Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường đại học Hoa Sen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 80 trang )

1



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, khoa học và công nghệ (KH-CN) đã và đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp và là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của từng quốc gia,
từng tổ chức, từng doanh nghiệp.
Có thể nói rằng, KH-CN là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ
cũng như sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH)
đất nước. Bởi vì CNH - HĐH là một quá trình mà trong đó sử dụng năng lực, kinh
nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của dân tộc để đổi mới
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội văn minh và hiện đại.
Quá trình CNH, HĐH đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có chất lượng cao. Vì
vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) trong các
trường đại học là một xu thế tất yếu và mang tính bắt buộc.
Điều 12 của Luật khoa học và công nghệ quy định nhiệm vụ KH&CN của
trường đại học là: “(1) Trường đại học có nhiệm vụ tiến hành NCKH và phát triển
công nghệ, kết hợp đào tạo với NCKH và sản xuất, dịch vụ khoa học và công nghệ
theo quy định của Luật này, Luật giáo dục và các quy định khác của pháp luật; (2)
Trường đại học thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nhiệm vụ khoa học và công
nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước và NCKH về giáo dục”.
Giảng dạy không tách rời nghiên cứu. Đại học của các nước là đại học
nghiên cứu. Xu thế đại học Việt Nam phải là đại học nghiên cứu. Các trường đại
học ở Việt Nam có đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên và học viên sau đại học
lớn. Vì vậy, nếu không đảm bảo thực hiện tốt chức năng NCKH thì sẽ gây lãng phí
rất lớn trong việc sử dụng nguồn nhân lực KH&CN và sẽ có nguy cơ “tụt hậu” rất
xa trong NCKH (chỉ so sánh với các trường đại học ở Đông Nam Á). Muốn có được
kết quả NCKH tốt thì đòi hỏi hoạt động NCKH của trường phải tốt. Tuy nhiên, việc


tổ chức NCKH ở các trường đại học nước ta hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Trường
Đại học Hoa Sen cũng không ngoại lệ. Vì vậy, nghiên cứu những nguyên nhân
2



khách quan, chủ quan khiến hiệu quả hoạt động NCKH của Trường Đại học Hoa
Sen còn yếu để tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH là vấn
đề đang được lãnh đạo Trường quan tâm và là việc làm cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ sự cần thiết trên, học viên chọn đề tài: “Các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động NCKH tại Trường Đại học Hoa Sen” làm luận văn cao học.
2. Mục tiêu đề tài
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH của
Trường Đại học Hoa Sen.
3. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động NCKH của Giảng viên và sinh viên
Trường ĐH Hoa Sen.
- Không gian nghiên cứu: Trường ĐH Hoa Sen.
- Thời gian nghiên cứu: Số liệu được thu thập từ 2008-2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tổng hợp, phân tích một cách hệ thống
các tác động ảnh hưởng của các văn bản luật, các chính sách của Nhà nước
và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các tổ chức hoạt động
KH&CN liên quan đến việc tổ chức hoạt động NCKH; nghiên cứu, phân tích
các chính sách, chiến lược, các báo cáo, tài liệu liên quan đến việc tổ chức
hoạt động NCKH của Trường Đại học Hoa Sen.
- Phương pháp thống kê: thống kê, phân tích những dữ liệu thu được.
- Phương pháp điều tra xã hội học (gửi bảng hỏi điều tra, khảo sát thực tế,
phỏng vấn sâu) để nghiên cứu những thành quả và hạn chế của việc tổ chức
hoạt động NCKH tại Trường Đại học Hoa Sen.

Cụ thể là:
 Gửi phiếu điều tra các giảng viên ở các khoa có liên quan đến hoạt động
NCKH của Trường Đại học Hoa Sen.
3



 Phỏng vấn sâu một số lãnh đạo, nhà quản lý chuyên trách về mảng NCKH,
các chuyên gia tham gia xây dựng và triển khai các đề án phát triển hoạt
động NCKH của Trường Đại học Hoa Sen.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về nghiên cứu khoa học trong trường Đại học
Chương 2. Thực trạng công tác tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học của
Trường Đại học Hoa Sen
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu
khoa học của Trường Đại học Hoa Sen

4



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TRƯỜNG ĐẠI
HỌC
1.1.1 Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1 Khoa học
Thuật ngữ "khoa học" là một khái niệm rất phức tạp ở nhiều mức độ khác
nhau của quá trình tích cực nhận thức hiện thực khách quan và tư duy trừu tượng.
Trong lịch sử phát triển của khoa học đã có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa
học.
Khoa học là hệ thống những tri thức được hệ thống hoá, khái quát hoá từ
thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm; nó phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng
và khái quát những thuộc tính, những cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những
quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời khoa học còn bao gồm hệ thống
tri thức về những biện pháp tác động có kế hoạch đến thế giới xung quanh, đến
nhận thức và làm biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích của con người.
Khoa học là hệ thống những tri thức về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư
duy được tích luỹ trong lịch sử.
Khoa học có nguồn gốc sâu xa từ trong thực tiễn lao động sản xuất, những
hiểu biết (tri thức) ban đầu thường được tồn tại dưới dạng kinh nghiệm.
- Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích luỹ một cách ngẫu nhiên
trong đời sống hàng ngày, nhờ đó con người hình dung được sự vật, biết
cách phản ứng trước tự nhiên, biết ứng xử trong quan hệ xã hội. Tuy chưa đi
sâu vào bản chất sự vật, song những tri thức kinh nghiệm làm cơ sở cho sự
hình thành các tri thức khoa học.
- Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích luỹ một cách hệ thống và
được khái quát hoá nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học. Nó không phải là sự
5



kế tục giản đơn các tri thức kinh nghiệm mà là sự khái quát hoá thực tiễn sự
kiện ngẫu nhiên, rời rạc thành hệ thống các tri thức bản chất về sự vật hiện
tượng. Các tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các bộ môn khoa
học.

