HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
HÀ THỊ TÂM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Y TẾ CƠ SỞ
HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2015
i
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Y TẾ CƠ SỞ
HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020.
Người thực hiện: Hà Thị Tâm
Lớp: Cao cấp lý luận Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
(2013 - 2015)
Chức vụ: Phó Giám đốc
Đơn vị công tác: Trung tâm Y tế Lập Thạch, Vĩnh
Phúc
Người hướng dẫn khoa học: Ths. Nguyễn Thị Thanh
Bình
HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2015
ii
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BS Bác sỹ
BS.CKI Bác sỹ chuyên khoa cấp I
BS.CKII Bác sỹ chuyên khoa cấp II
CBYT Cán bộ y tế
DS/DS.CKI Dược sỹ/Dược sỹ chuyên khoa cấp I
DSĐH/DSTH Dược sỹ đại học/Dược sỹ trung học
ĐDĐH/ĐDTH Điều dưỡng đại học/Điều dưỡng trung học
DS-KHHGĐ Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
KTVTH Kỹ thuật viên trung học
NHSĐH/NHSTH Nữ hộ sinh đại học/Nữ hộ sinh trung học
PYT Phòng Y tế
QLBV Quản lý bệnh viện
QLNN Quản lý nhà nước
TTYT Trung tâm Y tế
iii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả Đề án xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả
của các thầy, cô giáo Học viện Chính trị khu vực I, đặc biệt cảm ơn Thạc sĩ
Nguyễn Thị Thanh Bình, Phó trưởng khoa Xây dựng Đảng, người đã trực
tiếp hướng dẫn tác giả hoàn thành đề án này.
Xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy Trung tâm Y tế Lập Thạch, Vĩnh
Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả hoàn thành đề án. Tác giả rất mong
được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy cô giáo, các nhà khoa học để hoàn
thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu tiếp theo.
Tác giả đề án
Hà Thị Tâm
iv
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết xây dựng đề án 1
2. Mục tiêu của đề án 3
3. Giới hạn của đề an 4
B. NỘI DUNG 5
1. Cơ sở, căn cứ xây dựng đề án 5
1.1. Cơ sở lý luận 5
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý 9
1.3. Cơ sở thực tiễn 16
2. Nội dung thực hiện đề án 17
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án 17
2.2. Thực trạng chất lượng cán bộ y tế cơ sở huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010-2015
20
2.3. Nội dung cụ thể cần thực hiện của đề án 27
2.4. Các giải pháp thực hiện đề án 28
3. Tổ chức thực hiện đề án 34
3.1. Trách nhiệm thực hiện đề án 34
3.2. Tiến độ thực hiện đề án 34
3.3. Kinh phí thực hiện đề án 36
4. Dự kiến hiệu quả của đề án 37
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề án 37
4.2. Đối tượng hưởng lợi của đề án 38
4.3. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án 39
C. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
v
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết xây dựng đề án
Trong nhiều thập kỷ qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế,
đặc biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch
bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; các dịch vụ y tế ngày một đa
dạng; nhiều công nghệ mới được nghiên cứu và ứng dụng; việc cung ứng
thuốc và trang thiết bị y tế đã có nhiều cố gắng hơn trước,… Nhân dân ở
hầu hết các vùng, miền đã được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, phần lớn các
chỉ tiêu tổng quan về sức khỏe của nước ta đều vượt các nước có cùng mức
thu nhập bình quân đầu người. Tuy nhiên công tác bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe nhân dân ở nước ta còn nhiều bất cập và yếu kém. Hệ thống y tế chậm
đổi mới, chưa thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và sự thay đổi của cơ cấu bệnh tật; chất lượng dịch
vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện
chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số
còn nhiều khó khăn;… tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều
bất cập. Những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ y
tế chậm được khắc phục. Một trong những nguyên nhân chính của những
yếu kém trên là do đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, cơ cấu chưa hợp
lý, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng .
Trước những đánh giá đó, Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã đề ra 5 quan điểm chỉ
đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình
hình mới. Nghị quyết yêu cầu: đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo
hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho
mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe với chất lượng
ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
(Quan điểm 2).
1
Cán bộ là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu. Nếu không có cán bộ tốt
thì đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng không thể trở thành hiện thực.
Chính vì thế đội ngũ cán bộ từ trung ương đến địa phương, đến cơ sở luôn
là đối tượng rất cần phải quan tâm, chú ý đào tạo bồi dưỡng của Đảng.
Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng nước ta, Đảng luôn có những
chính sách cụ thể để củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ. Ngày nay, trước
những nhu cầu của nhiệm vụ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lại càng trở nên cấp bách.
Đội ngũ cán bộ y tế có đặc điểm, vai trò riêng và sứ mệnh đặc biệt
bởi họ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân - vốn quý nhất của mỗi con người
và toàn xã hội, hoạt động của họ liên quan đến tính mạng của con người.
Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nêu: “Nghề y là một nghề
đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt. Mỗi
cán bộ, nhân viên y tế phải không ngừng nâng cao đạo đức nghề nghiệp và
năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội,
thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người thầy thuốc giỏi đồng
thời phải là người mẹ hiền” (Quan điểm 5).
Ở Vĩnh Phúc, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày
25/7/2008 của về phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết đã xác định: “Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, cán bộ quản lý là yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” và đề ra mục tiêu: Chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức đủ năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn và ý thức trách
nhiệm, tinh thần phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức.
Lập Thạch là một huyện miền núi, dân số đông, trình độ dân trí còn
hạn chế, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, mô hình bệnh tật đa
2
dạng. Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân
dân, trước tiên phải có một đội ngũ cán bộ y tế (CBYT) “vừa hồng vừa
chuyên”, có chuyên môn giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, có bản lĩnh chính
trị. Trong khi đó đội ngũ CBYT huyện Lập Thạch còn thiếu nhiều, nhất là
đội ngũ bác sỹ, trình độ chuyên môn đã có nhiều cố gắng song vẫn còn
nhiều hạn chế. Thực trạng và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung
và cán bộ ngành y tế nói riêng đã được phản ánh trong các văn bản, nghị
quyết của Huyện ủy, UBND huyện, trong các báo cáo của ngành y tế với
những nhận định, giải pháp ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, đối với
huyện Lập Thạch chưa có đề án nào đề cập một cách toàn diện, có hệ thống
về vấn đề CBYT cơ sở.
Để đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở huyện Lập
Thạch trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp cần phải thực
hiện trong giai đoạn tới đáp ứng với nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân huyện nhà, góp phần xây dựng nền kinh tế - xã hội
huyện ngày càng vững mạnh, cần thiết phải xây dựng Đề án: “Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2016-2020”.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao chất lượng đội ngũ CBYT cơ sở huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020 nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực
y tế trong tình hình mới theo hướng chuẩn hoá đội ngũ CBYT đủ về số
lượng và cơ cấu; đảm bảo chất lượng, có phẩm chất chính trị tốt, có đạo
đức nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ người bệnh, phục
vụ nhân dân; có trình độ quản lý, có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng đáp
ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó đáp ứng nhu
cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân huyện nhà trong tình
3
hình mới theo hướng công bằng và hiệu quả, góp phần xây dựng nền kinh
tế - xã hội của huyện ngày càng vững mạnh và phát triển bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, cơ sở chính trị/pháp lý và cơ sở thực
tiễn của việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBYT cơ sở huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020.
- Làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ CBYT cơ sở huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010-2015.
- Đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBYT cơ
sở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020.
- Xác định trách nhiệm của các chủ thể trong Đề án, lộ trình thực
hiện Đề án, dự toán kinh phí thực hiện Đề án. Có những kiến nghị cụ thể
đối với cấc chủ thể đế đảm bảo tính khả thi của Đề án.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng nghiên cứu: chất lượng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở
- Thời gian nghiên cứu: trong giai đoạn 5 năm: 2016 - 2020
- Không gian nghiên cứu: huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
4
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở, căn cứ xây dựng đề án
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm chung
* Cán bộ: Là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước .
* Công chức: Là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Công an nhân dân và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
* Hệ thống y tế cơ sở:
Trên phạm vi toàn cầu, theo WHO (1991), Y tế tuyến cơ sở (gọi tắt
là y tế cơ sở) là một hệ thống tập hợp các hoạt động có mối liên hệ mật
thiết với nhau do ngành Y tế cùng các ban ngành chức năng thực hiện góp
phần vào việc chăm sóc sức khỏe tại gia đình, trường học, nơi làm việc và
tại cộng đồng.Y tế cơ sở gắn liền với việc đảm nhận trọng trách cung cấp
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu nhằm đạt được mục tiêu “Sức khỏe
cho mọi người” theo tinh thần của tuyên ngôn Alma Ata đã được nhiều
quốc gia trong đó có Việt Nam cam kết thực hiện từ năm 1978.
5
Y tế cơ sở bao gồm các thành tố như: cơ sở vật chất, trang thiết bị và
nhân lực y tế. Tùy theo bối cảnh kinh tế, chính trị của từng quốc gia mà y tế
cơ sở có thể thuộc Chính phủ hoặc phi Chính phủ. Y tế cơ sở chỉ có thể
phát huy được hiệu quả trong cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban
đầu khi nguồn nhân lực Y tế được đào tạo thích đáng để có thể triển khai
các hoạt động chăm sóc sức khỏe một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực từ
nâng cao sức khỏe, dự phòng đến điều trị và phục hồi chức năng.
