của
Đảng và Nhà nước.

Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI là: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ
giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi
trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy
mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các thảm
họa thiên nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài
nguyên quốc gia”.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18/3/2013 về một số
vấn đề cấp bách trong bảo vệ môi trường. Trong đó, chú trọng bảo vệ môi trường
trong hoạt động khai thác khoáng sản, với các nội dung như: Tập trung thanh tra,
kiểm tra việc khai thác khoáng sản, kiên quyết xử lý hành vi vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường; Rà soát, hoàn thiện các quy định về ký quỹ cải tạo, phục hồi
môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản theo hướng quy định đầy đủ
kinh phí cho các hạng mục cải tạo, phục hồi môi trường, làm rõ phương án, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân; Ban hành quy chế bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản, làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân
tham gia vào hoạt động khai thác, vận chuyển và chế biến khoáng sản.
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường. Nghị quyết chỉ ra quan điểm, giải pháp phù
hợp trong giai đoạn tới “Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn
tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát triển đất nước. Tài nguyên phải được đánh
giá đầy đủ các giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ
11
chặt chẽ; khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh tài nguyên. Chú trọng phát triển, sử
dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế. Môi trường là vấn đề toàn cầu.
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài
hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm

soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng
sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại
bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Những giải pháp chiến lược then chốt được lựa chọn bao gồm: Tăng
cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức sử dụng tiết
kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường; Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Tăng
cường quản lý nhà nước về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; Đổi mới,
hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực
cho quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Coi trọng hợp tác, hội nhập quốc
tế về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Một số kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế của hệ thống chính sách
pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản:
1. Những kết quả đạt được
+ Hệ thống pháp luật về tài nguyên khoáng sản đã xác lập các yêu cầu về
bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản. Bên cạnh những cơ chế
quản lý nhằm đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với nguồn tài nguyên
khoáng sản và giám sát đối với quá trình khai thác, chế biến khoáng sản, pháp
luật về khoáng sản nói riêng và pháp luật về môi trường nói chung đều có riêng
những quy định về vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng
sản. bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản đã được quy định
12
cụ thể trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Khoáng sản năm 2010 và
các văn bản hướng dẫn thi hành cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Các văn bản này đã quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể; các
hành vi bị cấm; các biện pháp chế tài xử lý vi phạm; các công cụ quản lý; hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
+ Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản đã
phân định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng, cụ thể cho các cơ quan

quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Bộ Tài nguyên và Môi trường
là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản ở cấp Trung ương, còn UBND cấp tỉnh/thành phố là cơ
quan chịu trách nhiệm ở cấp tỉnh/thành.
+ Hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường
ngày càng được hoàn thiện. Hoạt động khai thác khoáng sản có tác động trực
tiếp đến các thành phần của môi trường như nước, đất, không khí. Trong số 41
Quy chuẩn kỹ thuật hiện hành về bảo vệ môi trường do Bộ Tài nguyên và Môi
trường ban hành, có 18 Quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến hoạt động khai thác
khoáng sản.
+ Các chính sách pháp luật nhằm thúc đẩy kinh tế hóa trong lĩnh vực khai
thác khoáng sản ngày càng được áp dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả cao, góp
phần nâng cao hiệu quả kiểm soát ô nhiễm môi trường và tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó là các công cụ kinh tế đã được áp dụng như:
Thuế tài nguyên; Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; Phí bảo vệ
môi trường đối với chất thải rắn; Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
+ Pháp luật về tài nguyên khoáng sản quy định chính sách khuyến khích
bảo vệ môi trường và khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản. Nhà
nước đã có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư đối với các dự án khai thác
gắn liền với chế biến tại chỗ, khoáng sản ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Dự án có áp
13
dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, bảo đảm môi trường, thu hồi tối đa các thành
phần có ích, làm ra các sản phẩm kim loại, hợp kim hoặc các sản phẩm có giá trị
và hiệu quả kinh tế - xã hội cao; Dự án chế biến khoáng sản nhập khẩu đáp ứng
nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu.
2. Một số tồn tại và hạn chế
- Các quy định hiện hành chưa đủ để đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi
trường trong khai thác khoáng sản. Hoạt động khai thác khoáng sản là hoạt động
có xung đột với nhiều lĩnh vực kinh tế khác và môi trường cho các hoạt động

kinh tế này cũng đòi hỏi những yêu cầu đặc thù khác nhau, trong khi chưa có
những quy định đặc thù để giải quyết xung đột về môi trường giữa hoạt động
khoáng sản với các hoạt động khác. Các văn bản hiện nay chưa làm rõ căn cứ để
lựa chọn khi có xung đột về môi trường giữa khai thác khoáng sản với các ngành
kinh tế khác, đặc biệt là nông nghiệp, du lịch. Việc thiếu những tiêu chí cần thiết
làm cơ sở pháp lý cho sự lựa chọn khiến cho các quyết định đưa ra có thể dựa
trên những ý chí chủ quan nhất định và gây ra những tranh cãi về bảo vệ môi
trường, bảo vệ nguồn tài nguyên dự trữ.
- Ngoài ra, các quy định hiện hành cho thấy có sự mất cân đối giữa yêu
cầu về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản và yêu cầu cũng
như cơ chế đảm bảo cho việc khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản.
Trong khi, vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản có
những yêu cầu rất cụ thể về công nghệ sử dụng; trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân liên quan; nộp phí môi trường; ký quỹ phục hồi môi trường thì yêu cầu
đối với việc khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản không có nhiều
cơ chế pháp lý để ràng buộc. Ngay chính trong cơ chế quan trọng nhất là cấp
phép khai thác cũng như thu thuế tài nguyên cũng chưa được xây dựng dựa trên
một quan điểm tài nguyên khoáng sản là tài sản của quốc gia, khả năng khai thác
là có hạn và là tài nguyên không thể tái tạo.
- Về chế tài xử lý, mặc dù Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004

×