Như vậy, khoa học ra đời từ thực tiễn và vận động, phát triển cùng sự vận
động, phát triển của thực tiễn. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, thậm chí nó vượt lên trước hiện thực hiện có. Vai trò của khoa học ngày càng
gia tăng và đang trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học là một quá trình nhận thức: tìm tòi, phát hiện các quy luật của sự
vật hiện tượng và vận dụng các quy luật đó để sáng tạo ra nguyên lý các giải pháp
tác động và các sự vật hoặc hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng. Khoa
học chỉ tìm thấy chân lý khi áp dụng được các lý thuyết của mình vào thực tiễn một
cách hiệu quả.
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội - một bộ phận hợp thành của ý thức
xã hội. Nó tồn tại mang tính độc lập và phân biệt với các hình thái ý thức xã hội
khác ở đối tượng, hình thức phản ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt.
Nhưng nó có mối quan hệ đa dạng và phức tạp với các hình thái ý thức xã hội khác,
tác động mạnh mẽ đến chúng. Ngược lại, các hình thái ý thức xã hội khác cũng có
ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học, đặc biệt đối với sự truyền bá, ứng dụng
các tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống.
Khoa học là một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp xã hội đặc thù: Là
hoạt động sản xuất tinh thần mà sản phẩm của nó ngày càng tham gia mạnh mẽ và
đầy đủ vào mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là sản xuất vật chất thông qua sự
đổi mới hình thức, nội dung, trình độ kỹ thuật, công nghệ và làm thay đổi chính cả
bản thân con người trong sản xuất. Xuất phát từ đó, xã hội yêu cầu phải tạo ra cho
khoa học một đội ngũ những người hoạt động chuyên nghiệp có trình độ chuyên
môn nhất định, có phương pháp làm việc theo yêu cầu của từng lĩnh vực khoa học.


6



1.1.1.2 Nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học là quá trình khám phá, phát hiện những thuộc tính bản
chất của sự vật hiện tượng và những quy luật của chúng để sáng tạo ra những giải
pháp tác động vào sự vật hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng thành mục
đích của con người.
Đây là một hoạt động đặc biệt, hoạt động có mục đích, có kế hoạch tổ chức
chặt chẽ của một đội ngũ các nhà khoa học với các phẩm chất đặc biệt được đào tạo
ở một trình độ cao.
Như vậy nghiên cứu khoa học nói cho cùng cũng là nhằm thỏa mãn nhu cầu
nhận thức và cải tạo thế giới.
- Khám phá các thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng của thế giới hiện
thực.
- Phát hiện các quy luật của sự vật trong hiện thực.
- Vận dụng những quy luật để vận dụng sáng tạo giải pháp tác động vào sự
vật.
Nghiên cứu khoa học là một dạng lao động phức tạp nhất trong các dạng
hoạt động của xã hội loài người ngày nay. Nghiên cứu khoa học là một trong những
hoạt động có tốc độ nhanh nhất thời đại.
1.1.1.3 Tổ chức Khoa học và công nghệ
Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ
khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của
pháp luật.
Theo điều 9 - Luật Khoa học và công nghệ năm 2013, hình thức của tổ chức
khoa học và công nghệ được quy định như sau:
 Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm, phòng
thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và hình thức
khác do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định;
7




 Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức theo quy định của Luật giáo dục đại
học;
 Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được tổ chức dưới hình thức trung
tâm, văn phòng, phòng thử nghiệm và hình thức khác do Bộ trưởng Bộ Khoa
học và Công nghệ quy định.
Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định Trường Đại học là một tổ chức
khoa học và công nghệ với hai chức năng là đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động NCKH đòi hỏi sự vận dụng, bố trí,
sắp xếp và sử dụng hiệu quả các mối liên kết giữa các nguồn lực KH - CN trong
tổ chức.
1.1.2 Các đối tượng thực hiện NCKH trong Trường ĐH
Đối tượng thực hiện nghiên cứu khoa học trong trường đại học gồm:
1.1.2.1. Giảng viên
Hoạt động NCKH là một trong hai nhiệm vụ chính của giảng viên (Điều 4;
Điều 5 Quyết định số 64 ngày 20/11/2008 của Bộ giáo dục và đào tạo). Hoạt động
này có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng đối với giảng viên và nhà trường.
- Hoạt động NCKH là một lĩnh vực rất tốt để giảng viên tự khẳng định mình.
Thật là khiếm khuyết nếu một giảng viên được đánh giá là có năng lực
nhưng hàng năm lại không có công trình khoa học nào. Vì năng lực của
giảng viên được thể hiện chủ yếu thông qua giảng dạy và NCKH. Qua tham
gia NCKH, giảng viên không những được khẳng định mà còn thấy được
những hạn chế trong tri thức của mình để kịp thời bổ sung.
1.1.2.2. Sinh viên
- Nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động trí tuệ giúp sinh viên vận
dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong học tập
và trong thực tiễn, trong đó sinh viên bước đầu vận dụng một cách tổng hợp
những tri thức đã học để tiến hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên
cứu, bước đầu góp phần giải quyết những vấn đề khoa học do thực tiễn cuộc