Ở nước ta, hệ thống y tế được chia làm 3 tuyến: trung ương,
tỉnh/thành phố và cơ sở. Y tế cơ sở được xác định bao gồm: y tế tuyến
huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) và y tế xã (phường, thị
trấn)
1
.
* Cán bộ y tế cơ sở: Là cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động làm việc trong ngành y tế ở tuyến huyện và tuyến xã.
* Chất lượng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở: Là khái niệm chung bao
hàm nhiều yếu tố cấu thành như: tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn, trình độ chính trị, trình độ quản lý; năng lực, kỹ năng
chuyên môn, nghiệp vụ; đạo đức nghề nghiệp… của đội ngũ cán bộ y tế cơ
sở.
1.1.2. Vai trò của hệ thống y tế cơ sở đối với công tác chăm sóc sức
khỏe nhân
Y tế tuyến huyện là nơi cứu chữa cơ bản đầu tiên phục vụ nhân dân,
đồng thời là tuyến hỗ trợ trực tiếp cho y tế tuyến xã. Củng cố y tế tuyến
huyện không những nâng cao chất lượng cứu chữa cơ bản tại chỗ mà còn
hỗ trợ cho công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu của tuyến xã, đồng thời có
tác dụng giảm bớt gánh nặng cho y tế tuyến tỉnh và tuyến Trung ương để
các tuyến này tập trung vào nghiên cứu khoa học và cứu chữa có chất
lượng.
1
Đàm Viết Cương (2005), Tiến tới thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân: vấn đề và
giải pháp, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6
Y tế tuyến xã là đơn vị kỹ thuật đầu tiên tiếp xúc với nhân dân nằm
trong hệ thống y tế Nhà nước, có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân trên địa bàn. Củng cố y tế tuyến
xã vừa có ý nghĩa đưa các dịch vụ y tế có chất lượng đến với người dân vừa
có tác dụng hỗ trợ người nghèo tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế, mặt
khác còn làm tốt công tác quản lý và chỉ đạo hoạt động của y tế thôn bản.
Y tế thôn bản là chân rết của y tế tuyến xã, ở ngay trong dân, có
nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, phát hiện sớm bệnh dịch, sơ cứu
và xử trí cấp cứu ban đầu, chăm sóc người mắc bệnh nhẹ và mãn tính… Vì
vậy, y tế thôn bản có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết trong việc chăm
sóc sức khỏe tại cộng đồng, nhất là khu vực nông thôn, miền núi. Củng cố
và nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới này để y tế thôn, bản thực
sự là cánh tay vươn dài của y tế cơ sở.
Do vậy, y tế cơ sở có vị trí chiến lược quan trọng, bởi vì y tế cơ sở là
đơn vị y tế gần dân nhất, phát hiện ra những vấn đề của chăm sóc sức khỏe
sớm nhất, giải quyết 80% khối lượng phục vụ y tế tại chỗ, là nơi thể hiện sự
công bằng trong CSSK rõ nhất, nơi trực tiếp thực hiện và kiểm nghiệm các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế, là bộ phận quan
trọng nhất của ngành y tế tham gia ổn định chính trị - xã hội.
Nước ta là một nước nông nghiệp, hơn 80% dân số là nông dân và
sống chủ yếu ở nông thôn. Vì vậy, đặc trưng của y tế cơ sở ở nước ta là y tế
huyện, xã, thông, bản và đối tượng phục vụ chủ yếu là nông dân, sống ở
nông thôn và gắn với nông nghiệp. Nước ta có tỷ lệ người nghèo vẫn còn
cao, người nghèo sống rải rác ở khắp nơi nhưng tập trung chủ yếu ở nông
thôn, miền núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và vùng căn cứ cách mạng. Hiện nay người không nghèo thường có xu
hướng đến khám bệnh và chữa bệnh ở tuyến tỉnh, tuyến Trung ương nhiều
hơn, còn người nghèo có xu hướng đến khám chữa bệnh ở trạm y tế xã và
đặc biệt là y tế thôn, bản nhiều hơn, hãn hữu mới lên đến tuyến huyện. Do
7
đó đầu tư cho y tế cơ sở, trong đó có y tế thôn, bản chính là đầu tư cho
vùng nghèo, người nghèo, góp phần giải bài toán chữa bệnh cho người
nghèo và thực hiện công bằng trong CSSK
2
.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở
* Đối với cán bộ y tế cơ sở không phải là quản lý, lãnh đạo: tiêu chí
đánh giá chất lượng đội ngũ dựa trên các yếu tố sau:
- Cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc;
- Trình độ học vấn;
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học;
- Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và năng lực:
+ Quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị;
+ Chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; quy chế hoạt động và các quy định của cơ quan;
+ Thực hiện “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”, không tham
nhũng và kiến quyết chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực;
+ Tinh thần thái độ phục vụ, thái độ ứng xử;
+ Tinh thần tự phê bình và phê bình; Tích cực học tập, nghiên cứu
nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ;
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ:
+ Về thời gian làm việc và ngày công lao động;
+ Chất lượng, hiệu quả công việc được giao;
+ Trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao;
+ Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, chuyên nghiệp trong thực hiện
nhiệm vụ được giao;
+ Sự phối hợp trong khi thực hiện nhiệm vụ; tinh thần cầu thị, tiếp
thu ý kiến góp ý.
