Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn của Xôphôclơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.36 KB, 26 trang )

Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Bi kịch Hy Lạp là “một vẻ đẹp của Hy Lạp cổ đại” (Arixtốt), là một
thành tựu quan trọng bậc nhất của nền văn học Hy Lạp trong thời kỳ cổ điển
của nó. Thể loại bi bịch là “một bước phát triển cao của nghệ thuật thơ ca”
(Hêghen), nó ra đời trên nhu cầu phản ánh hiên thực tất yếu của nghệ thuật,
trên một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nó là mảnh đất màu mỡ đã sản
sinh ra những nhà bi kịch lớn mà tên tuổi mà tác phẩm của họ xứng đáng là
một “mùi hương lạ” góp vào vườn hoa bi kịch thế giới.
Những cái tên như Esin, Xôphôclơ, Ơripit mãi là niềm tự hào của bi
kịch thế giới nói chung và bi kịch Hy Lạp nói riêng. Nếu như Esin được mệnh
danh là “ông tổ của bi kịch”, là người đã đặt những “viên gạch vàng” đầu tiên
làm nền móng cho toà nhà lớn bi kịch của nhân loại thì Xôphôclơ là người đã
có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch, được mệnh danh là “Hôme
của nghệ thuật kịch”. So với bậc tiền bối của mình thì Xôphôclơ không chỉ cải
tiến về kỷ thuật kịch mà còn cải tiến về nội dung và nghệ thuật của bi kịch
nữa.
Tác phẩm Ăngtigôn là một trong những vở bi kịch đặc sắc của
Xôphôclơ. Thành công của vở bi kịch có được một phần là do nghệ thuật xây
dựng hình tượng nhân vật của ông. Trong vở bi kịch này, Xôphôclơ đã dựng
nên hai hình tượng trung tâm đối lập với nhau về lý tưởng sống cũng như về
tình cảm. Bên cạnh hình tượng Ăngtigôn với những vẻ đẹp của tình cảm nhân
đạo và tình thương người bao la là hình tượng Crêông với đầy đủ những đặc
điểm của giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Nghiên cứu hình tượng sẽ giúp chúng
ta thấy được hết giá trị của tác phẩm bởi “hình tượng là nơi thể hiện tập trung
các giá trị nhân học và thẩm mỹ của nghệ thuật”, đặc biệt trong những nhân
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
1
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
vật phản diện thì điều này lại càng rõ hơn hết. Chính điều này đã thôi thúc


chúng tôi tìm đến với đề tài: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn của
Xôphôclơ. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn mang lại cái nhìn khách quan,
toàn diện, đúng đắn, đầy đủ về những giá trị mà hình tượng Crêông mang lại
trong vở bi kịch cũng như tài năng của Xôphôclơ trong việc khắc hoạ tính
cách và miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật.
2. Lịch sử ghiên cứu vấn đề:
Xôphôclơ – là đại diện tiêu biểu của bi kịch Hi Lạp trong thời kì toàn
thịnh của nhà nước dân chủ, chủ nô Aten và là người tiếp nối Esin “cha đẻ của
bi kịch Hi Lạp”. Là một trong ba đại diện vĩ đại của bi kịch Hi Lạp nên cuộc
đời và sự nghiệp của ông được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và trong
nước nghiên cứu. Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ xin đề cập
đến một số công trình nghiên cứu sau:
Công trình thứ nhất là của Lê Nguyên Cẩn trong cuốn Hợp tuyển văn
học Châu Âu, tập 1, phần văn học cổ đại Hi Lạp- La Mã. Trong cuốn này, nhà
nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quát về cuộc
đời và sự nghiệp của ba nhà bi kịch Etsin, Xôphôclơ và Ơripit. Đặc biệt, đối
với Xôphôclơ thì ông cho Xôphôclơ là “người cách tân nghệ thuật bi kịch,
nâng bi kịch lên một bước hoàn thiện mới”.
Công trình thứ hai là của Lương Duy Trung (chủ biên) trong cuốn Văn
học phương Tây. Trong cuốn này, các nhà nghiên cứu đã trình bày một cách
chi tiết cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Xôphôclơ và giới thiệu về
vở bi kịch Ăngtigôn. Đối với Xôphôclơ thì ông cho đây là “nhà thơ của thời kì
nền dân chủ phồn vinh”, “là nhà thơ hoàn hảo”, “nhà thơ am hiểu nghệ thuật
kịch hơn ai hết”, là người sáng tác ra những vở bi kịch “thực sự là những hình
ảnh của cuộc sống mà bi kịch cũ chỉ là những nét phác họa”(Croazê).
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
2
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
Công trình thứ ba là cuốn Kịch Xôphôclơ, do Hoàng Trinh giới thiệu,
Nguyễn Giang dịch. Cũng như hai công trình nghiên cứu trên thì công trình