8



sống và nghề nghiệp đặt ra để từ đó có thể đào sâu, mở rộng và hoàn thiện
vốn hiểu biết của mình.
1.2 NỘI DUNG CƠ BẢN NHẤT VỀ NCKH VÀ CÔNG NGHỆ
1.2.1 Các loại hình NCKH
- Nghiên cứu cơ bản: Là nghiên cứu nhằm để phát hiện bản chất và quy luật
của sự vật trong hiện thực: có thể dựa trên các tiên đề, dựa trên quan sát hoặc thực
nghiệm. Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản là các phát hiện, sáng kiến, công thức,
phát minh. Có rất nhiều hướng nghiên cứu cụ thể.
- Nghiên cứu ứng dụng: Là vận dụng kết quả nghiên cứu cơ bản vào môi
trường mới của sự vật để xây dựng các giải pháp, nguyên lí cụ thể trong tổ chức,
quản lý hoạt động thực tiễn của con người.
- Nghiên cứu triển khai: Là vận dụng các quy luật (từ nghiên cứu cơ bản), các
nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra hình mẫu cụ thể với các
tham số đủ mang tính khả thi về kỹ thuật Sản phẩm của nghiên cứu này là các
hình mẫu, mẫu vật… cụ thể đáp ứng vào yêu cầu của đời sống hiện thực.
- Nghiên cứu thăm dò: là loại hình nghiên cứu cơ sở cho các loại nghiên cứu
khác, có tính định hướng cho các quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể của các lĩnh
vực khác.
- Nghiên cứu dự báo: cũng là loại hình cơ sở cho các nghiên cứu khác, nhưng
là phạm vi nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai.










Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu ứng dụng
Triển khai
Nghiên cứu cơ bản
thuần tuý
Nghiên cứu cơ bản định
hướng
Triển khai trong phòng
(labô)
Triển khai bán đại trà
(pilot)

Nghiên cứu nền tảng
Nghiên cứu
chuyên đề
Hình 1.1: Quan hệ giữa các loại hình NCKH
9



1.2.2 Những đặc điểm của NCKH
Đặc điểm chung nhất của NCKH là sự tìm tòi những tri thức mà khoa học
chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt các đặc điểm khác của NCKH mà
nhà nghiên cứu, cũng như người quản lý và cơ quan quản lý nghiên cứu cần quan
tâm xử lý những vấn đề về mặt phương pháp luận và việc tổ chức nghiên cứu.
Những đặc điểm của NCKH là:
- Tính mới: Quá trình nghiên cứu hướng vào phát hiện, sáng tạo ra những điều

mà người khác chưa biết hoặc những sản phẩm cùng loại nhưng có tác dụng
mới (đa chức năng). Đây là thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa
học vì nghiên cứu khoa học là quá trình thâm nhập vào thế giới của các sự
vật mà con người chưa biết.
- Tính tin cậy: Đặc điểm phản ánh kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ
được thừa nhận nhờ các phương pháp nghiên cứu nào đó mà người ta có thể
kiểm chứng được nhiều lần do nhiều người thực hiện trong nhiều hoàn cảnh
khác nhau nhưng kết quả thu được phải giống nhau về mặt định tính.
- Tính thông tin: Nghiên cứu khoa học là quá trình vận dụng và xử lý thông
tin, sản phẩm khoa học luôn mang đặc trưng thông tin. Các thông tin trong
nghiên cứu khoa học được chứa đựng dưới dạng ngôn ngữ hoặc ký tự đã
được mã hóa để con người có thể trao đổi với nhau.
- Tính khách quan: Nghiên cứu khoa học phản ánh đúng đắn các thuộc tính
của sự vật, các sự vật này phải được lật đi lật lại các khía cạnh, các vấn đề
liên quan mới đi đến kết luận. Phải đi từ bản chất của chúng để kiểm chứng
kết quả. Người nghiên cứu phải xác định được: kết luận đó có đúng không?
Còn cách nào khác không để cho ta kết quả khác? Đã tìm được lời giải đáp
trọn vẹn cho giả thiết chưa?
- Tính kế thừa: Các phát hiện khoa học thường được bắt đầu từ các kết quả
nghiên cứu trước đó, mỗi nghiên cứu phải kế thừa các kết quả nghiên cứu
trong các lĩnh vực khoa học rất khác nhau; không có một công trình khoa học
nào bắt đầu từ chỗ hoàn toàn trống không về kiến thức.
10



- Tính cá nhân: Được thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá
nhân. Vai trò cá nhân trong sáng tạo mang tính chất quyết định kể cả quá
trình nghiên cứu khoa học xác định do một tập thể thực hiện. Tính cá nhân
được thể hiện ở tính nghiên cứu vấn đề, ở cách thức (phương pháp) hình thức