* Đối với cán bộ y tế cơ sở là quản lý, lãnh đạo: tiêu chí đánh giá
chất lượng ngoài các tiêu chuẩn nêu trên của cán bộ y tế cơ sở không phải
2
Phương, Đ.N. (2001), 55 năm phát triển sự nghiệp y tế cách mạng Việt Nam (1945-2000), Nhà xuất bản
Y học, Hà Nội.
8
là quản lý, lãnh đạo, cần nhấn mạnh yếu tố về chất lượng chỉ đạo đơn vị
thực hiện hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
của đơn vị.
Cụ thể là:
- Chất lượng, hiệu quả công việc được giao phụ trách;
- Chất lượng, hiệu quả tổ chức thực hiện các quy chế, nội quy cơ
quan; các quy định của pháp luật;
- Chất lượng thực hiện các biện pháp phòng chống quan liêu, tham
nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực;
+ Chất lượng việc giải quyết kiếu nại, tố cáo theo đúng thẩm quyền
và các qyu định của pháp luật; kịp thời xử lý nghiêm CBCCVC có hành vi
vi phạm;
+ Chất lượng việc kiểm tra, theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn việc thi
hành nhiệm vụ của CBCCVC thuộc thẩm quyền quản lý.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Quan điểm và các nghị quyết của Đảng ta về công tác cán bộ
và cán bộ y tế
* Về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng
Lý luận cũng như thực tiễn cho thấy cán bộ luôn giữ vị trí then chốt
trong mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và là nhân tố quyết định sự thành
bại của sự nghiệp cách mạng. Các Mác và Ăngghen là những người đặt nền
móng cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản và chính đảng của mình đã
nêu: muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn.
V.I. Lênin - người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã
đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ cán bộ. Lênin đã gắn chặt đội
ngũ cán bộ và công tác cán bộ với vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời chỉ
rõ những yêu cầu đối với người cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới -
9
cách mạng XHCN, đó là người cán bộ có bản lĩnh chính trị, có năng lực
điều hành và năng lực tổ chức thực hiện. Theo Lênin, cán bộ không đủ
năng lực, thiếu phẩm chất và bản lĩnh thì sẽ không hoàn thành nhiệm vụ
được giao, mọi công việc bị ách tắc. Muốn có một đội ngũ cán bộ vững
vàng về mọi mặt, trước hết phải đi sâu nghiên cứu, nắm chắc tình hình đội
ngũ, trên cơ sở đó mà có kế hoạch xây dựng, bố trí, sử dụng cũng như việc
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Những quan điểm trên của Lênin chính là tiêu
chí của nội dung và nguyên tắc chỉ đạo công tác cán bộ nói chung, nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt với Đảng cầm quyền.
Chủ tịch Hồ Chính Minh là người kế thừa, phát triển làm phong phú
thêm nhiều quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ của chủ nghĩa Mác -
Lênin, đồng thời kết hợp, phát huy những truyền thống và phương pháp
dùng người của ông cha ta. Tư tưởng của Người về cán bộ và công tác cán
bộ là những di sản tinh thần vô giá đối với Đảng ta. Người chỉ rõ: một khi
đã có đường lối cách mạng đúng, thì cán bộ là khâu quyết định, cán bộ
được Người ví là cái gốc của mọi công việc. Do vậy, người cán bộ, đảng
viên không ngừng học tập để trau dồi lý tưởng cách mạng, chuyên môn
nghiệp vụ, tăng cường học tập để tiếp thu những tri thức mới, có phong
cách làm việc khoa học,…để luôn xứng đáng vai trò tiên phong, gương
mẫu.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của Đảng, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ cách mạng, phải thiết thực,
gắn liền lý luận thực tế, học đi đôi với hành,… phải nâng cao năng lực
công tác để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo Người, Đảng phải
nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu.
Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc
chung của chúng ta.
