Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Biện pháp quản lý sinh viên hệ chính quy ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.21 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Phạm Thị Hoài An
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SINH VIÊN HỆ CHÍNH QUY
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60140101
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hiền
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Tác giả trân trọng cảm ơn thầy giáo, cô giáo Học viện Quản lí Giáo dục,
Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội, đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong
suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Đặc biệt, tác giả bảy tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến cô giáo –
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hiền đã động viên, chỉ bảo, hướng
dẫn tận tình trong suốt thời gian thực hiện luận văn Thạc sĩ.
Tác giả cũng chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã
động viên, cổ vũ nhiệt tình trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành đề tài của mình.
Mặc dù tác giả đã rất cố gắng, song luận văn có thể còn những thiếu sót
nhất định. Rất mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các thầy giáo, cô giáo, các
bạn đồng nghiệp và những người quan tâm đến luận văn.
Tác giả
Phạm Thị Hoài An
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CA Công an
CĐCĐ Cao đẳng Cộng đồng
CN - DD Công nghiệp – Dân dụng


CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
ĐH, CĐ Đại học, cao đẳng
GD-ĐT Giáo dục – Đào tạo
HS-SV Học sinh – Sinh viên
QL Quản lý
QT Quy trình
QLSV Quản lý sinh viên
QLHS – SV Quản lý học sinh – sinh viên
NXB Nhà xuất bản
TNCS Thanh niên cộng sản
TT Trung tâm
TT -ĐT Trung tâm đào tạo
KTX Ký túc xá
MỤC LỤC

DANH MỤC HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI CAM ĐOAN 3
MỤC LỤC 5
Hình 2.1. Cơ cấu tổ chức của Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội 39
Qua quá trình vận hành và quản lí, có thể nhận thấy cơ cấu tổ chức của nhà
trường như hiện nay là tương đối hoàn chỉnh, hợp lí, phù hợp với qui mô phát
triển của nhà trường 39
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực 67
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ mục tiêu tổng quát
về phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm tiếp theo là:
“… Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, giữ vững ổn định
chính trị xã hội, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành

nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đó là nhiệm vụ hàng đầu đảm bảo
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta đã khẳng định:
“Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân
lực, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức”.
Trong thời kỳ hội nhập, ngành giáo dục đào tạo có một trách nhiệm lớn
là đào tạo ra nguồn nhân lực có hàm lượng chất xám cao, hướng sinh viên có
ý thức trách nhiệm và hoài bão, ước mơ để trở thành những nhà khoa học,
người lao động có trí tuệ và tay nghề cao phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Đội ngũ sinh viên (SV) đang không ngừng tăng nhanh về số lượng và
chưa bao giờ lại đông đảo như ngày nay. Đại bộ phận SV Việt Nam luôn giữ
vững và phát huy truyền thống yêu nước, hiếu học, đoàn kết, tin tưởng vào
công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, quan tâm đến
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, năng động, nhạy bén tiếp thu tri thức,
tiếp thu cái mới, cái đẹp, giàu ước mơ, khát vọng, nỗ lực rèn luyện, tu dưỡng,
chăm chỉ học tập, chuẩn bị tốt hành trang cho tương lai. Nền tảng trí tuệ là
một tiền đề hết sức căn bản của SV, nhưng để trở thành người có tri thức, nhà
khoa học trong tương lai, toàn tâm toàn ý phụng sự cách mạng, phụng sự đất
nước, đáp ứng được sự mong mỏi của Đảng, của nhân dân thì vấn đề giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho SV là một vấn đề rất quan trọng và
cần thiết.
Ngày 16 tháng 10 năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT) ra
Quyết định số 60/2007/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban
hành Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên (HS, SV) các
trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy nhằm mục
đích góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đất nước đổi mới đã tạo điều kiện cho các trường cao đẳng, đại học
(CĐ, ĐH) những cơ hội phát triển chưa từng thấy, đồng thời cũng gặp không
ít thách thức. Cơ chế thị trường đã tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế
- xã hội của đất nước, cùng với những mặt tích cực thì mặt trái của nó cũng
tác động không nhỏ, ảnh hưởng xấu đến các hoạt động của XH, trong đó có
môi trường hoạt động của SV trong nhà trường.
Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội (CĐCĐ Hà Nội) nằm trong hệ
thống các trường CĐ của cả nước, đã nhiều năm thực hiện công tác quản lý
(QL) HS - SV như hệ thống quản lý, mối quan hệ giữa các phòng chức năng
trong công tác quản lý HS - SV, … Trước những yêu cầu thực tế, đòi hỏi
công tác QLHS - SV cần đồng bộ hơn, cần tăng cường các biện pháp QLHS -
SV nhằm góp phần giáo dục sinh viên có ý thức tự giác, chủ động học tập, tu
dưỡng rèn luyện, không những nắm vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
mà còn có phẩm chất đạo đức, năng lực nghề nghiệp chuẩn bị phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là những vấn đề mà trường CĐ
Cộng đồng Hà Nội đang tìm kiếm những biện pháp để giải quyết thỏa đáng.
Với những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề: “Biện pháp quản lý sinh
viên hệ chính quy ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu cuối khóa học.
2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu đề xuất các biện pháp quản lý SV
cao đẳng hệ chính quy ở trường CĐCĐ Hà Nội, nhằm góp phần đảm bảo chất
lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý, biện pháp quản lý SV
3.2. Điều tra, phân tích thực trạng QLSV ở trường CĐCĐ Hà Nội
3.3. Đề xuất một số biện pháp QLSV cao đẳng hệ chính quy ở trường CĐCĐ
Hà Nội
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu: SV và công tác quản lý SV cao đẳng hệ chính quy
ở trường CĐCĐ Hà Nội.