nghiên cứu, vận dụng và loại phương tiện nghiên cứu vận dụng trong quá
trình nghiên cứu…
- Tính rủi ro: Trong quá trình nghiên cứu khoa học có thể không tìm ra kết
quả, hay lời giải, song nó cũng được thừa nhận đóng góp cho một công cuộc
nghiên cứu để mách bảo những nghiên cứu sau này tránh được sai lầm mà
nghiên cứu trước đó đã trải qua hay mắc phải.
1.2.3 Định hướng NCKH và công nghệ
Luật Khoa học công nghệ 2013 xác định “Tổ chức nghiên cứu và phát triển
cấp cơ sở chủ yếu thực hiện các hoạt động KH-CN theo mục tiêu, nhiệm vụ do tổ
chức, cá nhân thành lập xác định”.
Định hướng NCKH và công nghệ được xây dựng theo kế hoạch ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn, phù hợp với mục tiêu phát triển của tổ chức.
1.2.4 Tuyển chọn đề tài NCKH
1.2.4.1 Đề tài NCKH
Là một nhiệm vụ nghiên cứu do một người hoặc một nhóm người thực hiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu là cơ sở để hoạch định kế hoạch. Có các nguồn nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Chủ trương phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia:
Khoa học công nghệ ngày nay phát triển rất nhanh chóng, cạnh tranh thị
trường rất quyết liệt. Có rất nhiều đề tài nghiên cứu triển khai chịu sự ràng buộc của
thời gian đạt được hiệu quả kinh tế, nhưng có một số đề tài đang trong quá trình
nghiên cứu chế tạo, công việc chưa kết thúc mà sản phẩm đã lạc hậu. Để tránh tình
trạng này, căn cứ vào xu hướng phát triển của khoa học công nghệ, vào nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, nhà nước đề ra quy hoạch dài hạn và xác định
tổng mục tiêu. Trên cơ sở đó và căn cứ vào tình hình phát triển khác nhau, nhà
11



nước, ngành, địa phương định kỳ để ra hướng ưu tiên. Những cơ quan có điều kiện

có thể căn cứ vào những hướng nằm trong quy hoạch, hướng dẫn để chọn ra một số
hướng, tiến hành nghiên cứu trước, làm công tác chuẩn bị về mặt kĩ thuật để trình
duyệt kế hoạch hằng năm. Nguồn kinh phí cho các đề tài loại này do nhà nước cấp.
- Đề tài được giao từ cơ quan cấp trên
Những quốc gia trên thế giới có kĩ thuật tiên tiến, công nghiệp phát triển đều
rất coi trọng nguyên tắc kết hợp giữa kết quả dự báo kĩ thuật với đặc điểm phát triển
kinh tế của nước mình để xác định chuyên ngành mũi nhọn và đề tài nghiên cứu
triển khai trọng điểm cho từng thời kì lịch sử. Đồng thời chính phủ hoặc ngành công
nghiệp hữu quan có sự sắp xếp nhiệm vụ nghiên cứu riêng và chỉ định đơn vị đảm
nhận nhiệm vụ. Ở đây kinh phí nghiên cứu khoa học do nhà nước cấp, kế hoạch
nghiên cứu khoa học do cơ quan chủ quản ủy thác, hội đồng chuyên gia trực tiếp
cân đối, điều hành. Số lượng đề tài được duyệt và các chương trình này có hạn và
những yêu cầu đối với nhân lực, thiết bị của đơn vị đảm nhận nhiệm vụ rất cao.
- Đề tài xuất phát từ nghiên cứu thị trường
Điều tra và phân tích nhu cầu thị trường (bao gồm thị trường sản phẩm và thị
trường công nghệ) có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cơ quan nghiên cứu triển
khai. Mục đích của điều tra thị trường là để quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm,
làm rõ tính chất, quy mô của thị trường, phân tích tình hình cạnh tranh của thị
trường (giá cả, phân phối, tiêu thụ) đồng thời dự báo lượng tiêu thụ của thị trường.
Trong điều tra thị trường còn phải tiến hành nghiên cứu tâm lý người tiêu dùng để
dự báo tiềm lực của thị trường và những yêu cầu của người tiêu dùng đối với sản
phẩm, đồng thời cần dự báo những rủi ro mà thị trường không thể dự báo được.
Nghiên cứu thị trường cung cấp những tư liệu mang tính chỉ đạo cho tiêu thụ, sản
xuất của các công ty, doanh nghiệp, cung cấp những số liệu tin cậy cho việc xác
định mục tiêu và đề tài nghiên cứu triển khai. Nguồn tài chính ở đây do người sản
xuất cung cấp.

12




- Đề tài xuất phát từ ủy thác theo chiều ngang
Lấy hợp đồng nghiên cứu khoa học làm căn cứ, ủy thác theo chiều ngang là
nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu khoa học giữa các viện nghiên cứu với viện nghiên
cứu, giữa viện nghiên cứu với các doanh nghiệp. Những đề tài nghiên cứu ủy thác
vượt ra ngoài bộ môn khoa học, ngành chủ quản này có mục đích ứng dụng rõ ràng,
chu kỳ tương đối ngắn. Nguồn tài chính do cơ quan có nhu cầu cấp.
- Đề tài xuất phát từ hợp tác quốc tế
Nội dung của hợp tác quốc tế bao gồm giao lưu chuyên gia, cùng nhau
nghiên cứu, trao đổi thông tin… Phương thức hợp tác khoa học công nghệ quốc tế
có hợp tác song phương giữa các đơn vị cơ sở và kế hoạch hợp tác giữa các chính
phủ.
- Nhiệm vụ do người nghiên cứu tự đặt cho mình
Trong trường hợp này người nghiên cứu phải tự túc kinh phí.
1.2.4.2 Tên đề tài NCKH
Tên đề tài là mục phản ánh nội dung cô đọng nhất về nội dung nghiên cứu
của một đề tài NCKH. Tên đề tài phải là một sự kiện khoa học, ở đó có chứa mâu
thuẫn giữa lý thuyết hiện hữu và thực tế mới phát sinh.
1.2.4.3 Tổ chức đề tài NCKH
Đề tài có thể do một người hoặc một nhóm thực hiện. Nếu là một nhóm
người thực hiện thì gồm có:
- Chủ nhiệm đề tài
- Thư ký đề tài
- Các thành viên của đề tài (mỗi thành viên phụ trách một mục tiêu).
1.2.5 Đánh giá kết quả NCKH
Theo Vũ Cao Đàm thì “Đánh giá là một sự so sánh, dựa trên một chuẩn mực
nào đó, để xem xét một sự vật là tốt hơn hoặc xấu hơn một sự vật làm chuẩn, trong
đó có những chỉ tiêu về chuẩn mực”.
13