10
Chủ tịch Hồ Chính Minh đã nghiên cứu và giải quyết vấn đề cán bộ
một cách căn bản và toàn diện. Từ việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến
việc lựa chọn, sử dụng cán bộ; Từ việc đặt ra rõ trách nhiệm của Đảng đối
với công tác cán bộ đến việc đòi hỏi trách nhiệm của từng người dù ở
cương vị nào cũng phải phấn đấu rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt
để trở thành người cán bộ tốt của Đảng, của nhân dân. Tất cả những nội
dung ấy đã được Người xác định rõ cả về quan điểm cũng như phương
hướng, phương pháp dùng người, tìm nguồn nhân tài để sử dụng, biết lựa
chọn cán bộ cả trước mắt cũng như lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Các quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chính Minh về cán bộ
và công tác cán bộ là những căn cứ khoa học để chúng ta tiến hành đổi mới
công tác cán bộ giai đoạn hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ khi ra đời, đã luôn chú trọng công tác
cán bộ, coi đó là khâu then chốt, là nguyên nhân thành bại của cách mạng.
Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã xây dựng và rèn luyện
được một đội ngũ cán bộ đông đảo, có phẩm chất cách mạng cao đẹp, bản
lĩnh chính trị vững vàng, có sức chiến đấu và năng lực tốt để lãnh đạo và tổ
chức thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng, đưa cách
mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
* Về cán bộ y tế
Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới đã
nêu 5 quan điểm về công tác y tế và cán bộ y tế như sau:
- Quan điểm thứ nhất: Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người
và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là
hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ.
11
- Quan điểm thứ hai: Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng
công bằng, hiệu quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người
dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng
cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển bảo
hiểm y tế toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức
khoẻ, thực hiện sự chia sẻ giữa người khoẻ với người ốm, người giàu với
người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già; công bằng
trong đãi ngộ đối với cán bộ y tế.
- Quan điểm thứ ba: Thực hiện chăm sóc sức khoẻ toàn diện: gắn
phòng bệnh với chữa bệnh, phục hồi chức năng và tập luyện thể dục thể
thao nâng cao sức khoẻ. Phát triển đồng thời y tế phổ cập và y tế chuyên
sâu; kết hợp đông y và tây y.
- Quan điểm thứ tư: Xã hội hoá các hoạt động chăm sóc sức khoẻ
gắn với tăng cường đầu tư của Nhà nước; thực hiện tốt việc trợ giúp cho
các đối tượng chính sách và người nghèo trong chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ.
- Quan điểm thứ năm: Nghề y là một nghề đặc biệt, cần được tuyển
chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt. Mỗi cán bộ, nhân viên y tế phải
không ngừng nâng cao đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng
đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội, thực hiện lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là người mẹ hiền.
Tại giải pháp 3 của Nghị quyết đã nhấn mạnh chú trọng đến việc
phải củng cố và hoàn thiện mạnh lưới y tế cơ sở cả về cơ sở vật chất, trang
thiết bị và cán bộ, kiện toàn đội ngũ cán bộ cả về số lượng, chất lượng và
cơ cấu… Coi trọng việc đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân viên y tế. Mở
rộng việc đưa cán bộ có trình độ cao đi đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn
kinh phí của Nhà nước, khuyến khích du học tự túc theo các chuyên ngành
đang có nhu cầu.
12
Trong giải pháp 4, có nêu yêu cầu về chăm lo xây dựng đội ngũ
CBYT ở địa phương và cơ sở. Chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động và tinh thần trách
nhiệm của cán bộ, nhân viên y tế, chấn chỉnh và khắc phục những biểu hiện
tiêu cực tại các cơ sở y tế.
1.2.2. Các văn bản của Nhà nước, của Bộ Y tế, của tỉnh Vĩnh
Phúc về công tác y tế và cán bộ y tế
* Các văn bản chung về chính sách đối với công tác y tế và cán bộ y
tế:
- Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về
công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình
mới.
- Kết luận số 43-KL/TƯ ngày 1/4/2009 của Bộ Chính trị về 3 năm
triển khai thực hiện Nghị quyết sơ 46-NQ/TW xác định: Tổ chức sắp xếp
hệ thống y tế công đặc biệt là YTCS, tạo ra mô hình hợp lý và ổn định dựa
theo quản lý theo ngành đối với y tế địa phương, đầu tư cải tạo nâng cấp
các cơ sở y tế đặc biệt là ở các vùng khó khăn…
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vẫn tiếp tục xác định
mục tiêu then chốt để phát triển mạng lưới chăm sóc sức khoẻ và nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế ở Việt Nam đến năm 2020 là hoàn chỉnh mô hình tổ
chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở.
- Quyết định số 243/2005/QĐ-TTg ngày 05/1012006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc bản hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới.
- Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/06/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế
Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
13
- Quyết định số 113/QĐ-TTg ngày 20/01/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Vĩnh Phúc đến năm 2020.
- Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/06/2007
của liên Bộ Y tế - Bộ Nội vụ hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong
các cơ sở y tế nhà nước.
- Thông tư số 23/2005/TT-BYT ngày 25/8/2005 của Bộ Y tế hướng
dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế.
- Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc
về phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- Quyết định số 2266/QĐ-UBND ngày 12/8/2010 của UBND tỉnh
Vĩnh Phúc về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển sự nghiệp Y tế tỉnh Vĩnh
Phúc đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Quyết định số 4110/QĐ-UBND ngày 31/12/2010 của UBND tỉnh
Vĩnh Phúc về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
huyện Lập Thạch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
- Quyết định số 2662QĐ-UBND ngày 01/10/2014 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc tổ chức các đơn vị sự nghiệp y tế trên địa bàn
huyện Lập Thạch thành Trung tâm Y tế huyện Lập Thạch.
- Báo cáo của UBND huyện Lập Thạch về thực hiện chỉ tiêu kế
hoạch giai đoạn 2011-2015, Phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020.
- Báo cáo của Trung tâm Y tế huyện Lập Thạch về thực hiện chỉ tiêu
kế hoạch y tế giai đoạn 2010-2015, phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn
2016-2020, Vĩnh Phúc.
* Các văn bản về chính sách đối với nhân lực y tế trong đó có y tế
cơ sở
Về Chính sách về phụ cấp ưu đãi và thu hút:
14
- Nghị định 56/2011/NĐ-CP và Thông tư 02/TTLT-BYT-BNV-BTC
về phụ cấp ưu đãi nghề đối với cán bộ y tế với các mức khác nhau từ 30% -
70% lương trong đó có ưu tiên ở mức cao đối với cán bộ y tế cơ sở, ở khu
vực nông thôn, cán bộ công tác trong lĩnh vực y tế dự phòng và các chuyên
khoa đặc thù…
- Quyết định 73/2011/QĐ-TTg về Phụ cấp đặc thù, phụ cấp phòng
chống dịch.
Chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho y tế cơ sở:
- Chỉ thị 06/2008/CT-BYT về chấn chỉnh chất lượng đào tạo nhân
lực của các trường đại học, cao đẳng khối Y, Dược.
- Thông tư 07/2008/TT-BYT quy định về chương trình, tài liệu dạy
học và công tác quản lý đào tạo liên tục trong ngành Y tế trong đó yêu cầu
về thời gian đào tạo liên tục bắt buộc/năm đối với cán bộ y tế có cả cán bộ
tuyến y tế cơ sở.
- Quyết định 1816/2008/QĐ-BYT quy định về đào tạo, chuyển giao
công nghệ và đào tạo tại chỗ nhằm nâng cao tay nghề cho cán bộ y tế tuyến
dưới.
Chính sách quy định về định biên và cơ cấu, tuyển dụng và sử dụng
nhân lực y tế cơ sở:
- Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Thông tư 02/2008/TTLT-BYT-
BNV quy định tự chủ về biên chế trong các đơn vị sự nghiệp công lập
trong đó có các đơn vị của y tế cơ sở.
- Thông tư số 08/2007/TTLT-BYT-BNV quy định về định mức biên
chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước trong đó có y tế cơ sở.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế Việt Nam hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân đang đứng trước nhiều thách thức to lớn:
15
Nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh như ô nhiễm môi trường, tệ nạn
xã hội đang ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của nhân dân; chênh lệch về thu
nhập trong nhân dân đang đặt ra những thách thức lớn đến bảo đảm công
bằng trong khám, chữa bệnh; mặt trái của nền kinh tế thị trường có nguy cơ
làm phai mờ giá trị đạo đức cao quí của người thầy thuốc.
Quy mô dân số của nước ta những năm tới vẫn tiếp tục gia tăng, nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng cao và đa dạng, trong khi
khả năng đáp ứng của hệ thống y tế còn hạn chế.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vừa đem lại những cơ hội thuận
lợi, đồng thời vừa đặt nước ta trước những nguy cơ bị lây truyền các bệnh
dịch nguy hiểm và những thách thức mới trong lĩnh vực y tế.
Lập Thạch là một huyện miền núi của tỉnh Vĩnh Phúc, xa trung tâm
tỉnh lỵ. Phía Tây-Bắc tiếp giáp huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và
Huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; Phía Đông-Nam tiếp giáp với các huyện
Tam Đảo, Tam Dương, Vĩnh Tường của tỉnh Vĩnh Phúc. Huyện có diện
tích tự nhiên 223,27 km
2
, với dân số gần 133.500 người, có nhiều đồng bào
các dân tộc cùng sinh sống như: Kinh, Sán Dìu, Cao lan, Tày, Hoa,… Toàn
huyện có 20 đơn vị hành chính với 18 xã và 02 thị trấn, trong đó có 17 xã,
thị trấn là miền núi. Là một huyện thuần nông và còn nghèo, đời sống kinh
tế - văn hóa - xã hội còn gặp nhiều khó khăn.