4.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý SV ở trường CĐCĐ Hà Nội.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đề xuất
một số biện pháp quản lý SV cao đẳng hệ chính quy ngoại trú ở trường
CĐCĐ Hà Nội (không bao gồm hệ đào tạo liên thông của nhà trường).
6. Giả thuyết khoa học: Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý SV,
nếu tìm ra được các biện pháp quản lý SV phù hợp và thực hiện chúng một
cách đồng bộ, thì có thể sẽ góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo cao đẳng tại
trường CĐCĐ Hà Nội và góp phần đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc, phân tích, tổng hợp, nghiên cứu
các tài liệu, văn bản có liên quan tới đề tài.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, phỏng vấn, tổng kết rút
kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: sử dụng thống kê toán học để xử lý và
kiểm định kết quả nghiên cứu.
8. Đóng góp của đề tài
Góp phần hệ thống hóa lý luận chung về quản lý SV trong các trường
ĐH, CĐ.
Đề xuất được các biện pháp quản lý sinh viên chính quy ở trường
CĐCĐ Hà Nội làm tiền đề phát triển nhà trường thành trường Đại học Thủ đô
Hà Nội.
9. Cấu trúc của đề tài
* MỞ ĐẦU
* NỘI DUNG: gồm 03 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý sinh viên
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý sinh viên hệ chính quy ở trường
CĐCĐ Hà Nội
Chương 3: Biện pháp quản lý sinh viên cao đẳng hệ chính quy ở trường
CĐCĐ Hà Nội

* KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
* TÀI LIỆU THAM KHẢO
* PHỤ LỤC
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ SINH VIÊN
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thế kỷ XXI được mệnh danh là thế kỷ của công nghệ thông tin, thế kỷ
của nền kinh tế tri thức, thế kỷ của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá. Trong bối
cảnh đó đòi hỏi các nước trên thế giới phải nỗ lực vươn lên, đặc biệt trong
lĩnh vực khoa học công nghệ để khỏi bị tụt hậu so với các nước trên thế giới.
Muốn làm chủ được khoa học công nghệ, muốn kinh tế xã hội của đất nước
ngày càng phát triển, đời sống của người dân được nâng cao không có giải
pháp nào khác là phải đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ, năng lực tiếp cận
với những tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ chỉ trở thành hiện
thực khi có sự quan tâm đúng mức đến giáo dục và đào tạo, vì giáo dục đào là
yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.
Những thập niên cuối thế kỷ XX, nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới đã coi “giáo dục là thìa khóa mở cửa tương lai”. Họ đã tiến hành cải tổ hệ
thống giáo dục và kết quả là nền kinh tế xã hội - văn hoá phát triển, đất nước
hưng thịnh, ví dụ như Singapo, Ấn Độ, …
Ở nước ta, Nghị quyết Trung ương II, Khoá VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng chỉ rõ: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thắng lợi, thì phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực
con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” [số 02-
NQ/HNTW ngày 24 tháng 12 năm 1996]. Nền tảng trí tuệ là một tiền đề hết
sức căn bản, nhưng để trở thành người có tri thức, nhà khoa học trong tương
lai, toàn tâm toàn ý phụng sự cách mạng, phụng sự đất nước, đáp ứng được sự
mong mỏi của Đảng, của nhân dân thì vấn đề giáo dục chính trị tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho SV là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết.
Công tác quản lý SV là một khâu quan trọng không thể thiếu được

trong quá trình giáo dục và đào tạo. Công tác này chi phối khá nhiều đến kết
quả học tập và rèn luyện của HS - SV các trường ĐH, CĐ. Công tác quản lý
SV hiện đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều báo cáo tại hội thảo, nhiều ý
kiến của các học giả, các nhà quản lý về khoa học quản lý giáo dục. Nhìn
chung, các đề tài của các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận, đã đưa ra đựoc
những giải pháp nhằm phát triển giáo dục, đào tạo, như Quản lý giáo dục của
Bùi Minh Hiền (chủ biên), Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo, Quản lý nhà nước
về giáo dục và đào tạo của tác giả Phan Văn Kha, Quản lý quá trình đào tạo
của tác giả Nguyễn Đức Trí, Tiếp cận hiện đại trong quản lí giáo dục của
Trần Kiểm (2006), Những vấn đề cơ bản của khoa học trong quản lý giáo
dục của Trần Kiểm (2006), Tiếp cận hiện đại trong quản lí giáo dục của Trần
Kiểm (2006), Những vấn đề cơ bản của khoa học trong QLGD của Trần
Kiểm (2006), Tập bài giảng - Quản lí Nhà nước về giáo dục của Vũ Ngọc Hải
(2009)
Nhưng khi nghiên cứu về quản lý sinh viên thì chỉ mới có một số luận
văn thạc sỹ quản lý giáo dục đề cập tới như: Các biện pháp quản lý sinh viên
nội trú ở trường Cao đẳng sư phạm Yên Bái của tác giả Bùi Sỹ Đức; Một số
biện pháp quản lý công tác đánh giá kết quả rèn luyện của sinh viên trường
CĐSP Quảng Nam của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa; Biện pháp quản lý
sinh viên hệ đại học chính quy nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo tại Học
viện quản lý giáo dục của tác giả Đặng Minh Cường.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu các biện pháp
quản lý SV cao đẳng hệ chính quy ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến
phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận và chịu
một sự quản lý nào đó.
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động. Chính