Đánh giá kết quả nghiên cứu chính là lượng định giá trị của kết quả nghiên
cứu về mặt số lượng, chất lượng của kết quả. Đây là một trong những nhiệm vụ rất
quan trọng của công tác tổ chức và quản lý hoạt động NCKH.
Một kết quả nghiên cứu khoa học có thể có các hiệu quả sau:
- Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả xã hội
- Hiệu quả khoa học
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả chóng nhận thấy và dễ đánh giá nhất. Còn hiệu
quả xã hội và hiệu quả khoa học rất khó đánh giá do tác động của nó không dễ thấy
và có tác dụng khá lâu dài. Vì vậy khó có thể đánh giá một cách toàn diện một kết
quả nghiên cứu khoa học.
Hiện nay để đánh giá một đề tài, người ta quy định sử dụng một hệ thống chỉ
tiêu gồm một số mức: giỏi, khá, đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu. Tuy nhiên trước
khi hệ thống đánh giá chính thức này được đưa ra, nhiều nơi đã xây dựng những
thang đánh giá tương đối phù hợp với hoạt động nghiên cứu khoa học (và hiện nay
vẫn được sử dụng như một phương pháp đánh giá sơ bộ đối với những đề tài chưa
được nghiệm thu). Bản chất thang đó có một số điểm quan trọng sau:
- Tiến độ phù hợp kế hoạch đã đăng ký với cơ quan chủ quản
- Phương pháp nghiên cứu đúng đắn
- Kết quản nghiên cứu phù hợp mục đích.
1.3 CÁC NGUỒN LỰC TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nguồn lực khoa học là yếu tố đầu vào của nghiên cứu. Chính các yếu tố này
tập hợp tạo nên hoạt động NCKH, đảm bảo cho việc thực hiện tốt các ý tưởng
nghiên cứu.
1.3.1 Nhân lực
Là tập hợp những nhóm người tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa
học và công nghệ với các chức năng nghiên cứu sáng tạo, giảng dạy, quản lý, khai
thác sử dụng và tác nghiệp, góp phần quyết định tạo ra sự tiến bộ của KH-CN, của

sự phát triển sản xuất và xã hội.
14



1.3.2 Tài lực
Là nguồn kinh phí dành cho hoạt động NCKH. Nguồn kinh phí này có thể từ
ngân sách Nhà nước, các tổ chức tư nhân, tổ chức quốc tế hoặc có thể từ bản thân
người nghiên cứu.
1.3.3 Trang thiết bị phục vụ cho NCKH
Là nguồn tài nguyên, vật chất cần thiết để có thể thực hiện các phương án kỹ
thuật và triển khai trong các hoạt động KH-CN, bao gồm các máy móc thí nghiệm,
thiết bị, nguyên liệu, vật liệu, công cụ, phòng thí nghiệm,…
1.3.4 Hệ thống thông tin cho NCKH
Là nguồn thông tin KH-CN, được lưu giữ bằng các hình thức như văn bản,
hình ảnh, ngôn ngữ, cơ sở dữ liệu trên mạng Internet,…
1.4 CHÍNH SÁCH QLKH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC
1.4.1 Khái niệm “chính sách”
Trong phạm vi luận văn này, các văn bản quy định về hoạt động KH&CN
mà Trường Đại học Hoa Sen ban hành như chế độ làm việc của giảng viên, quy chế
về hoạt động NCKH cho giảng viên và sinh viên, quy chế chi tiêu nội bộ tuân thủ
theo quy định hiện hành của Nhà nước là những chính sách được hiểu và vận dụng
theo cách tiếp cận tổng hợp và định nghĩa tổng quát nêu trên.
1.4.2 Các chính sách tác động đến hoạt động KH-CN ở các trường Đại học
Giáo dục, KH-CN luôn được Đảng và Nhà nước xem là quốc sách hàng đầu.
Điều đó được thể hiện thông qua luật, một số các chủ trương, chính sách, văn bản
dưới luật. Cụ thể:
- Luật giáo dục đại học 2013: quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ sở giáo dục đại học, hoạt động đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ,

hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo
dục đại học, giảng viên, người học, tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại
học và quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
15



- Luật khoa học và công nghệ 2013: quy định về tổ chức, cá nhân hoạt động
khoa học và công nghệ; việc tổ chức thực hiện hoạt động khoa học và công
nghệ; biện pháp bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ; quản lý nhà
nước về khoa học và công nghệ.
- Thông tư số 19/2012/TT-BGDĐT quy định về hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học (01/6/2012).
- Quy định chế độ làm việc của Giảng viên - Ban hành kèm theo Quyết định số
64/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28 tháng 11 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2002.
- Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020, theo
Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/04/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
1.5. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NCKH TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.5.1. Đối với Giảng viên và sinh viên
1.5.1.1. Đối với giảng viên
Giúp giảng viên mở rộng, tìm hiểu sâu kiến thức chuyên môn để giảng dạy
tốt hơn. Người giảng viên muốn có bài giảng hấp dẫn, khúc chiết, rõ ràng, mạch lạc
phong phú thì trước hết phải có kiến thức chuyên môn thật vững, phông kiến thức
nền thật rộng. Nhưng kiến thức được đào tạo ở trường đại học hoặc qua cao học
mới chỉ là một phần rất nhỏ trong bể kiến thức vô cùng rộng lớn. Do đó, để giảng
dạy tốt, giảng viên phải tự bồi dưỡng kiến thức cho mình thông qua họat động