Tại Lập Thạch, mạng lưới y tế cơ sở, nhất là vùng miền núi còn bộc
lộ nhiều hạn chế: Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, việc chăm sóc sức khỏe và
khám chữa bệnh cho nhân dân hết sức khó khăn. Nhiều cấp ủy Đảng, chính
quyền chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của y tế cơ sở,
chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức và đầu tư thỏa đáng để củng cố
và phát triển mạng lưới y tế cơ sở.
Tại các cơ sở y tế tuyến huyện, cán bộ y tế còn thiếu về số lượng và
yếu về chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ nhân dân, phục vụ người bệnh
có lúc, có nơi chưa tốt, vì thế phải nâng cao chất lượng.Đề án này được
16
nghiên cứu thực hiện trong bối cảnh ngành y tế huyện vừa được sắp xếp lại
hệ thống tổ chức bộ máy. Trung tâm Y tế (TTYT) huyện được thành lập
trên cơ sở sát nhập 3 đơn vị sự nghiệp y tế trên địa bàn huyện là: Bệnh viện
đa khoa, Trung tâm Y tế và Trung tâm Vệ sinh an toàn thực phẩm. Chức
năng, nhiệm vụ và tổ chức khoa, phòng của TTYT cũng thay đổi theo. Từ
đó yêu cầu về đội ngũ cán bộ cũng đòi hỏi phải thay đổi đáp ứng nhu cầu
mới về chức năng, nhiệm vụ của TTYT. Mặt khác trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc nói riêng và cả nước nói chung đang triển khai Bộ tiêu chí quốc gia
về y tế xã giai đoạn 2011-2020 và Chương trình Nông thôn mới đến năm
2020. Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ y tế đủ về số lượng và đảm
bảo về chất lượng để thực hiện.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Vài nét về kinh tế, xã hội của huyện Lập Thạch
Lập Thạch là huyện miền núi, gồm 20 xã, thị trấn với diện tích
223,27 km
2
, dân số hơn 13,35 vạn người, là huyện đông dân nhất tỉnh, có 7
dân tộc cùng chung sống (Kinh, Thái, Cao Lan, Dao, Sán Dìu, Nùng, Hoa).
Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần XVII, toàn
huyện phát huy truyền thống đoàn kết vượt qua mọi khó khăn đạt được
những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh quốc phòng được giữ vững, chính trị ổn định.
- Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm;
mạng lưới y tế cơ sở từ tuyến huyện đến tuyến cơ sở được chú trọng, các
chương trình y tế quốc gia, vệ sinh phòng dịch được triển khai thực hiện có
hiệu quả. Cơ sở vật chất được tăng cường, đến nay 100% trạm y tế xã, thị
trấn được xây dựng mới; 80,0 % trạm y tế có bác sỹ; tỷ lệ bác sỹ đạt 3,2
bác sỹ/1 vạn dân; 23,9 % cán bộ y tế thôn bản đã qua đào tạo. Đến nay có
20/20 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010, phấn
17
đấu đến năm 2020 đạt 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã giai
đoạn 2011-2020.
- Công tác cán bộ được Huyện ủy coi trọng, quan tâm chỉ đạo chặt
chẽ. Coi trọng việc quy hoạch, rà soát bổ xung quy hoạch cán bộ giai đoạn
2016-2020; quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ hợp lý, phát huy
năng lực của từng cá nhân.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển ngành y tế huyện Lập
Thạch
- Ngành y tế huyện Lập Thạch được thành lập năm 1957. Lúc đó là
các trạm xá và bệnh xá huyện, cả ngành lúc đó chỉ có rất ít cán bộ ở các
trạm xá, xã chỉ có 1 bà đỡ đẻ và bệnh xá có 1 y sỹ phụ trách và vài ba cán
bộ tự nguyện làm đỡ đẻ, tiêm truyền, nhổ răng… một vài các thủ thuật nhỏ
được thực hiện tại bệnh xá của huyện. Đến năm 1965, số lượng cán bộ y tế
ở huyện chỉ có 25 cán bộ, có 1 y sỹ phụ trách, 2 nữ hộ sinh, còn lại một số
cán bộ được đào tạo ngắn hạn để biết tiêm truyền và biết chữa các bệnh
thông thường.
- Tháng 01/1991 Bệnh viện và Phòng Y tế sáp nhập lại thành Trung
tâm Y tế huyện Lập Thạch có chức năng quản lý toàn bộ ngành y tế trong
huyện đến tận y tế xã, phường, thị trấn. Đồng thời thực hiện cả nhiệm vụ y
tế dự phòng và khám chữa bệnh.
- Từ tháng 10/2005 đến nay theo Nghị định 171,172/NĐ-CP của
Chính phủ từ Trung tâm Y tế huyện Lập Thạch được chia tách thành 3 đơn
vị: Phòng Y tế huyện, Bệnh viện đa khoa huyện và Trung tâm Y tế dự
phòng huyện.