sự phân công hợp tác lao động hợp lý sẽ đem lại hiệu quả nhiều hơn, năng
suất cao hơn. Vì vậy, trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp,
điều hành, kiểm tra, điều chỉnh, Đây là hoạt động của người đứng đầu (thủ
trưởng) nhằm phối hợp những nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong
cộng đồng, trong bộ máy để đạt được mục tiêu đề ra.
Ngày nay, thuật ngữ “Quản lý” đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất, mà có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý. Theo
phân tích của Các Mác thì: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít hay nhiều cần đến
sự chỉ đạo để điều hành các hoạt động cá nhân và thực hiện các chức năng
chung. Tức là những chức năng phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
sản xuất, khác với sự vận động của các cá nhân độc lập của cơ thể sản xuất
đó. Một người chơi vĩ cầm riêng rẽ thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn
nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [10].
Khái niệm quản lí đã được nhiều tác giả đề cập với những cách tiếp cận
khác nhau.
Theo F.F. Annapu: “Quản lý là một hệ thống xã hội chủ nghĩa, là một
khoa học và là một nghệ thuật tác động vào hệ thống xã hội, chủ yếu là quản
lý con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định, vừa ổn định bao gồm
nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau”[15].
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học - NXB Đà Nẵng 2002) giải
thích: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động hoặc trông coi và giữ
gìn theo những yêu cầu nhất định”[36].
Theo Harold Koontz -1994, trong tác phẩm “ Những vấn đề cốt yếu của
quản lí” thì: “ Quản lí là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những
nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm”
Taylor - một nhà kinh tế học Anh cho rằng: “ Quản lí là nghệ thuật biết
rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt
nhất và rẻ nhất”
Theo Trần Kiểm: “ Quản lí nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao

cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “ Quản lí là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể của những người lao động nói chung, là
khách thể quản lí nhằm thực hiện những mục tiêu đã dự kiến”….
Theo tác giả, có thể tán thành định nghĩa có tính khái quát về quản lý
như sau: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản
lý tới đối tượng bị quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra [40].
Những điều nêu trên đây cho thấy, mặc dù các quan niệm về khái niệm
quản lí được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều đề cập đến
những nhân tố cơ bản như: chủ thể quản lí, đối tượng quản lí và mục tiêu
quản lí.
Một hệ quản lý toàn vẹn bao giờ cũng có hai bộ phận quan hệ gắn bó
với nhau (còn gọi là hai phân hệ), gồm:
− Bộ phận quản lý có chức năng tổ chức, chỉ đạo, điều khiển
làm cho hệ vận hành tới mục đích dự kiến, giữ vai trò chủ đạo trong hệ
quản lý.
− Bộ phận bị quản lý giữ vai trò khách thể quản lý, chịu sự
chỉ đạo, điều khiển của bộ phận quản lý, biến các quyết định của bộ
phận quản lý thành hiện thực.
* Các chức năng quản lý
Khi đề cập đên khái niệm quản lí không thể không nói đến các chức
năng quản lí. Cũng có nhiều quan niệm khác nhau về cách phân chia các chức
năng quản lí, nhưng nhìn chung có thể thống nhất về 04 chức năng quản lí sau
đây: Lập kế hoạch (có tác giả gọi là chức năng kế hoạch hóa); Tổ chức; Điều
hành (Chỉ đạo); Kiểm tra.
− Chức năng kế hoạch hoá
Là chức năng cơ bản nhất trong số các chức năng quản lý, nhằm xây
dựng quyết định về mục tiêu, chương trình hành động và các bước đi cụ thể
trong một thời gian nhất định của một hệ thống quản lý. Kế hoạch hoá bao
gồm toàn bộ quá trình từ xác định mục tiêu, các phương pháp, phương tiện để