NCKH. Với hoạt động này, buộc giảng viên phải đọc, phải suy ngẫm, phải tìm tòi
cái mới, phải giải thích, phân tích, chứng minh vấn đề đặt ra. Những hoạt động tư
duy đó làm cho trình độ nhận thức của giảng viên ngày càng được nâng cao, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người học.
Với sự phát triển tốc độ chóng mặt của khoa học hiện nay, kiến thức cũ đã
rất nhanh bị lạc hậu. Nếu giảng viên không tham gia NCKH thì sẽ khó có thể cập
16



nhật những kiến thức mới, bài giảng sẽ thiếu tính thực tiễn. Chỉ thông qua thực hiện
đề tài NCKH buộc giảng viên phải tìm tòi tài liệu, phải đọc rất nhiều để tìm ra
những tri thức mới.
Giảng viên phải tích cực tham gia NCKH để củng cố kiến thức chuyên môn
thì khi đứng trước sinh viên sẽ tự tin, chững chạc thực hiện tốt bài giảng và như vậy
họ sẽ có uy tín đối với sinh viên, được sinh viên quý trọng. Không có trường hợp
giảng viên giảng không tốt nhưng lại có uy tín đối với sinh viên vì uy tín của giảng
viên phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy và nhân cách của thầy, cô giáo. Nếu giảng
viên lên lớp giảng tốt, được sinh viên quý trọng thì họ sẽ yêu nghề hơn, tâm huyết
hơn và càng ra sức nâng cao trình độ chuyên môn để không phụ lòng tin yêu của
sinh viên. Giảng viên có lương tâm nghề nghiệp sẽ rất chán nản khi mình giảng cho
sinh viên không hiệu quả và sẽ tự chán mình trước khi sinh viên chán mình.
1.5.1.2. Đối với sinh viên
Hoạt động nghiên cứu khoa học mang lại những ý nghĩa thiết thực đối với
sinh viên. Bằng nhiều hình thức khác nhau như viết tiểu luận, báo cáo thực tập, làm
khóa luận, nghiên cứu khoa học sẽ rèn luyện cho sinh viên khả năng tư duy sáng
tạo, khả năng phê phán, bác bỏ hay chứng minh một cách khoa học những quan
điểm, rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp kiến thức, tư duy lôgic, xây dựng tinh
thần hợp tác, giúp đỡ nhau trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó,
nghiên cứu khoa học sẽ tạo ra những bước đi ban đầu để sinh viên tiếp cận với

những vấn đề mà khoa học và cuộc sống đang đặt ra, gắn lý luận với thực tiễn.
Trong quá trình nghiên cứu, sinh viên phải thường xuyên làm việc tích cực,
độc lập với sách báo, tư liệu, thâm nhập thực tế, điều tra khảo sát, phỏng vấn Nhờ
đó, không những tầm hiểu biết của sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học được
mở rộng mà họ còn dần dần nắm được phương pháp, cách thức tổ chức nghiên cứu,
sắp xếp công việc, khả năng giao tiếp và niềm tin khoa học, từng bước hình thành
những tố chất và bản lĩnh cần có của người cán bộ khoa học trong tương lai.
Trên đường học tập và nghiên cứu nhiều khái niệm, công thức có thể sẽ bị
quên đi, cái còn lại lâu dài trong mỗi người học là phương pháp - phương pháp tư
17



duy, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, phương pháp nghiên cứu, phương
pháp giải quyết vấn đề… mà cái đó mới quan trọng cho cuộc đời và nghề nghiệp
của mỗi người. Phương pháp học tập, kỹ năng nghiên cứu khoa học có thể thu lượm
được sau những tháng năm miệt mài học tập, rút kinh nghiệm từ những thành công
và thất bại thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học.
Đất nước đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để
thực hiện thành công sự nghiệp lớn lao này đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Riêng đối với sinh viên, trước hết phải nhận
thức được tầm quan trọng của mình trong sự nghiệp chung. Từ đó, xác định trách
nhiệm của bản thân đối với sự đi lên mạnh mẽ của đất nước. Trong tình hình mới
đó, nhiệm vụ đặt ra cho mỗi sinh viên là phải học tập: học tập một cách khẩn
trương, kiên trì, không biết mệt mỏi để nắm lấy mọi tri thức cần thiết, chiếm lĩnh
những đỉnh cao của khoa học công nghệ, trở thành những người có chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng, những nhà quản lý giỏi, tích cực nghiên cứu, sáng tạo góp
phần vào sự nghiệp chung của dân tộc, đưa đất nước sánh vai với bè bạn năm châu.
Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học chính là chìa khóa thành công của
sinh viên trên đường học tập và nghiên cứu ở nhà trường đại học, cao đẳng.

