Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Chính sách giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.21 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MA THỊ THU
CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Hoàng Văn Tú
Hà Nội, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu "Chính sách giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh
Tuyên Quang" của Luận văn này là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng, tìm tòi và
sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người
hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Văn Tú. Tôi xin cam đoan số liệu và
kết quả nghiên cứu trong của công trình là hoàn toàn trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khoa học khác trong cùng lĩnh vực, phạm vi.
Những lời khai trên đây hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu trách
nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Ma Thị Thu

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám
đốc, các thầy, cô Khoa Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội đã tạo
điều kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa học PGS.TS. Hoàng Văn Tú,


người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong quá trình triển khai và viết luận
văn này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới lãnh đạo UBND tỉnh
Tuyên Quang, Sở Tư pháp và các cơ quan chức năng liên quan của tỉnh Tuyên
Quang, cơ quan, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ và động
viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, nhưng luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý
thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.

Tác giả luận văn
Ma Thị Thu
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CB, CC, VC : Cán bộ, công chức, viên chức
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CSGDPL : Chính sách giáo dục pháp luật
CSPBGDPL : Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật
CSPL : Chính sách pháp luật
GDPL : Giáo dục pháp luật
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật là công cụ cơ bản của Nhà nước trong duy trì ổn định và quản lý
phát triển xã hội, có vai trò quan trọng xác định các quan hệ xã hội, quan hệ pháp lý
giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức và người dân là cơ sở pháp lý cho hoạt động

của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, là sản phẩm vận dụng các quy phạm pháp luật
vào đời sống thực tiễn, là công cụ để giữ gìn sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc
gia. Ở nước ta, "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế XHCN" là một nguyên tắc quan trọng của Nhà nước được Hiến pháp và
pháp luật thừa nhận. Để thực hiện nguyên tắc đó, việc giáo dục pháp luật (GDPL)
nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức pháp luật cho nhân dân nói chung và mọi
tầng lớp nhân dân tỉnh Tuyên Quang nói riêng là vấn đề cấp thiết bởi những lý do
sau:
Thứ nhất: Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, Đảng và Nhà nước
rất coi trọng việc giáo dục pháp luật trong nhân dân. Pháp luật giáo dục công dân
"tôn trọng và chấp hành Hiến pháp, pháp luật" và đảm bảo con người được phát
triển toàn diện về thể chất, đạo đức, trí tuệ, tinh thần, cống hiến và hoàn thiện ý thức
công dân, tuân thủ luật pháp. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật phải không ngừng
được hoàn thiện và được thực hiện nghiêm chỉnh, pháp chế XHCN được củng cố và
tăng cường, mọi tổ chức, công dân trong xã hội phải có hiểu biết, có ý thức và tinh
thần tôn trọng pháp luật, xử sự theo yêu cầu, quy định của pháp luật.
Thứ hai: Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN ở nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trên nhiều
lĩnh vực, vẫn còn nhiều vấn đề xã hội đặt ra phải giải quyết, trong đó có vai trò,
năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Giáo dục nâng cao trình độ văn
hoá toàn diện, trang bị kiến thức pháp lý nhất định cho mọi người dân đặc biệt quan
trọng và cần thiết, bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận và phát triển, mọi công dân có
điều kiện, cơ hội tham gia, đóng góp tích cực và lành mạnh vào các quan hệ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2
Thứ ba: Đất nước ta đã và đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mở
cửa hội nhập quốc tế một mặt đã tạo ra nhiều cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách
thức. Vì vậy, tổ chức thực hiện chính sách giáo dục pháp luật (CSGDPL), trang bị
kiến thức pháp luật (trong nước và quốc tế), hình thành văn hoá pháp lý cho mọi

tầng lớp nhân dân sẽ tạo điều kiện, nền tảng cần thiết để Việt Nam tham gia tích cực
vào các quan hệ kinh tế thế giới, đẩy nhanh phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ tư: Những năm qua, cùng với tiến trình đổi mới đất nước, lượng lớn
CSPL được ban hành có nội dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh các loại quan hệ xã
hội trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Một số CSPL được ban hành nhưng thiếu
nguồn lực giáo dục, kỹ năng tuyên truyền nên kết quả thực hiện chưa đạt được như
mong đợi. Vì vậy, “Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành và thực thi
pháp luật, trong đó chú trọng việc GDPL và tổ chức thực thi pháp luật một cách
nghiêm minh” [13, tr.840].
Thứ năm: Thực hiện CSGDPL cho nhân dân hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập cả về tần suất, mức độ, kỹ năng và áp dụng công nghệ thực hiện, nhất là các
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn cả nước. Nhiều hình thức, biện pháp
GDPL cho nhân dân chưa chưa thiết thực với lao động sản xuất, tập tục văn hoá,
đời sống người dân, hiệu quả chưa cao. CSGDPL vì vậy, đòi hỏi sự vào cuộc một
cách tích cực của Đảng, Nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức (CB, CC), doanh
nghiệp và mọi tổ chức, người dân.
Thứ sáu: Hiện nay, nhiều thể chế, văn bản pháp luật ban hành nhằm bảo đảm
CSGDPL được thực hiện thường xuyên, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý
xã hội bằng pháp luật. Tuy nhiên, nhận thức của một số CB, CC, cơ quan, sở ngành
chức năng liên quan về CSGDPL chưa đầy đủ, chưa tương xứng với vị trí, vai trò,
tầm quan trọng, ý nghĩa của CSGDPL đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước
và mỗi địa phương.
Phạm vi tỉnh Tuyên Quang, với đặc điểm, vị trí địa lý của một tỉnh miền núi
phía Bắc của Tổ quốc, nơi tụ cư của 22 tộc người và đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội còn nhiều khó khăn, dù Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã trú trọng lãnh đạo tổ
chức thực hiện CSGDPL cho mọi tầng lớp nhân dân và đồng bào các dân tộc thiểu
số tại các huyện, xã, vùng sâu vùng xa, vùng 135, song CSGDPL nói chung và nỗ
lực của tỉnh nói riêng vẫn còn những hạn chế, khó khăn, bất cập, chưa đáp ứng yêu
3
cầu, chất lượng và hiệu quả chưa cao. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi

mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển trong thời gian tới cần thiết phải
nghiên cứu, hoàn thiện, đổi mới phương thức, biện pháp đẩy mạnh CSGDPL, nâng
cao trình độ ý thức pháp luật cho mọi người dân.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Chính sách giáo dục pháp luật
từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” làm luận văn Thạc sĩ Chính sách công là yêu cầu
khách quan, cấp thiết cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Chính sách giáo dục
pháp luật từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” cho thấy các nhà khoa học tiếp cận theo
nhiều cách, với những cấp độ khác nhau:
Nhóm thứ nhất, gồm các công trình nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý
luận về chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật như các sách tham khảo, chuyên
khảo: “Bàn về giáo dục pháp luật” của PTS Trần Ngọc Đường và Dương Thị
Thanh Mai (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995); “Xây dựng ý thức pháp luật và
lối sống theo pháp luật” của TSKH. Đào Trí Úc (Hà Nội, 2002); “Nghiệp vụ phổ
biến, giáo dục pháp luật” do Bộ Tư pháp biên soạn (Nxb Thanh niên, 1998); “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi
mới”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp năm 2004; “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về chính sách giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”,
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, MS 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp; “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật Việt Nam” của
Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Hà Nội, 2004). Các công trình này đã
tập trung nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp
luật, về GDPL và đề cập đến một số biện pháp để xây dựng ý thức pháp luật, lối
sống theo pháp luật. Những vấn đề lý luận cơ bản nhất về GDPL như quan niệm về
CSGDPL theo các góc độ rộng và hẹp, chủ thể, đối tượng GDPL, mục đích của
CSGDPL đối với quá trình hình thành ý thức pháp luật của con người. Nhìn chung,
ở các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận cơ
bản về CSGDPL và đề cập một số biện pháp hình thành ý thức và lối sống theo
pháp luật. Tuy chưa thực sự sâu sắc, song các công trình nghiên cứu đã bước đầu

xây dựng một số vấn đề lý luận cơ bản về CSGDPL cũng như một số biện pháp chủ
yếu trong giáo dục nâng cao ý thức pháp luật đối với mọi tầng lớp nhân dân. Những
nội dung này là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về CSGDPL ở các khía cạnh
4
cụ thể và là tài liệu tham khảo bổ ích để nghiên cứu về CSGDPL cho mọi đối
tượng, mọi tầng lớp nhân dân.
Nhóm thứ hai, gồm các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về
GDPL cho từng đối tượng cụ thể như: “Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở miền
núi và vùng dân tộc thiểu số” của Nguyễn Duy Lãm (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996); "Cẩm nang pháp luật giành cho Trưởng thôn" của Trung tâm nghiên
cứu và hỗ trợ pháp lý, Đại học Quốc gia Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1996); “Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước
trên địa bàn Hà Nội” (2002) của TS. Lê Văn Hoè đã nêu khái niệm, phân tích một
số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về GDPL theo nghĩa rộng, hẹp, GDPL ở
thành phố và vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số, đặc điểm, vai trò, nội dung
GDPL cho các đối tượng là CB, CC, VC, người dân, doanh nghiệp, lực lượng vũ
trang, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, trưởng thôn về hiệu quả và đánh giá
hiệu quả công tác GDPL trên các địa bàn; đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải
pháp về GDPL mỗi địa phương. Luận án PTS Luật học: “Giáo dục pháp luật trong
các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (Không chuyên Luật) ở
nước ta hiện nay” (1996) của tác giả Đinh Xuân Thảo nghiên cứu về CSGDPL cho
các đối tượng trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề không
chuyên luật, một nhóm đối tượng khá đông đảo ở nước ta hiện nay. Luận văn thạc sĩ
Luật học: “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Tuyên
Quang” (2001) của tác giả Vi Thị Thu Hiền; “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay” (2007) của tác giả Trần Thị Nụ; Bài
viết: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước” của
Lương Thanh Cường (Dân chủ và pháp luật, số 6 (147, năm 2004)… Các công trình
nghiên cứu khoa học nêu trên đã nghiên cứu về CSGDPL dưới nhiều góc độ khác
nhau, đưa ra những luận cứ khoa học quan trọng, thu được kết quả khảo sát có giá