- Đến tháng 10/2010, trên địa bàn huyện thành lập thêm Trung tâm
DS-KHHGĐ huyện trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh và Trung tâm
ATVSTP huyện trực thuộc Chi cục ATVSTP tỉnh. Năm 2012, Trung tâm
DS-KHHGĐ trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh được bàn giao về UBND
huyện quản lý.
18
- Tháng 10/2014, theo Quyết định của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, các
đơn vị sự nghiệp y tế gồm: Trung tâm Y tế, Trung tâm ATVSTP và Bệnh
viện đa khoa huyện được tổ chức lại thành Trung tâm Y tế huyện Lập
Thạch.
Nhìn chung ngành y tế huyện Lập Thạch được thành lập tương đối
sớm và cũng từng bước phát triển về số lượng và chất lượng đội ngũ cán
bộ. Mặc dù hàng năm đã được tuyển dụng thêm, số lượng CBYT đã tăng
lên nhiều nhưng đến nay vẫn còn thiếu, đặc biệt là thiếu bác sỹ; chất lượng
đội ngũ CBYT còn nhiều bất cập, hạn chế đòi hỏi phải có chiến lược xây
dựng củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ CBYT cơ sở nhằm đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới.
2.1.3. Đề án này được thực hiện trong bối cảnh những năm gần
đây mô hình tổ chức hệ thống y tế cơ sở có nhiều thay đổi
- Tháng 01/1991, Bệnh viện đa khoa huyện và Phòng Y tế huyện
được sát nhập lại thành Trung tâm Y tế huyện Lập Thạch. Trung tâm Y tế
huyện có chức nang quản lý toàn bộ ngành y tế trong huyện, đồng thời
quản lý đến tận y tế xã, phường, thị trấn.
- Từ tháng 10/2005, thực hiện Nghị định 171 và 172/NĐ-CP của
Chính phủ từ Trung tâm Y tế huyện Lập Thạch được chia tách thành 3 đơn
vị: Phòng Y tế huyện, Bệnh viện đa khoa huyện, và Trung tâm Y tế dự
phòng huyện. Ba đơn vị có chức năng nhiệm vụ riêng, Phòng Y tế làm
công tác quản lý Nhà nước về y tế và phụ trách các trạm y tế xã, Bệnh viện
trực tiếp khám và điều trị bệnh nhân, Trung tâm y tế dự phòng quản lý về
công tác phòng bệnh trong toàn huyện.
- Năm 2010, trên địa bàn huyện thành lập thêm Trung tâm DS-
KHHGĐ trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh và Trung tâm ATVSTP
tuyến huyện trực thuộc Chi cục ATVSTP tỉnh. Đến năm 2012, Trung tâm
DS-KHHGĐ trực thuộc Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh được bàn giao về UBND
huyện quản lý.
19
- Tháng 10/2014, theo Quyết định của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, các
đơn vị sự nghiệp y tế gồm: Trung tâm Y tế, Trung tâm ATVSTP và Bệnh
viện đa khoa huyện được tổ chức lại thành Trung tâm Y tế huyện Lập
Thạch. Sự thay đổi hệ thống y tế tuyến huyện nói trên đã có nhiều tác động
đến đội ngũ cán bộ y tế:
- Ảnh hưởng về tâm lý làm việc,
- Sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức ảnh hưởng đến
sự ổn định vị trí công việc, sự định hướng nghề nghiệp của cá nhân;
- Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ có phần chững lại trong những
năm gần đây do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
2.2. Thực trạng chất lượng cán bộ y tế cơ sở huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2010-2015
2.2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ y tế cơ sở huyện Lập Thạch giai
đoạn 2010-2015
* Về số lượng cán bộ:
Bảng 1: Mô hình và số lượng CBYT cơ sở huyện Lập Thạch
Stt Tên đơn vị Tổng số cán bộ Tỷ lệ %
1 Phòng Y tế 03 1,10
2
TTYT 149 55,00
Trong đó: - Y tế dự phòng: 40
- Khám, chữa bệnh: 109
3 Y tế tuyến xã 119 43,90
Tổng số: 271 100,0
Nhận xét: Tổng số CBYT toàn huyện hiện tại là 271, trong đó tuyến
huyện chiếm 56,10%, tuyến xã chiếm 43,90%. Ở tuyến huyện, cơ quan
quản lý nhà nước về y tế là Phòng Y tế có 02 CBYT, chiếm 1,10%.
Tính trung bình, hiện toàn ngành y tế huyện có 20,07 CBYT/vạn
dân; trong khi đó theo Quyết định số 153/QĐ-TTg, ngày 30/6/2006 của
Thủ tướng Chính phủ phên duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y
20