này cũng trình bày khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Xôphôclơ.
Đặc biệt trong cuốn này đã giới thiệu về vở bi kịch Ăngtigôn như sau: “Đối
với vở bi kịch này, nó giúp chúng ta hiểu thêm xã hội Hi Lạp cổ đại, những vấn
đề xã hội đặt ra với con người thời ấy…nhưng điều đáng chú ý hơn là về mặt
nghệ thuật đây là lần đầu tiên kịch tính cách, kịch tâm lý xuất hiện…”.
Những công trình nghiên cứu trên đã giúp ích chúng tôi rất nhiều trong
việc học tập và nghiên cứu. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi mạnh dạn đi
vào nghiên cứu Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn với mong muốn
đóng góp phần nào cái nhìn đầy đủ hơn những đóng góp của Xôphôclơ về
nghệ thuật kịch.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là hình tượng Crêông trong vở
bi kịch Ăngtigôn của Xôphôclơ.
Phạm vi nghiên cứu: Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi làm rõ
hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn với những nét tính cách, đặc
điểm điển hình cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Chúng tôi sẽ làm việc với
văn bản tác phẩm Ăngtigôn trong cuốn Kịch Xôphôclơ của Hoàng Trinh giới
thiệu, Nguyễn Giang dịch, năm 1985. Bản này dịch theo bản dịch tiếng Pháp
THÉÁTRE DE SOPHOCLE của Robert Pignarre, NXB Garnierpreres, Paris,
1958, có tham khảo nguyên văn Hy Lạp với sự cộng tác của Nguyễn Mạnh
Tường và Phan Ngọc.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài này, ngoài việc thu thập, đọc, xử lý tài liệu chúng
tôi còn sử dụng các phương pháp mang tính chất khoa học khác như:
- Phương pháp thống kê, phân loại
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
3
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
- Phương pháp phân tích, chứng minh
- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp tổng hợp, đánh giá
5. Giới thuyết thuật ngữ
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi làm rõ những thuật ngữ sau:
khái niệm hình tượng nghệ thuật, khái niệm thể loại bi kịch, khái niệm nhân
vật văn học.
6. Cấu trúc đề tài
Bài tiểu luận của chúng tôi ngoài phần mở đầu và kết luận thì phần nội
dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
4
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
B/ NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Bi kịch Hi Lạp - niềm tự hào của văn minh Hy Lạp
Bi kịch Hi Lạp cổ đại là niềm tự hào của văn minh Hi Lạp. Đó là những
tác phẩm không chỉ vang bóng một thời mà còn được liệt vào hàng kiệt tác
nên những đặc trưng thể loại của nó vẫn được coi là mẫu mực cho thể loại của
mọi thời đại. Trong đó, thể loại bi kịch là “một bước phát triển cao của nghệ
thuật thơ ca” (Hêghen), nó ra đời trên một cơ sở xã hội nhất định. Đó là thời
kì từ thế kỉ VI đến thế kỉ IV TCN, thời kì tan rã của chế độ công xã thị tộc và
bước đầu xác lập chế độ quốc gia thành bang (Etat – Cite) của xã hội chiếm
hữu nô lệ. Thành bang Aten, nơi khai sinh ra những khúc đitirambơ, nguồn
gốc của bi kịch, là nơi đã chứng kiến một cách đầy đủ và điển hình nhất những
diễn biến, những mâu thuẫn trong sinh hoạt xã hội, ý thức tư tưởng của quá
trình hình thành, phát triển và tàn lụi của chế độ xã hội này. Ở thành bang này
từ thế kỉ thứ VIII,VII TCN đã có những cuộc xung đột giữa tầng lớp quý tộc
cầm quyền và nhân dân, tầng lớp bị trị. Cho nên, thời đại mà bi kịch ra đời là
thời đại mà chế độ dân chủ Aten phát triển đến cao điểm của nó, là chuẩn mực