trị, xây dựng được một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn, biện pháp GDPL
cho mọi đối tượng trong xã hội và mỗi địa phương. Về chủ trương, quan điểm của
Đảng, Nhà nước về GDPL là nhất quán. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện thuận
lợi hay khó khăn ở mỗi địa phương có thể khác nhau tuỳ thuộc nhiều vào đặc điểm,
tình hình kinh tế - xã hội mỗi địa bàn.
Những nghiên cứu trên đây cho thấy, các công trình khoa học, đề tài nghiên
cứu, sách chuyên khảo, luận án, bài báo trong chừng mực nhất định đã góp phần
làm sáng tỏ vấn đề lý luận thực tiễn quan trọng về GDPL nói chung. Tuy nhiên, đây
là một đề tài luận văn nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn
5
nhằm hoàn thiện CSGDPL nói chung và đặc biệt đối với địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
Kết quả nghiên cứu của luận văn, hy vọng sẽ góp phần khắc phục hạn chế trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. 1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là nhằm hoàn thiện CSGDPLcho
mọi đối tượng nhân dân nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, Đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về CSGDPL ở Việt Nam
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Tập trung phân tích làm sáng tỏ các khái niệm, đặc
điểm, nội dung và vai trò quan trọng của CSGDPL đối với mọi tầng lớp nhân dân;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện CSGDPL cho mọi đối tượng nhân
dân tỉnh Tuyên Quang; trên cơ sở đó tìm ra những mặt được, chưa được, nguyên
nhân, bài học kinh nghiệm của thực trạng đó và những yêu cầu đặt ra đối với
CSGDPL cho mọi đối tượng nhân dân trên địa bàn Tuyên Quang hiện nay;
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện CSGDPL
cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng đáp ứng yêu
cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần vào sự phát triển
chung của đất nước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về CSGDPL cho mọi
đối tượng, mọi tầng lớp nhân dân;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách này tại tỉnh Tuyên Quang
từ năm 2008 đến hết năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5. 1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, về giáo dục nâng cao ý thức pháp luật mọi tầng lớp
nhân dân; Hiến pháp năm 2013; Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; vận dụng lý luận
chung về CSGDPL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
6
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử,
logic, so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần nghiên cứu tổng kết đối với vấn đề chính sách giáo dục
pháp luật ở tỉnh Tuyên Quang từ năm 2008 đến năm 2014. Cung cấp thêm tư liệu về
sự lãnh đạo, định hướng của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Tuyên Quang đối với việc
thực hiện chính sách này tại địa bàn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp một cách khách quan, toàn diện về thực trạng thực hiện
CSGDPL ở tỉnh Tuyên Quang.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp
lãnh đạo, các sở, ban, ngành trong tỉnh để bổ sung, hoàn thiện chính sách giáo dục
pháp luật, cũng như làm tài liệu tham khảo đối với các học viên cao học của Học
viện Khoa học xã hội, Trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh khi nghiên cứu về vấn đề

này. Các nhận định, đánh giá về thực trạng, kết luận và kinh nghiệm được đúc rút sẽ
góp phần cung cấp luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện các giải pháp thực hiện
CSGDPL của tỉnh Tuyên Quang trong tình hình mới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn được bố cục thành 3 chương, 9 tiết như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách giáo dục pháp luật
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh
Tuyên Quang
Chương 3. Phương hướng hoàn thiện chính sách giáo dục pháp luật ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm về chính sách pháp luật
Khái niệm CSPL cho đến nay ở nước ta vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy
đủ và có hệ thống. Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm CSPL:
Khi tìm hiểu về CSPL thì trước hết cần phải nắm rõ chính sách là gì? Chính
sách là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống xã hội, đặc biệt là
được sử dụng rất nhiều trong các vấn đề liên quan đến chính trị, đạo đức và pháp
quyền. Theo Từ điển tiếng Việt "chính sách" được hiểu là "sách lược và kế hoạch
cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình
hình thực tế mà đề ra chính sách…"[50, tr. 1].
Theo chúng tôi, chính sách cần được hiểu ở những góc nhìn nhất định: xem
xét nó một cách độc lập hay trong mối quan hệ với các phạm trù khác, chẳng hạn
như chính trị hay pháp quyền như đã đề cập ở trên.
Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập thì
theo chúng tôi, chính sách được hiểu là những tư tưởng, những định hướng, những
mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí
pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính

sách mà thôi.
Vì vậy, có thể hiểu rằng, so với khái niệm pháp luật, thì chính sách được hiểu
rộng hơn nhiều. Bởi chính sách định hướng hành động do chủ thể lựa chọn để giải
quyết những vấn đề phát sinh trong thực tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh ở mỗi
giai đoạn và là cách thức tác động của Nhà nước vào các lĩnh vực đời sống xã hội
để đạt được mục tiêu định hướng. Chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang
tính ổn định, mềm dẻo, linh động. Chính sách có tác động nhanh và kịp thời, mạnh
mẽ, toàn diện đến nhận thức, thái độ, hành vi của chủ thể bị tác động. Đặc biệt,
chính sách điều chỉnh động cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt động của các cá nhân
và từng nhóm đối tượng cụ thể. Nếu xét về nội hàm của chính sách trong mối quan
hệ với chính trị và pháp quyền thì khái niệm chính sách cần được tìm hiểu ở một số
khía cạnh sau:
- Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào
đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền mà người ta
định ra chính sách;
8
- Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách khác,
pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách chưa được
luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được luật pháp hóa vì
nó không được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng mới
hay sự thay đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp
luật ngoài chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung của
pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách khi nó
được thừa nhận, được "mài rũa", "nhào nặn" bởi "bàn tay công quyền", tức là được
ban hành bởi Nhà nước theo một trình tự luật định.
Cũng có quan niệm cho rằng, "pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung", mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không đặt vấn
đề phải GDPL. Pháp luật không thể là cái thuộc tính tuyên truyền, vận động, ngược
lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về
quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan

hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh. Song quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, do đó GDPL là nhất quán, Nhà nước ban hành
CSPL và tổ chức tuyên truyền, GDPL để nhân dân hiểu biết pháp luật, tôn trọng
pháp luật và tự giác thực hiện pháp luật.
Chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và với
bộ máy quyền lực công - Nhà nước. Nguyên tắc tổ chức thực thi quyền lực chính trị
là "Đảng đề ra đường lối, chính sách, Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách
của Đảng thành pháp luật". Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò hoạch
định chính sách của Đảng cầm quyền. Có ý kiến cho rằng, việc xây dựng chính sách
là nhiệm vụ của Đảng, Đảng là tổ chức duy nhất có quyền đưa ra chính sách đúng
đắn. Đảng đề ra đường lối chính sách để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, xây
dựng và ban hành pháp luật của Nhà nước cũng chính do Nhà nước xây dựng và
ban hành chính sách. Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật là thể chế hóa
chính sách của Đảng thành pháp luật nhưng cũng là một bước xây dựng và hoàn
thiện chính sách. Và vì vậy, chính sách và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và
có những điểm giao nhau, là cơ sở tồn tại của nhau trong một chế độ Nhà nước
pháp quyền.
CSPL trong Nhà nước pháp quyền là sự phản ánh tính chính đáng, tính hợp
pháp của quyền lực Nhà nước, giải quyết mâu thuẫn giữa chính sách (chính trị), đạo
đức xã hội, tính chính đáng của Nhà nước. Nhà nước ban hành chính sách thông
9
qua các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ), các bộ ngành thực hiện chức
năng quản lý nhà nước. Chính sách pháp luật gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết,
Nghị định, Quyết định, Thông tư. Pháp luật và chính sách có mối quan hệ hữu cơ,
chính sách là cơ sở, nền tảng để chế định, xây dựng nên pháp luật và đều do Nhà
nước ban hành, tổ chức thực hiện, bảo đảm điều kiện thực hiện. CSPL một mặt nó
thể hiện chính sách đã được dựa vào pháp luật, mặt khác, pháp luật được sử dụng
với tư cách là công cụ, phương tiện của quyền lực và của quản lý đời sống xã hội.
Do đó, CSPL là chiến lược hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực điều chỉnh
pháp luật cũng như phản ánh các lợi ích của xã hội trong việc phân bổ lại các lĩnh

vực ảnh hưởng của các điều chỉnh xã hội khác nhau. CSPL còn được hiểu là những
nguyên tắc, đường hướng cơ bản được Đảng, Nhà nước hoạch trong từng giai đoạn
phát triển của đất nước nhằm tạo ra những cơ sở đúng đắn cho việc sử dụng có hiệu
quả các khả năng điều chỉnh pháp luật; xác định đúng đắn tổ chức và hoạt động của
các cơ quan pháp luật và nhằm xây dựng ở mỗi người dân ý thức và lối sống tuân
theo pháp luật.
1.2. Khái niệm chính sách giáo dục pháp luật
Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ
chức nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức và những trí thức
cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội.
Tìm hiểu khái niệm chính sách giáo dục pháp luật (CSGDPL) trước hết cần
tìm hiểu các quan niệm sau về GDPL:
- Quan niệm thứ nhất: Xem hoạt động CSGDPL luật đồng nhất với việc tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật như các đợt tuyên truyền, cổ động
khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử HĐND các cấp. Quan
niệm này coi việc CSGDPL chỉ còn là một công việc của cơ quan chuyên trách hay
các phương tiện thông tin đại chúng, từ đó làm mất tính tổ chức, tính hệ thống của
hoạt động GDPL.
- Quan niệm thứ hai: Cho rằng không có khái niệm chính sách về GDPL vì
pháp luật là các quy tắc có tính bắt buộc chung, mọi người phải có nghĩa vụ tuân
thủ. Theo quan niệm này, tự bản thân pháp luật đã có tính giáo dục bởi những quy
tắc của nó. Pháp luật không thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động, ngược lại,
10
bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền
và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã
hội do pháp luật điều chỉnh.
- Quan niệm thứ ba: Đồng nhất CSGDPL là một bộ phận của giáo dục chính
trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức pháp luật, có sự tôn trọng
và tuân thủ pháp luật. Nếu hiểu theo quan niệm này thì đồng nghĩa với việc trong xã

hội không có cái gọi là “GDPL” và do vậy cũng không có cơ quan, đơn vị, tổ chức
hay cá nhân nào có chức năng CSGDPL.
Các quan niệm nói trên đều mang tính một chiều, chưa thấy hết được đặc thù,
sự tác động của CSGDPL. Bởi lẽ, bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản, quy phạm
pháp luật, là mô hình ở dạng “tiềm năng”. Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống
thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: ban hành, tuyên truyền giáo
dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, trong cơ chế đó có yếu tố con người là cơ
bản. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử
sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố chủ quan và khách quan. Việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều
kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật.
Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải
được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để hiểu rõ và có quan điểm đúng đắn về CSGDPL.
CSGDPL trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung của nhiều nhà khoa học
đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm CSGDPL
xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục còn được xác định qua các yếu tố sau đây:
Một là, khái niệm CSGDPL theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong việc phân
biệt phạm trù CSGDPL với phạm trù ý thức pháp luật. Hai phạm trù này có quan hệ
mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt động CSGDPL đó chính là sự tác
động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật
là sản phẩm của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa
quan trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động
CSGDPL. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc triển khai thực hiện
11
CSGDPL thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa
được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng, lãng phí trong đội
ngũ CB, CC có thể tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng

tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngược
với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng
lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yếu tố của CSGDPL như nội dung, hình
thức, phương pháp và định hướng ngay trong các hoạt động thực tiễn phù hợp với
yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ sẽ giảm bớt được tác động tiêu cực, giúp cho
đối tượng được giáo dục có ý thức pháp luật vững vàng, có khả năng phân tích, phê
phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ
đó có thái độ, tình cảm và hành động phù hợp với pháp luật, tuân theo quy định của
pháp luật.
Hai là, trong các điều kiện khách quan theo các nhà lý luận: giáo dục là những
nhân tố ảnh hưởng tới ý thức con người và nhân tố ảnh hưởng ấy có thể theo chiều
này hay chiều khác, còn nhân tố chủ quan là nhân tố tác động có chủ đích, có định
hướng, có nội dung và phạm vi nhất định. Đúng như C.Mác đã viết: “Con người
vẫn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục, do đó, con người ta biến đổi là sản
phẩm của hoàn cảnh và của một nền giáo dục đã thay đổi” [6, tr. 20]. Nếu nhân tố
khách quan ảnh hưởng cùng chiều với nhân tố tác động thì hiệu quả giáo dục sẽ
tăng. Ngược lại nếu nhân tố ảnh hưởng khác chiều với nhân tố tác động thì hiệu quả
sẽ bị giảm sút. Bởi lẽ, ngoài tác động của các điều kiện khách quan cụ thể thì sự tác
động của nhân tố chủ quan bao giờ cũng là sự tác động mang tính tự giác và tính tổ
chức cao. Do đó, đòi hỏi phải có sự tác động điều chỉnh tích cực, có định hướng của
nhân tố chủ quan lên các ảnh hưởng bất lợi của các nhân tố khách quan như việc
xác định nội dung, chương trình pháp luật, cần được đề ra kế hoạch giáo dục cho
từng đối tượng cụ thể.
Ba là, xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học sư phạm
xây dựng khái niệm CSGDPL. Từ đó, cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái
riêng, cái đặc thù của CSGDPL với cái chung. CSGDPL vừa mang những đặc điểm
chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung,
vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các
loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức… Tính đặc thù
12

của CSGDPL thể hiện ở mục đích, nội dung và hình thức, phương pháp. Nét đặc thù
của CSGDPL khác tương đối với các dạng giáo dục khác ở chỗ:
- CSGDPL có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri
thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật;
- CSGDPL có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ
bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một Nhà nước nói riêng về
hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của
Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng;
- Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp
giáo dục cũng có thể khái quát các nét đặc thù của CSGDPL. Chẳng hạn, CSGDPL
so với các dạng giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu
dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì
vậy, CSGDPL trở thành sợi dây gắn kết xuyên suốt qua các tế bào của xã hội, từ gia
đình, nhà trường, xã hội, các tập thể, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
chính trị - xã hội. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo
trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo
dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định
hướng các thông tin pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân
của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Người thực
hiện CSGDPL cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn
thế nữa phải là tấm gương, hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật.
Với khái niệm CSGDPL nêu trên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc
trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công
dân là trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội và toàn hệ thống chính trị xã hội.
CSGDPL là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong
việc tăng cường pháp chế XHCN, là cách thức cơ bản nhất đưa tri thức pháp luật
đến với người dân, giúp mọi công dân hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ, thực
hiện pháp luật, sử dụng và áp dụng pháp luật, thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ với
pháp luật trong đời sống, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
13
Thực tiễn cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác thực hiện
CSGDPL là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của
đội ngũ CB, CC, VC và nhân dân còn thấp. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết
phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa mang tầm chiến lược của chính sách GD nói
chung và CSGDPL nói riêng. Đây là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát
triển con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Với phân tích như vậy, khái niệm CSGDPL cho mọi thành phần, mọi đối
tượng con người, mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, có thể hiểu: là tổng hợp các
hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau do chủ thể GDPL tiến hành nhằm tác
động đến mọi tầng lớp nhân dân nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm
và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. GDPL vì vậy
là một dạng hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính định hướng tác động lên các
đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm đối với
pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.
1.2.1. Mục đích, nội dung và vai trò của chính sách giáo dục pháp luật
* Mục đích của CSGDPL cho mọi tổ chức, công dân thể hiện ở những điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, trang bị tri thức pháp luật nhằm hình thành, làm sâu sắc và từng
bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của mọi tổ chức, công dân.
Thông qua CSGDPL, người làm công tác giáo dục được trang bị những tri
thức cơ bản về pháp luật, giá trị của pháp luật, vai trò, phạm vi điều chỉnh của pháp
luật và các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
Việc làm hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình
cảm pháp luật. Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị đã hình thành mở rộng
và làm sâu sắc tri thức pháp luật, cho người dân am hiểu hơn về pháp luật và biết
cách nhận định, phân biệt, đánh giá đúng đắn các hành vi pháp lý, điều chỉnh hành
vi trong xử sự. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin đúng đắn vào
các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành nhân cách, có hành vi xử sự hợp pháp

ở mỗi cá nhân. Tri thức pháp luật giúp con người điều khiển, kiềm chế hành vi của
mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được. Các
hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình thành trên cơ sở nhận thức đúng, có
niềm tin và có tình cảm đúng đắn đối với pháp luật.
14
Thứ hai, hình thành, bồi dưỡng tình cảm và phát triển lòng tin đối với pháp
luật cho mọi công dân, mọi người dân.
Niềm tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi.
Lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở, nền tảng để hình thành động cơ của hành vi
hợp pháp. Trong cuộc sống, cũng có những trường hợp có người có kiến thức, tri thức
pháp luật nhưng không có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, lợi
dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi. Khi con người tin vào tính công bằng của những
đòi hỏi của quy phạm luật thì không cần một sự tác động bổ sung nào của Nhà nước để
thực hiện những đòi hỏi đó, khi ấy họ tự có hành vi, lối ứng xử, thói quen xử sự hợp
pháp, hợp lý. Có lòng tin vào tính công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi
phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. Niềm tin pháp luật
được xây dựng trên các cơ sở sau:
- Giáo dục tình cảm công bằng. Nói đến pháp luật là nói đến sự công bằng.
Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết cách đánh giá các quy
phạm pháp luật, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về tính công bằng của
pháp luật, tính công bằng giữa con người với pháp luật để từ đó tự đánh giá hành vi
bản thân và biết điều chỉnh trong quan hệ với người khác, quyền và nghĩa vụ chính
mình bằng các quy phạm pháp luật;
- Giáo dục tình cảm trách nhiệm. Đó là giáo dục ý thức về nghĩa vụ pháp lý.
Giáo dục tình cảm trách nhiệm nhằm hình thành ý thức tuân thủ pháp luật một
nguyên tắc xử sự của công dân trong các mối quan hệ với nhau, với cộng đồng xã
hội và với các cơ quan Nhà nước. Giáo dục tình cảm trách nhiệm làm cho người
được giáo dục nhận thức được rằng mọi việc làm, mọi hành vi của mình phải dựa
trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật cho phép;
- Giáo dục ý thức đấu tranh không khoan nhượng đối với những biểu hiện vi