đạt mục tiêu đến tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện mục
tiêu, chỉ tiêu đề ra.
Xác định mục tiêu là khâu đầu tiên của kế hoạch hoá. Mục tiêu là tiêu
đích mà mọi hoạt động của bộ máy hướng tới. Các mục tiêu tạo thành một hệ
thống phân cấp từ mục tiêu chung của bộ máy đến mục tiêu của bộ phận, của
cá nhân và tạo thành một hệ thống thống nhất.
Để xác định được mục tiêu cho hoạt động của bộ máy, nhà quản lý phải
có khả năng dự báo. Hay nói khác đi phải có tầm nhìn xa trông rộng để xác
định tương lai của bộ máy. Dự báo là phán đoán trước sự biến đổi của toàn bộ
các quá trình và các yếu tố có liên quan đến bộ máy quản lý. Trong đó bao
gồm các yếu tố thuận lợi, khó khăn, các yếu tố tác động của môi trường bên
ngoài và các yếu tố tác động của môi trường bên trong đến bộ máy.
Dự báo còn để nhận thức được cơ hội làm cơ sở cho việc phân tích lựa
chọn các phương án hành động của hệ thống. Đồng thời dự báo còn để lường
hết khả năng thay đổi có thể xảy ra để ứng phó với sự biến đổi của môi trường
tác động vào bộ máy.
Sau khi xác định được mục tiêu cho bộ máy, nhà quản lý định ra các
chương trình hành động để tiến tới mục tiêu đó, lường trước các biến cố trong
quá trình tiến tới mục tiêu. Toàn bộ các công việc trên đây là nội dung chức
năng của kế hoạch.
− Chức năng tổ chức
Tổ chức là sắp xếp cơ cấu bộ máy cho phù hợp với yêu cầu của việc
thực hiện mục tiêu. Trên cơ sở kế hoạch hoá, nhà quản lý tổ chức bộ máy sao
cho bộ máy có thể đạt được mục tiêu vạch ra.
Bản chất của chức năng này là xác định một cơ cấu có chủ định về vai
trò, nhiệm vụ của từng cá nhân, từng bộ phận. Nghĩa là phải xác định nhưng
người làm việc với nhau phải thực hiện những vai trò gì. Vai trò đó được xác
định một cách có chủ đích để bảo đảm các hoạt động phù hợp với nhau sao
cho mỗi người có thể làm việc được trôi chảy, có hiệu quả cao trong nhóm, nó
chính là sự kết hợp, liên kết những bộ phận riêng rẽ thành một hệ thống, hoạt

động nhịp nhàng như một cơ thể thống nhất.
− Chức năng điều hành (chỉ đạo)
Điều hành là việc làm tiếp theo của kế hoạch hoá và tổ chức. Sau khi tổ
chức bộ máy và xác định vai trò của các bộ phận, cá nhân trong bộ máy thì
nhà quản lý phải tác động đến họ để họ làm việc tích cực, hướng họ vào mục
tiêu chung. Quá trình đó còn có một nội dung quan trọng là điều chỉnh các sai
lệch, đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu có kết quả chắc chắn nhất.
Thực chất của điều chỉnh là nhằm sửa chữa các sai lệch nảy sinh trong quá
trình hoạt động của bộ máy để duy trì các mối quan hệ bình thường giữa bộ
phận điều khiển và bộ phận chấp hành, giữa bộ máy quản lý với hoạt động
của hàng trăm hàng ngàn người sao cho nhịp nhàng ăn khớp với nhau.
Muốn điều chỉnh đạt hiệu quả cao, phải thường xuyên thu nhận thông
tin về sự chênh lệch giữa hoạt động hiện tại của hệ thống với những thông số
đã được quy định thông qua kiểm tra. Bởi chỉ trong quá trình kiểm tra mới thu
nhận được thông tin làm cơ sở cho quyết định điều chỉnh. Dạng quyết định
này thường xuyên xảy ra trong quản lý, đôi khi chỉ một quyết định điều chỉnh
nhỏ, kịp thời sẽ mamg lại hiệu quả cao.
− Chức năng kiểm tra
Kiểm tra là một chức năng của mọi cấp quản lý để đánh giá đúng kết
quả hoạt động của hệ thống, đo lường các sai lệch nảy sinh trong quá trình
hoạt động so với các mục tiêu và kế hoạch đã định. Kế hoạch hướng dẫn việc
sử dụng các nguồn lực để hoàn thành các mục tiêu, còn kiểm tra xác định xem
chúng hoạt động có phù hợp với mục tiêu và kế hoạch hay không.
Mục đích của kiểm tra nhằm đảo bảo các kế hoạch được thực hiện
thành công, phát hiện kịp thời những sai sót, tìm ra nguyên nhân và biện pháp
sửa chữa kịp thời những sai sót đó. Kiểm tra là tai mắt của quản lý. Vì vậy,
cần tiến hành thường xuyên và kết hợp linh hoạt nhiều hình thức kiểm tra
như: kiểm tra lường trước, kiểm tra những điểm trọng yếu, kiểm tra trực tiếp,
kiểm tra gián tiếp, kiểm tra định kỳ, kiểm tra bất thường, kiểm tra từ dưới lên,
kiểm tra từ trên xuống, … Kiểm tra là việc làm thường xuyên trong quản lý.