của toàn Hi Lạp với những cải cách nổi tiếng của Xôlông, Pizitxtơrat,
Clixten,Periklex …Đó cũng là thời kì diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa giai
cấp chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp quý tộc ruộng đất đại diện cho tư tưởng bảo
thủ, lạc hậu, độc tài chuyên chế và tầng lớp chủ nô công thương cùng những
người dân tự do, tiêu biểu cho trào lưu tư tưởng tự do dân chủ. Và đó cũng là
thời kì nền văn hóa Aten phát triển về mọi mặt: những ngôi đền bằng đá cẩm
thạch trắng, những tượng tạc bằng ngà voi và bằng vàng hay đúc bằng đồng
đồ sộ, những đồ gốm có những bức họa sinh động về các điển tích thần thoại.
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
5
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
Có thể nói, xã hội Aten thế kỉ thứ VI – IV là mảnh đất màu mỡ cho sự ra đời
của bi kịch Hi Lạp. Buyse trong Để bảo vệ thơ ca đã nói: “Một nghệ thuật mới
đã xuất hiện” đồng thời với sự “xuất hiện con người mới”. Và đó cũng là
nguồn gốc xã hội đích thực của sự ra đời của bi kịch.
Tuy nhiên, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, bi kịch còn có
nguồn gốc dân gian của nó. Bi kịch ra đời trên cơ sở phát triển những câu
chuyện nói về nỗi gian truân, vất vả của cuộc đời hoặc ca ngợi công đức lớn
lao của ai đó. Nó đã vay mượn hình thức biểu diễn của đội đồng ca đitirambơ
của lễ tế thần Điônizôx – thần rượu nho, thần say, thần hoan lạc…Nhân dân
Hi Lạp sở dĩ chọn thần rượu nho Điônizôx để thờ cúng tế lễ vì vị thần này gắn
với bộ phận sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất của họ: nghề trồng nho và
làm rượu nho. Thứ hai là do thần Điônizôx khác đa số các thần khác ở chỗ đây
là một vị thần bình dân, cuộc đời vô vàn gian nan, khổ ải nên nhân dân lao
động trồng nho đã tìm thấy sự “đồng điệu” trong những ca khúc hát về vị thần
này. Loại hình bi kịch sở dĩ vay mượn hình thức biểu diễn của đội đồng ca thờ
thần Điônizôx là vì trong hàng loạt đội đồng ca ca ngợi các vị thần khác nhau,
chỉ có loại đitirambơ chứa đựng nhiều yếu tố gần gũi với những yêu cầu của
sự biểu hiện bi kịch. Vì là một nền sân khấu hình thành từ những bài hát
đitirambơ và những nghi lễ thờ phụng “tửu thần” cho nên bi kịch Hi Lạp mang

những đặc điểm rõ rệt phản ánh nguồn gốc của nó. Nó không chia thành hồi,
lớp như kịch hiện đại mà diễn một mạch từ đầu đến cuối. Sau mỗi bước tiến
triển của hành động kịch tương đương một hồi thì đội đồng ca lại hát một bài
tương đối dài để gói ghém lại và chuyển tiếp bước sau. Đặc điểm thứ hai là
các kịch bản đều bằng thơ. Phần đồng ca là thơ hát, phần đối thoại là thơ ngâm
nói. Đồng ca trong bi kịch giữ một vai trò quan trọng. Nó là dấu vết nguồn
gốc đitirambơ. Có khi nó là lời phát ngôn của tác giả, có khi là lời bàn, lời phê
phán, lời bình luận của công chúng, nhân dân, của lẽ phải, của lương tri, nó
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
6
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
mang tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Đặc điểm thứ ba là các nhân vật trên sân
khấu đều mang mặt nạ và đi hài cao cổ. Đặc điểm thứ tư là sân khấu có nhiều
dụng cụ biểu diễn y như thật. Đặc điểm tiếp theo là đề tài những tác phẩm bi
kịch còn lại hầu hết đều rút ra từ thần thoại và truyền thuyết, nhất là những
truyền thuyết quen thuộc như truyền thuyết Agamennông, truyền thuyết thành
Técbơ, truyền thuyết về Hêraklex, truyền thuyết thành Tơroa…Và đặc điểm
cuối cùng là kết cấu từ chỗ còn hết sức đơn giản mang tính thuần túy tự sự và
trữ tình đã đạt đến đỉnh cao về sự chặt chẽ lôgic.
Về nội dung, bi kịch Hi Lạp cổ đại có giá trị to lớn, viết về những con
người lương thiện, dũng cảm, những anh hùng đấu tranh vì những mục đích
tốt đẹp, những lí tưởng cao quý nhưng điều kiện khách quan không ủng hộ
nên khiến họ thất bại. Nội dung của bi kịch đề cập qua những khó khăn, gian
khổ mà nhân vật phải trải qua nhưng có một điều là phẩm chất của họ luôn nổi
bật và phẩm chất đó được gợi lên gợi cảm và hấp dẫn người đọc bằng không
khí bi tráng. Các vở bi kịch là cuộc đấu tranh chống lại số mệnh, nhân vật bi
kịch thất bại, lí tưởng mà họ đấu tranh không thực hiện được nhưng tinh thần
của họ gợi lên sự kính phục và tin tưởng trong lòng người xem.
Các tác giả tiêu biểu của bi kịch Hi Lạp là Textic, Prinixcô, Esin,
Xôphôclơ, Ơripit… nhưng trong đó nổi lên ba tác giả lớn, mà tên tuổi sống