phạm pháp luật, chống đối pháp luật, đấu tranh bởi những hành vi vi phạm pháp
luật và các loại hình tội phạm;
- Giáo dục công dân nhận thức được nghĩa vụ và trách nhiệm công dân trong
việc tuân thủ pháp luật.
Thứ ba, giáo dục ý thức nhân cách, hình thành động cơ, hành vi tuân thủ pháp
luật và rèn luyện thói quen xử sự hợp pháp, tích cực.
Mục đích của CSGDPL nêu trên có mối liên hệ qua lại thống nhất với nhau từ
nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và từ tích cực đến thói quen xử sự hợp
15
pháp. CSGDPL là nhằm hình thành ý thức pháp luật trong mỗi công dân. Kết quả của
GDPL phải được thể hiện ở hành vi cư xử phù hợp pháp luật của các công dân. Giáo
dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin pháp luật là tiền đề giáo dục ý thức nhân
cách rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật hình thành động cơ và hành vi
tích cực pháp luật. Những hành vi hợp pháp của mỗi người thường biểu hiện qua các
việc làm như:
- Tuân thủ các quy phạm pháp luật: Kiềm chế không thực hiện những điều
pháp luật cấm;
- Thực hiện đúng và đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân;
- Biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, biết vận dụng pháp luật để
bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
Thứ tư, CSGDPL là nhằm hình thành ở mỗi thành viên trong xã hội ý thức
pháp luật bền vững.
Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan niệm pháp luật và tình cảm
pháp luật, cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. “Ý
thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những học thuyết, quan
điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công
bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính hợp
pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các chủ thể khác” [8, tr.292].
* Nội dung của CSGDPL cho mọi tầng lớp nhân dân.

Việc CSGDPL cho mọi tổ chức, công dân được thể hiện thông qua các nội
dung cơ bản dưới đây:
Một là, tổ chức thực hiện CSGDPL một cách có tính hệ thống. Các chương
trình, nội dung tập trung giới thiệu, hướng dẫn và giải thích rõ các quan điểm, chủ
trương về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và các văn bản quy phạm pháp
luật mới, văn bản pháp luật hiện hành, các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp
đến đời sống cán bộ, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, pháp luật về các
lĩnh vực chuyên ngành, về lao động, việc làm, hội nhập kinh tế quốc tế, về thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông, vệ
sinh an toàn thực phẩm; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở Phát huy vai trò của các
luật gia, cán bộ công đoàn, cán bộ Đoàn TNCSHCM, đội thanh niên tình nguyện để
16
thực hiện GDPL thông qua phong trào các đoàn hội, liên đoàn, tổ chức tình nguyện,
các phương tiện thông tin đại chúng, khai thác tài liệu pháp luật. Câu lạc bộ pháp
luật, xét xử lưu động phù hợp với từng nhóm đối tượng người dân, đoàn viên, thanh
thiếu niên và từng địa bàn cư trú, tính chất công việc, học tập, lao động, ngành
nghề, đặc điểm lứa tuổi, tâm lý và nhu cầu của đối tượng, phối hợp với các cơ quan
nhà nước và các tổ chức liên quan trong thực hiện CSGDPL cho nhân dân;
Hai là, cơ quan, tổ chức có chức năng liên quan các cấp cấp chịu trách nhiệm
giáo dục mọi công dân trong xã hội tuân thủ và chấp hành pháp luật.
Đã là pháp luật, pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế,
xã hội, CB, CC, VC, mọi công dân phải triệt để tuân thủ và chấp hành thường
xuyên, nghiêm túc. Việc xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật là quan trọng nhưng
quan trọng và khó khăn hơn chính là việc tổ chức thực hiện, đưa pháp luật vào cuộc
sống, biến pháp luật thành hoạt động thực tiễn của nhân dân. Vì vậy, sau khi Nhà
nước ban hành pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, đơn vị có chức năng liên quan
phải tổ chức thực hiện pháp luật, làm tốt vai trò này cũng chính là quá trình củng
cố, tăng cường pháp chế XHCN. Pháp luật phải được tuân theo và chấp hành
thường xuyên, nghiêm chỉnh trong cuộc sống, do đó, biện pháp có ý nghĩa quyết
định là phải tổ chức thực hiện, nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý, năng lực