Muốn thực hiện được ba chức năng trên nhà quản lý phải thực hiện tốt chức
năng kiểm tra. Kiểm tra bao giờ cũng đi liền với đánh giá. Đánh giá sẽ làm cơ
sở cho việc điều chỉnh hoạt động của bộ máy và động viên người lao động.
Các chức năng quản lí có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một
chu trình quản lí, thể hiện ở Hình 1.1.
Hình 1.1. Mối liên quan của các chức năng quản lí
Kế hoạch hóa Tổ chức
Kiểm tra
Chỉ đạo
* Biện pháp quản lý
Theo từ điển tiếng Việt “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể”.
Biện pháp quản lí là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ thể
của công tác quản lí nhằm đạt được mục tiêu quản lí.
Trong quản lí, biện pháp quản lí được hiểu là tổ hợp nhiều cách thức
tiến hành của chủ thể quản lí nhằm tác động đến đối tượng quản lí để giải
quyết những vấn đề trong công tác quản lí làm cho hệ vận hành đạt mục tiêu
mà chủ thể quản lí đã đề ra phù hợp với quy luật khách quan.
Biện pháp quản lí là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ thể
của công tác quản lí nhằm đạt được mục tiêu quản lí. Hay nói cách khác, biện
pháp quản lí là những phương pháp quản lí cụ thể trong những sự việc cụ thể,
đối tượng cụ thể và tình huống cụ thể.
1.2.2. Sinh viên
Thuật ngữ “Sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Student” có
nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm khai thác tri
thức. Thuật ngữ “Sinh viên” ra đời hầu như gắn liền với lịch sử ra đời của các
trường đại học.
Theo ngôn ngữ Hán - Việt, “Sinh viên” được diễn nghĩa là: “Người
bước vào cuộc sống”.
Hiện nay ở nước ta thuật ngữ sinh viên cũng đã được nhà nước thể chế

hoá pháp lý bằng Luật Giáo dục: Theo Điều 83, Luật Giáo dục năm 2005:
“Sinh viên là người học đang học tập và rèn luyện tại các trường đại học và
cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” [23].
Sinh viên hệ chính quy ở các trường đại học, cao đẳng thường ở lứa
tuổi từ 18 đến 24. Sinh viên thuộc mọi thành phần dân tộc, tôn giáo, vùng
miền khác nhau trong cả nước.
Sinh viên là bộ phận ưu tú về trí tuệ của thanh niên nói chung. Họ là
lớp người đang trưởng thành, có trình độ học vấn cao, lại được học tập, sinh
hoạt ở những thành phố, đô thị lớn nên có điều kiện tiếp xúc sớm với những
tiến bộ của xã hội. SV là nguồn bổ sung trực tiếp cho lực lượng tri thức của
nước nhà. Ngày nay, bước sang thế kỷ XXI, khi mà khoa học kỹ thuật trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì vai trò SV ngày càng trở nên quan
trọng.
1.2.3. Quản lý sinh viên
Từ khái niệm quản lý nêu trên, có thể hiểu: Quản lý sinh viên là sự tác
động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới sinh viên nhằm đạt
được mục tiêu quản lý. Sinh viên vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá
trình đào tạo.
Mục đích của QLSV là góp phần tích cực vào quá trình hình thành
nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân; đào tạo người lao động tự chủ,
sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
sống lành mạnh, có kiến thức văn hoá, khoa học, công nghệ, kỹ năng nghề
nghiệp, có sức khoẻ, có khả năng góp phần có hiệu quả làm cho dân giàu,
nước mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
QLSV là một trong những lĩnh vực quản lý quan trọng ở trường đại
học, cao đẳng. QLSV phải thực hiện theo đúng đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, đúng quy định của Bộ GD-ĐT, của
các Bộ, ngành liên quan; đúng nội quy, quy chế của cơ sở giáo dục.
Hoạt động QLSV là hoạt động quản lý văn bản, lưu trữ hồ sơ, tài liệu,
phương tiện, vật dụng, liên quan đến sinh viên và của sinh viên; xây dựng kế

hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra - đánh giá hoạt động
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh viên; tổ chức các hoạt
động văn hoá, văn nghệ, thể thao cho SV; quản lý vật dụng, phương tiện, trang
bị luyện tập, thi đấu, biểu diễn cho SV…
Như vậy, công tác quản lý SV bao gồm rất nhiều nội dung:
− Quản lý hoạt động giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.
− Quản lý hoạt động học tập của SV trong giờ lên lớp.
− Quản lý SV ngoại trú.
− Quản lý việc khen thưởng, kỷ luật SV.
− Quản lý việc thực hiện chế độ, chính sách cho SV…
Nếu thực hiện tốt công tác quản lý SV sẽ góp phần làm cho chất lượng
đào tạo của nhà trường được bảo đảm.
Quản lý tốt SV thực chất là quá trình quản lý giáo dục đạo đức của các
em. Đó là quá trình làm cho mỗi SV lĩnh hội được nền văn hoá đạo đức của
loài người và của dân tộc để trở thành một nhân cách toàn viện về mặt đạo
đức xã hội chủ nghĩa từ đó góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo.
* Biện pháp quản lý SV
Biện pháp quản lí SV được hiểu là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của
chủ thể quản lí (Ban Lãnh đạo trường ĐH,CĐ, các Ban chủ nhiệm Khoa, chủ
yếu là Ban Quản lý HS-SV) nhằm tác động đến đối tượng quản lí (SV) để
giải quyết những vấn đề trong công tác quản lí SV làm cho trường ĐH, CĐ
vận hành đạt mục tiêu đào tạo của nhà trường phù hợp với quy luật khách
quan.
Biện pháp quản lý SV là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ
thể của công tác quản lý SV nhằm góp phần đạt được mục tiêu của quá trình
đào tạo.
Biện pháp quản lý SV là những phương pháp quản lí cụ thể trong
những sự việc cụ thể của công tác quản lý SV đối với tập thể SV hay với từng
cá nhân SV trong những tình huống hoạt động cụ thể của SV.
1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sinh viên

* Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp
giáo dục nói chung, trong đó có quản lý giáo dục, QLSV nói riêng được cụ thể
hoá qua các Nghị quyết của Đảng, và các bộ luật, quyết định, quy định, … của
Đảng và Nhà nước. Đối với QLSV, đó là các quy chế đào tạo, quy chế đánh giá
kết quả rèn luyện của học sinh, SV; quy chế học sinh, SV nội trú, ngoại trú áp
dụng cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy;
quy định về miễn, giảm học phí, cấp học bổng khuyến khích học tập cho SV đạt
thành tích cao trong học tập và rèn luyện; quy định về thực hiện trợ cấp xã hôịi
đối với SV là con dân tộc vùng sâu, SV là con thương binh, con liệt sỹ, SV thuộc
hộ nghèo, SV vùng 135, SV khuyết tật, tàn tật, SV là con mồ côi, con người
nhiễm chất độc màu da cam; quy định về tín dụng SV, …
Việc ban hành các Nghị quyết, Bộ Luật, Quy định đối với SV đã cho
thấy sự chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với SV, ghi nhận về
vị trí, vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước. Nhờ có các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà một bộ
phận lớn học sinh, SV thuộc diện chính sách xã hội được hưởng chế độ của
Nhà nước, có điều kiện để theo đuổi quá trình học tập và rèn luyện.
* Hoạt động lãnh đạo, quản lý
Quản lý SV là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu ở trường
đại học, cao đẳng. Hoạt động QLSV chịu sự ảnh hưởng, tác động, chi phối của
nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố lãnh đạo, quản lý. Hoạt động QLSV nếu được
lãnh đạo quan tâm sẽ giúp tạo ra cơ chế, chính sách, giúp cho hoạt động xây
dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra - đánh giá hoạt động
QLSV được đảm bảo.
Yếu tố lãnh đạo, quản lý ảnh hưởng đến QLSV thể hiện ở các phương
diện: năng lực, sự am hiểu về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, đặc điểm nhân
cách của SV của người lãnh đạo, quản lý; sự am hiểu về chuyên môn, nghiệp
vụ quản lý SV của các cấp lãnh đạo cơ sở giáo dục; thể hiện ở sự quan tâm chỉ
đạo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ

QLSV; ra các văn bản chỉ đạo; trực tiếp chỉ đạo đội ngũ cán bộ QLSV cũng
như việc quan tâm chỉ đạo xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra -
đánh giá hoạt động QLSV.
* Tài chính, cơ sở vật chất
Đây là yếu tố, điều kiện rất quan trọng trong hoạt động QLSV. Với nội
dung quản lý SV rất đa dạng và phong phú như trình bày trên đây thì các yếu tố
tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của
công tác QLSV.
Mục tiêu của quản lý SV nhằm hướng vào mục tiêu đào tạo chung của
nhà trường là hình thành nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đào tạo
người lao động tự chủ, sáng tạo và kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, có kiến thức văn hoá, khoa học, công nghệ,
kỹ năng nghề nghiệp, có sức khoẻ, có khả năng góp phần làm cho dân giàu,
nước mạnh, đưa đất nước tiến kịp thời đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tính đến năm 2011, đã có một số các công trình nghiên cứu về quản lý
SV với những định hướng chung về việc tăng cường các biện pháp quản lý
SV đại học hệ chính quy ở một số trường đại học ở Việt Nam. Mặc dù vậy,
việc tăng cường các biện pháp quản lý SV cho đến nay vẫn chưa được quan
tâm một cách đúng mức.
1.3. Đặc điểm tâm lý, nhân cách SV và mục tiêu giáo dục đại học, cao đẳng
1.3.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi SV
Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của lứa tuổi SV là sự
phát triển tự ý thức: Tự ý thức là một loại đặc biệt của ý thức trong đời sống
cá nhân có chức năng tự điều chỉnh, nhận thức và thái độ đối với bản thân. Đó
là quá trình tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá về hành động và
kết quả tác động của bản thân về tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức,
hứng thú; là sự đánh giá toàn diện về chính bản thân và vị trí của mình trong
cuộc sống. Tự ý thức là điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách,
hướng nhân cách theo các yêu cầu của xã hội.

Cùng với sự phát triển tự ý thức là sự hình thành và phát triển thế giới
quan, niềm tin và nắm vững các chuẩn giá trị, các yêu cầu nghề nghiệp được
thể hiện, bộc lộ rõ nét. Sự xuất hiện và phát triển tình yêu nam nữ là một nét
đặc trưng về mặt tình cảm ở lứa tuổi này.
* Đặc điểm sinh học của lứa tuổi SV
Thông thường ở các trường đại học, cao đẳng, lứa tuổi SV trong
khoảng từ 18 đến 23-25, thuộc giai đoạn thứ hai của lứa tuổi thanh niên (giai
đoạn thứ nhất của tuổi thanh niên từ 15 đến 18 tuổi), còn gọi là “tuổi thanh
niên muộn” hay “thời kỳ chuyển tiếp sau”.
Đây là thời kỳ cơ thể đã hoàn thiện và ổn định sau những biến đổi sâu
sắc của tuổi dậy thì. Thời kỳ này các cơ quan trong cơ thể với các chức năng
của nó đã tương đối hoàn thiện. Lứa tuổi này là “người lớn” cả về phương
diện sinh vật và quan hệ xã hội. Chính ở lứa tuổi này, hoạt động thần kinh cao
cấp đã đạt đến mức trưởng thành. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động nhận thức của SV.
* Về cơ cấu tâm lý xã hội
SV vừa là lực lượng tăng dần về số lượng theo xu hướng xã hội phát

×