1.5.2 Đối với bản thân Trường Đại học
Trong thời đại ngày nay, KH-CN đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Các quá trình sản sinh, tích luỹ và sử dụng kiến thức ngày càng xâm nhập vào nhau
một cách hữu cơ. Sự tích luỹ các quá trình đó thúc đẩy nhanh chóng quá trình hình
thành hệ thống Giảng dạy- Khoa học - Sản xuất. Đây là biện pháp quan trọng thực
hiện nguyên lý học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn.
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, uy tín của một trường Đại
học được đánh giá tuỳ thuộc vào chất lượng đào tạo của trường đó. Chất lượng đào
tạo là sản phẩm cuối cùng của một quy trình đào tạo bao gồm nhiều khâu, từ mục
tiêu, chương trình đào tạo, kiểm tra đánh giá và các điều kiện thực hiện quy trình.
Vì vậy, chất lượng đào tạo là một khái niệm động và phụ thuộc nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó có vai trò của hoạt động NCKH. Nói một cách khác, NCKH là một
18



chức năng không thể thiếu và có một mối quan hệ mật thiết với chức năng đào tạo
của trường Đại học.
Nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ vừa là điều kiện, vừa là
phương pháp trong giáo dục đại học (learning by doing - học qua việc làm). Nói
cách khác, phải đào tạo nghiên cứu và cho nghiên cứu. Do có các hoạt động NCKH,
trình độ khoa học của đội ngũ cán bộ giảng dạy được nâng lên, liên tục cập nhật
kiến thức của thời đại. Ngoài ra, thông qua việc thực hiện đề tài NCKH các cấp, các
tập thể nghiên cứu khoa học và công nghệ của các trường Đại học được hình thành,
củng cố và có điều kiện phát huy tác dụng. Hoạt động NCKH còn gắn liền với công
tác đào tạo cán bộ có trình độ cao, nhiều kết quả của các đề tài NCKH là nội dung
chủ yếu của các luận án tiến sĩ, thạc sĩ của cán bộ giảng dạy. Người thầy là yếu tố
quan trọng bậc nhất, ông bà ta thường nói “không thầy đố mày làm nên”, thầy có
làm tốt thì mới hướng dẫn được trò. Do đó, NCKH của người thầy đã góp phần vào
việc nâng cao chất lượng giảng dạy.

Hoạt động nghiên cứu khoa học là một trong những tiêu chí có trọng số cao
trong việc đánh giá xếp hạng một trường đại học theo tiêu chuẩn của các tổ chức
giáo dục thế giới. Mặc dù cách đánh giá của các tổ chức trên thế giới có khác nhau
ít nhiều, nhưng có điểm thống nhất là phần trọng số đánh giá cho hoạt động NCKH
thường không dưới 50%.

19



Bảng 1.1. Tiêu chí xếp hạng trường đại học Châu Á
Tiêu chí
Chỉ số
Trọng
số (%)
Chất lượng
nghiên cứu
Đánh giá ngang hàng của các học giả châu Á
(các học giả hiểu biết về nghiên cứu trong các
trường đại học châu Á)
30
Số bài báo khoa học bình quân cán bộ giảng
dạy
15
Số lần trích dẫn bình quân bài báo
15
Chất lượng
giảng dạy
Tỷ lệ sinh viên so với giảng viên
20

Khả năng
kiếm việc của
sinh viên tốt
nghiệp
Đánh giá của chủ sử dụng lao động châu Á
(các chủ sử dụng lao động có kinh nghiệm
tuyển dụng học sinh của các trường châu Á)
10
Quốc tế hóa
Giảng viên quốc tế
2,5
Sinh viên quốc tế
2,5
Sinh viên trao đổi quốc tế đến
2,5
Sinh viên trao đổi quốc tế đi
2,5
Nguồn trích dẫn: Tiêu chí của Công ty Quacquarelli Symonds;
Tiêu chí đánh giá của Công ty Quacquarelli Symonds, một tổ chức chuyên
xếp hạng các trường đại học trên thế giới, cho thấy trọng số của chất lượng NCKH
(bao gồm các học giả ngang hàng, số bài báo khoa học bình quân của cán bộ giảng
dạy, số lần được trích dẫn) chiếm tới 60%.
Xét theo tiêu chí này thì hầu như không có trường đại học nào của Việt Nam
nằm trong top 200 các trường đại học của Châu Á. Như vậy để vươn lên tầm hàng
đầu của khu vực, các trường đại học cần chú trọng tới tăng cường hoạt động và chất
lượng NCKH kết hợp với đào tạo.
20




1.5.3 Đối với xã hội
Hiệu quả của hoạt động NCKH trong trường Đại học có tác dụng đối với xã
hội qua nhiều mặt:
1.5.3.1. Về học thuật
Khoa học cơ bản (các lĩnh vực của khoa học tự nhiên cũng như của khoa học
xã hội) là một giá trị văn hoá - vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội. Sự
phát triển các ngành khoa học cơ bản của nước ta là rất cần thiết vì chúng là nền
tảng cho các nghiên cứu ứng dụng và là nền tảng cho việc tiếp thu các công nghệ
mới của nhân loại. Sự phát triển của các khoa học cơ bản gắn chặt với triển vọng và
khuynh hướng phát triển của sự phát triển giáo dục đại học, bởi vì các trường đại
học phải cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản làm cơ sở cho họ trong 30-
40 năm công tác sau này, đồng thời dạy họ cách tự học và cung cấp cho họ những
hiểu biết thực tiễn của 5-10 năm đầu công tác. Muốn làm được việc đó phải có một
đội ngũ thầy cô giáo có trình độ cao về khoa học cơ bản, các trường Đại học phải
trở thành trung tâm khoa học cơ bản mạnh.
Kết quả của các nghiên cứu cơ bản có thể chưa tác động trực tiếp và tức thời
đến sản xuất và đời sống, nhưng hiệu quả gián tiếp của nghiên cứu cơ bản là rất
quan trọng, vì đây là cơ sở cho việc chiếm lĩnh và sáng tạo các đỉnh cao của KH-
CN, là cơ sở cho việc hoạch định các đường lối chính sách đảm bảo cho việc phát
triển bền vững quốc gia.
Ngoài ra, các trường Đại học còn đóng vai trò chủ yếu trong đào tạo nguồn
nhân lực KH-CN cho quốc gia, trong đó có việc đào tạo nhân lực có chất lượng cao
như đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ.
1.5.3.2. Về kinh tế
Nhiều đề tài sau khi kết thúc giai đoạn nghiên cứu triển khai được ứng dụng
vào sản xuất đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hoạt động triển khai ứng dụng kết quả
NCKH vào sản xuất của các trường Đại học đã phát triển mạnh.
Các dự án sản xuất thử nghiệm đã có tác dụng tốt là nhanh chóng đưa các kết quả
NCKH vào thực tiễn giúp khẳng định tính đúng đắn của đề tài nghiên cứu. Việc
21