pháp luật cho cán bộ công chức Nhà nước và nhân dân. Không có ý thức pháp luật
và am hiểu pháp luật thì không thể tự giác tuân theo, chấp hành nghiêm chỉnh và
cũng không thể áp dụng đúng pháp luật trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
GDPL cho mọi công dân chấp hành và tuân thủ pháp luật còn là trách nhiệm của cơ
quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến địa phương
và cơ sở. Do đó, phải “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp
luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các
phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ
cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp
luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội” [11, tr.241].
* Vai trò của CSGDPL cho mọi tầng lớp nhân dân
Thứ nhất, CSGDPL góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Vai trò này bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật.
Một trong những vai trò cơ bản của pháp luật trong Nhà nước, đời sống xã hội chính
17
là: cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực Nhà nước. Nhà nước không
thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu
không có sức mạnh của bộ máy tổ chức nhà nước. Thông qua quyền lực Nhà nước,
pháp luật mới phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, phát huy vai trò quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Hệ thống pháp luật là "con đường", là cái "khung pháp lý" do
Nhà nước vạch ra để mọi tổ chức, mọi công dân dựa vào đó mà tổ chức, hoạt động và
phát triển. CSGDPL bồi đắp cho mọi người có tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm
pháp luật đúng đắn và có hành vi hợp pháp, biết sử dụng pháp luật làm phương tiện
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
quản lý nhà nước, quản lý xã hội;
Thứ hai, CSGDPL góp phần nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của
mọi thành viên trong xã hội. Giai đoạn hiện nay, củng cố, tăng cường pháp chế
XHCN ở nước ta đang là một vấn đề cấp thiết. Mọi phương pháp, nghiên cứu, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống người dân được đề ra mỗi giai
đoạn phát triển của đất nước đều mong muốn đáp ứng đòi hỏi nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Và "điều kiện
quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng
cường pháp chế XHCN, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức
pháp luật của nhân dân" [10, tr. 296].
1.2.2. Vấn đề, mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách giáo dục pháp luật
CSGDPL là việc sử dụng những hình thức khác nhau để tác động có hệ thống
và thường xuyên lên ý thức của con người nhằm trang bị cho họ những kiến thức
nhất định, để từ đó họ có những nhận thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và xử
sự theo yêu cầu của pháp luật. Nhận thức pháp luật bao hàm nhiều vấn đề hợp
thành, đó là kiến thức cơ bản về pháp luật hiện hành, những yêu cầu nghiêm ngặt
của pháp luật đối với mọi công dân trong xã hội, về giải quyết các vấn đề xã hội nảy
sinh, về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ, về hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội.
Những vấn đề này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo nên mội dung cơ bản của
hoạt động CSGDPL.
Vấn đề đặt ra trong CSGDPL là hình thành và bồi dưỡng kiến thức pháp luật
cho mọi người dân, đảm bảo công dân đạt được trình độ hiểu biết nhất định về pháp
18
luật, từ đó, tự điều chỉnh hành vi xử sự của mình trong mọi quan hệ xã hội. Sự
trưởng thành của mỗi cá nhân là quá trình tiếp nhận và xử lý các mối quan hệ của
xã hội, sử dụng pháp luật điều chỉnh hành vi bởi bản chất của pháp luật gắn liền với
Nhà nước và quyền lực Nhà nước.
Mục tiêu cơ bản của CSGDPL là nhằm hình thành ý thức pháp luật, là một
trong những hình thức ý thức xã hội được hình thành và phát triển trong mối quan
hệ, phối hợp với kết quả thực hiện CSGDPL. Nếu ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội nói chung thì ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, tình cảm
của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng,
đúng đắn hay không đúng đắn của CSPL hiện hành, pháp luật trong quá khứ và
pháp luật hiện tại cần phải có tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự
của con người trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức.

Trong GDPL, đối tượng thực hiện CSGDPL là các cá nhân hay nhóm, cộng
đồng công dân tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp tác động của CSGDPL do các chủ
thể giáo dục tiến hành nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Mỗi nhóm đối tượng
được chủ thể tác động bằng công cụ, hình thức, phương pháp khác nhau để đạt được
hiệu quả, điều này phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính,
nhu cầu và khả năng nhận thức của từng loại đối tượng như: học sinh, sinh viên,
thanh niên, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, các tầng lớp người lao động, nạn
nhân bạo lực gia đình, khuyết tật, người đang chấp hành án phạt tù, những người vi
phạm đang bị áp dụng các biện giáo dưỡng… là những đối tượng nhạy cảm, năng
động và dễ bị tổn thương trong mối quan hệ với pháp luật. Còn nhóm đối tượng
chưa thành niên là đối tượng chưa có điều kiện và khả năng để có những tư tưởng,
quan điểm rõ ràng về vai trò pháp luật và kỹ năng vận dụng pháp luật vào cuộc
sống. Hiểu và vận dụng pháp luật vào thực tế là một vấn đề hoàn toàn không đơn
giản, vì thế khi học tập CSGDPL, những đối tượng này cần phải được tiếp cận với
thực tế, được tạo điều kiện để nâng cao kiến thức lý luận và khả năng vận dụng thực
thi pháp luật vào cuộc sống.
Trong CSGDPL cần nhấn mạnh mối quan hệ giữa giáo dục văn hóa và nâng
cao về trình độ pháp pháp luật trong xu hướng hội nhập quốc tế, giúp họ có ý thức
đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình với đất nước trong tình hình hiện nay. Triển
khai các quan điểm về CSGDPL cho người dân phải lựa chọn chương trình, giải
pháp, công cụ thực hiện tương ứng với trình độ văn hóa, vùng miền, phù hợp với
19
nhận thức, tâm lý của từng lứa tuổi, tộc người, đặc điểm mỗi địa phương. Việc tăng
cường, làm phong phú, linh hoạt các hình thức, biện pháp GDPL cho người dân
phải được coi là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu của các cơ quan chức
năng khi thực thi pháp luật, đòi hỏi sự tham gia cuộc một cách tích cực nghiêm túc
của các cấp các ngành trong hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước và mọi tổ chức,
người dân.
1.2.3. Phương pháp chính sách giáo dục pháp luật
Phương pháp được hiểu là "cách thức nhận thức, nghiên cứu hiện tượng của