mãi cùng sự trường tồn của bi kịch Hi Lạp, đó là Esin, Xôphôclơ, Ơripit. Ba
nhà thơ, ba tính cách, ba cuộc đời khác nhau nhưng sự nghiệp sáng tác của họ
thể hiện sự phát triển, lớn mạnh và nhất là giá trị to lớn của bi kịch Hi Lạp.
1.2. Xôphôclơ - Hôme của nghệ thuật kịch
1.2.1. Cuộc đời
Xôphôclơ được mệnh danh là nhà thơ của thời kì nền dân chủ phồn
vinh. Ông sinh ra ở Côlônơ gần Aten trong một gia đình quý tộc vừa giàu vừa
có quyền, ông bố là của xưởng sản xuất vũ khí nên từ nhỏ ông đã được hấp
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
7
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
thụ một nền giáo dục toàn diện và sớm có năng khiếu thơ ca. Tương truyền
rằng, năm ông 16 tuổi, ông đã chơi đàn Lia trong dàn nhạc chào mừng những
người chiến thắng Xalamin trở về. Ông được mệnh danh là “người con cưng
của hạnh phúc” vì có ngoại hình đẹp, lại có đầy đủ mọi tài năng về vũ, nhạc,
thơ, diễn xuất…Ông đạt được các giải cao trong các cuộc thi về thơ ca, thể
thao…Cuộc đời Xôphôclơ gắn liền với hai thời kì của xã hội Aten: Đó là thời
kì Aten cực thịnh với triều đại Pêriklex hoàng kim và thời kì suy thoái, khủng
hoảng của một Aten ôm mộng bá chủ đã dại đột đọ sức với một kẻ địch thiện
chiến, quả cảm và kiên trì là Xpáctơ. Thời kì cực thịnh của nền dân chủ diễn
ra sau cuộc chiến tranh Hi – La khi Aten trở thành một quốc gia hùng mạnh
nhất của Hi Lạp, làm bá chủ trên mặt biển và cầm đầu một đồng minh có đến
150 thành bang khác, mà thường có những cống nạp để làm giàu cho thành
bang Aten. Đó cũng là thời kì Aten tiến hành xây dựng những công trình kiến
trúc đồ sộ, nguy nga nhưng thanh thoát và trong sáng, những pho tượng tuyệt
vời của Phiđiat, Praxiten ca ngợi vẻ đẹp của hình thể con người… Những
thành tựu về kiến trúc và điêu khắc không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Hi
Lạp mà còn là niềm tự hào của nhân loại, sau này trở thành những kì quan của
thế giới. Đây cũng là thời kì diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, của khoa học chống tôn giáo… Đó là giai đoạn có một

không hai của lịch sử Hi Lạp diễn ra dưới triều đại của Pêriklex – một chính
khách sáng suốt, khéo léo đầy tài năng, xuất thân từ tầng lớp quý tộc công
thương tiến bộ, giàu tinh thần dân chủ, tự do.
Cũng dưới triều đại của Pêriklex, Aten được coi như trung tâm của sự
phát triển văn hóa, giáo dục. Nhiều trường học và trường phái triết học, khoa
học đã mở ra, nhiều sáng tác văn học có giá trị lớn xuất hiện. Pêriklex trong
bài diễn văn Ca ngợi Aten đã thể hiện khuynh hướng nghệ thuật của thời đại
qua câu nói tiêu biểu “chúng ta yêu cái đẹp trong sự giản dị”.
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
8
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
Bản thân ông là nhà hoạt động xã hội được nhân dân tín nhiệm, bầu giữ
nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính quân sự dưới thời Pêriklex
và Nixiax. Năm 443, ông được nhân dân bầu vào Ban quản lí ngân khố quốc
gia. Năm 440, ông được bầu vào Bộ tham mưu chiến lược của Aten. Năm 411,
ông được bầu vào đoàn quan tòa của thị trấn Côlôn. Ngay cả khi ông đã 80
tuổi vẫn được cử trong số 10 người đại diện của nhân dân để giải quyết những
vấn đề cấp thiết. Ông tích cực tham gia những công việc thờ cúng có tính chất
lễ nghi tôn giáo, do đó được nhân dân quý mến, và sau này khi ông mất, thậm
chí họ còn xây cất cho ông một ngôi đền nhỏ thờ ông như một vị anh hùng.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Là nhà thơ của bi kịch, ông có một sự nghiệp rất vĩ đại: ông để lại trên
100 vở kịch nhưng hiện nay chỉ còn lại 7 vở: Ajắc, Những người phụ nữ xứ
Trasi, Ăngtigôn, Êđip làm vua, Êlêctơrơ, Philôctet, Êđip ở Côlônơ. Vở kịch
đầu tiên của ông (nay đã thất lạc), nhan đề là Tritôlem, tương truyền rằng có
sức hấp dẫn khán giả mãnh liệt đến nỗi viên accôngta tổ chức việc thi kịch đã
không để cho vở kịch được chấm thi theo thủ tục thông thường mà giao nó
cho các nhà chỉ huy quân sự do Ximông đứng đầu xem xét. Vở kịch đem lại
giải nhất cho Xôphôclơ.
Xôphôclơ đã có công không nhỏ trong việc phát triển bi kịch bởi vì