tự nhiên và đời sống xã hội". Phương pháp CSGDPL được quan niệm là cách thức,
biện pháp được chủ thể sử dụng để truyền đạt nội dung pháp luật tác động đến đối
tượng nhằm mục đích nâng cao nhận thức, tình cảm và lòng tin cũng như thói quen
xử sự theo pháp luật. Đó là các biện pháp, cách thức đặt vấn đề, tiếp cận vấn đề,
giải thích làm rõ các nguyên tắc, nội dung pháp luật, lý giải các hiện tượng pháp lý
một cách dễ hiểu có sức thuyết phục. Phương pháp phổ biến thường được dùng
GDPL hiện nay là: phương pháp thuyết phục, trực quan, kiểm tra đánh giá, tạo tình
huống cụ thể, phương pháp nêu gương, bắt buộc xử phạt, đối thoại, tranh luận…
Tùy thuộc khả năng tiếp nhận của đối tượng mà chủ thể GDPL lựa chọn phương
pháp phù hợp để thực hiện GDPL đạt hiệu quả có chất lượng.
Các phương pháp thực hiện CSGDPL quan hệ mật thiết và tác động, hỗ trợ
cho nhau, do đó không xem nhẹ hay coi trọng phương pháp nào và cũng không thể
áp dụng một phương pháp giáo dục chung cho nhiều đối tượng khác nhau về trình
độ, tuổi tác, nghề nghiệp, tâm lý… mà phải căn cứ vào đối tượng, vùng miền cụ thể.
Để pháp luật đến với từng đối tượng một cách dễ hiểu, dễ tiếp nhận thì cần có
phương pháp thực hiện CSGDPL đúng đắn; phải hiểu rõ đối tượng cần CSGDPL là
ai, trình độ nhận thức đến đâu, điều kiện, hoàn cảnh sống, mức độ quan tâm đến
pháp luật, yêu cầu áp dụng pháp luật trong cuộc sống. Ở nước ta, các phương pháp
thực hiện CSGDPL sau đây đã mang lại hiệu quả thiết thực:
- Phương pháp giảng dạy: Để thực hiện tốt phương pháp này cần phải kết hợp
phương pháp giáo dục truyền thống và hiện đại, cụ thể:
+ Phương pháp thuyết trình (phương pháp độc thoại): Đây là phương pháp đặc
thù trong quá tình thực hiện CSGDPL mà chủ thể của CSGDPL thuyết trình toàn bộ
nội dung bài giảng cho đối tượng được tiếp thu CSGDPL nghe;
20
+ Phương pháp đàm thoại: Đó là việc đạt các câu hỏi trong quá trình trình bày
nội dung của CSGDPL. Phương pháp này giúp đối tượng được tiếp thụ CSGDPL
suy nghĩ, nhớ bài và dễ vận dụng;
+ Phương pháp nêu vấn đề: Là phương pháp mà chủ thể CSGDPL đưa ra các
tình huống gần sát với nội dung được CSGDPL, giúp đối tượng sáng tạo, tự giải

quyết tình huống, nắm bắt các vấn đề đặt ra, qua đó nắm thêm những tri thức mới
và cách thức áp dụng phù hợp.
Trong giảng dạy, ngoài những phương pháp này chủ thể GDPL còn sử dụng
các phương pháp: phân tích, làm việc theo nhóm, mô hình hóa, so sánh… để đạt
được mục đích trong thực hiện CSGDPL.
- Phương pháp tuyên truyền PBGDPL qua báo chí, Internet, đài phát thanh,
đài truyền hình, sách pháp luật, tủ sách pháp luật điện tử, công báo….
- Phương pháp bồi dưỡng kiến thức pháp luật qua báo cáo viên, tuyên truyền
viên, hòa giải viên: trên cơ sở nội dung CSGDPL đã được xây dựng, các chủ thể
CSGDPL có thể xác định thời gian, địa điểm, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện
cần thiết để triển khai thực hiện CSGDPL một cách khoa học, có hiệu quả.
- Phương pháp truyền đạt thông tin thực hiện pháp luật thông qua xây dựng
pháp luật, hoạt động quản lý, hành chính và hoạt động xét xử lưu động, công khai.
- Phương pháp nghiên cứu, điều tra, khảo sát: để đạt được mục tiêu CSGDPL
có các đối tượng, người dân, các chủ thể CSGDPL phải bố trí thời gian hợp lý để
nghiên cứu, điều tra và khảo sát kỹ những vấn đề có liên quan đến đối tượng được
truyền đạt chính sách như thông tin về độ tuổi, giới tính, trình độ, vị trí công tác…
để xây dựng chương trình, nội dung CSGDPL phù hợp. Phương pháp này giúp chủ
thể xác định đúng nội dung và nhu cầu của đối tượng được tuyên truyền CSGDPL.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện: Trong thực hiện
CSGDPL, cần thiết phải sử dụng phương pháp kiểm tra từ khâu chuẩn bị, xây dựng
kế hoạch và tổ chức thực hiện đã phù hợp với quy định hay chưa, đánh giá kết quả
thực hiện, tìm ra nguyên nhân của những ưu điểm và tồn tại cần khắc phục trong
quá trình thực hiện CSGDPL cho các đối tượng, thành phần, người dân.
Tóm lại, phương pháp triển khai thực hiện CSGDPL là yếu tố quan trọng bảo
đảm chất lượng giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra cho chủ thể CSGDPL phải lựa chọn
được phương pháp phù hợp với khả năng tiếp nhận kiến thức của từng đối tượng và
21

×