ngoài việc sáng tác, ông còn là người đã tăng thêm người diễn viên thứ ba, là
người nâng số lượng đội đồng ca từ 12 lên 15 người tuy rằng đội đồng ca
trong bi kịch của ông chỉ còn giữ vai trò thứ yếu. Ông cũng là người phát
minh ra bối cảnh sân khấu và bỏ loại hình bộ ba vở kịch liên hoàn. Kịch của
ông là chuẩn mực chân xác của chủ nghĩa cổ điển attích.
Đề tài bi kịch của ông hầu hết lấy từ những truyện thần thoại và truyền
thuyết quen thuộc, như đề tài về cuộc chiến tranh thành Tơroa (Ajắc, Êlêctơrơ,
Philôctet), về truyền thuyết thành Técbơ (Ăngtigôn, Êđip làm vua, Êđip ở
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
9
Hình tượng Crêông trong vở bi kịch Ăngtigôn
Côlônơ), và cả truyền thuyết người anh hùng Hêraklex (Những người phụ nữ
xứ Trasi). Những sự kiện lịch sử và chính trị của thời đại ông không in dấu
trực tiếp trong tác phẩm của ông như Esin với Quân Ba Tư hay Ơripit với
những thực tế của cuộc sống con người thời bấy giờ. Ngoại trừ trường hợp
người ta muốn nói đến điều đó một cách gián tiếp như trường hợp trong vở
Êđip ở Côlônơ có đề cập đến việc nhà vua Têzê của Aten đã chấp nhận bảo trợ
Êđíp khốn khổ của thành Tecbơ khi ông ta bị mọi người xua đuổi. Và Êđíp
của Xôphôclơ đã hàm ơn bằng lời hứa là một khi thi thể ông ta được chôn cất
ở Attich sẽ bảo trợ cho thành bang này “thoát khỏi mọi sự xâm phạm của
những đứa con của mẹ đất” – là những kẻ xuất từ cội nguồn Catmôx.
Kịch của ông đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung và giàu tính triết
lý. Xung đột trong kịch là xung đột giữa con người cao quý, trọng danh dự,
tình nghĩa, giàu tính nhân bản…với những thế lực thống trị độc đoán, bạo tàn,
ích kỷ, nhỏ nhen, hoặc giữa con người với tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất
với số mệnh bất công nghiệt ngã, giữa thế thái nhân tình đen bạc, xấu xa với
phẩm chất đạo đức của người tình sâu sắc. Kịch của ông cũng đề cập đến thân
phận người phụ nữ với vấn đề hạnh phúc, tình yêu. Cho nên, khác với bi kịch
của Esin miêu tả thế giới thần thánh với những mâu thuẫn và những ý chí chi
phối cuộc sống của con người, bi kịch của Xôphôclơ miêu tả thế giới của con

người với những đau khổ, buồn vui do chính bản thân họ gây nên. Xôphôclơ
đã “kéo bi kịch từ trên trời xuống hạ giới”.
1.3. Ăngtigôn - vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ
Bi kich Ăngtigôn là một trong những vở bi kịch đặc sắc của Xôphôclơ,
là vở bi kịch mẫu mực của ông về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Đề tài của tác
phẩm được khai thác từ những câu chuyện về thành Técbơ, từ truyền thuyết về
“nỗi bất hạnh của gia đình Êđíp” – một đề tài quen thuộc và gợi nhiều cảm
SVTH: Cao Thị Hạnh – 08SNV
10

×