thực hiện các dự án sản xuất thử - thử nghiệm và các hợp đồng NCKH đã gắn nhà
trường với xã hội. Các trường Đại học đã thực sự góp phần vào sự phát triển, tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Ngoài ra, bằng những loại hình hoạt động NCKH trên,
các trường Đại học có thêm nguồn vốn tự có (dù còn rất ít ỏi) để tăng cường cơ sở
vật chất, cải thiện đời sống cán bộ, giảng viên trong nhà trường.
1.5.3.3. Về xã hội
Hoạt động NCKH của ngành giáo dục thời gian vừa qua đã chứng tỏ vai trò
không nhỏ của công tác NCKH trong trường Đại học, kết quả của các đề tài nghiên
cứu đã góp phần xây dựng cơ sở lý luận cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, xác
lập các luận cứ khoa học nhằm đổi mới, hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản
lý, kiến nghị về phương hướng và các biện pháp, điều kiện đảm bảo sự tăng trưởng
kinh tế bền vững.
Ngoài ra, các trường Đại học còn là nơi chủ trì tổ chức nhiều Hội nghị, Hội
thảo lớn trong và ngoài nước. Các hội thảo và hội nghị khoa học không những là
nơi trao đổi các kết quả, kinh nghiệm và thông tin khoa học mới nhất mà còn là nơi
gặp gỡ, liên kết giữa các hoạt động KH-CN giữa các nhà khoa học, giữa các trường
đại học, các viện nghiên cứu và các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước.
22



Kết luận chương 1

Chúng ta phải khẳng định công tác nghiên cứu khoa học càng chuyên sâu và
đa dạng thì càng có lợi cho phát triển nguồn nhân lực cao trong các cơ sở đào tạo và
tận dụng được nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ trong nước với chi phí
thấp, đáp ứng nhu cầu xã hội. Không phủ nhận, NCKH đã góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục, đặc biệt là đào tạo sau ĐH và đào tạo cán bộ khoa học trẻ kế cận.
Tuy nhiên, hoạt động NCKH trong các trường đại học hiện nay vẫn chưa thật sự
tương xứng với tiềm năng. Hiện bước đầu, hoạt động NCKH đã gắn với đào tạo
trong các lĩnh vực KHCN ưu tiên như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, KH
vật liệu… nhưng trên thực tế, nhận thức của cán bộ quản lý các cấp và giảng viên
các trường về tầm quan trọng đặc biệt của NCKH và chuyển giao công nghệ chưa
đầy đủ.
Để lý giải cho vấn đề chậm phát triển trong công tác NCKH tại các trường
ĐH và CĐ, rất nhiều nguyên nhân đã được đưa ra là đội ngũ cán bộ khoa học còn
phân tán, chưa liên kết được với nhau để hình thành những nhóm nghiên cứu mạnh.
Mặt khác các chính sách tạo động lực cho NCKH chưa đủ mạnh và hấp dẫn đối với
đội ngũ giảng viên. Kinh phí dành cho khoa học tăng đều hàng năm, tuy nhiên
nhiều giảng viên vẫn nghĩ thu nhập từ NCKH khó khăn hơn nhiều so với thu nhập
từ hoạt động giảng dạy. Lãnh đạo nhiều trường đại học còn cho rằng: Sự phối hợp
giữa các trường Đại học với các Doanh nghiệp ở trong nước còn rất hạn chế. Nhiều
đề tài NCKH được dày công nghiên cứu nhưng không gắn với sản xuất và đời
sống Chính vì vậy, trong cơ chế mới và sự phát triển chung của nền kinh tế, các
Doanh nghiệp lớn được ra đời, bên cạnh việc NCKH phục vụ công tác đào tạo, các
trường Đại học cần có chiến lược thực hiện các đơn đặt hàng lớn từ các Doanh
nghiệp này.
Một vấn đề quan trọng đã tồn tại nhiều năm nhưng vẫn chưa được khắc phục
là cơ sở vật chất phục vụ NCKH chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là những nghiên
cứu có sử dụng các thiết bị hiện đại theo chuẩn quốc tế. Theo số liệu thống kê của
23



99 trường ĐH, chỉ có 48,5% số trường có phòng KH&CN riêng; 32,3% có phòng
khoa học và hợp tác quốc tế; [13]
Để hoạt động NCKH trong các trường thực sự hiệu quả, ngoài những định

hướng chung như đẩy mạnh nội lực trong NCKH, thắp ngọn lửa đam mê sáng tạo, ý
thức nghề nghiệp và trách nhiệm của đội ngũ giảng viên, thì hoạt động NCKH của
các cơ sở giáo dục ĐH cũng nên hướng theo đặc thù và năng lực của từng trường để
có chính sách đầu tư phù hợp, đồng thời có cơ chế đấu thầu đối với các đề tài
NCKH và giao nhiệm vụ theo hợp đồng khoán sản phẩm.

24



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN

2.1 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT
NAM
Trường đại học, viện đại học, học viện và trường cao đẳng là các cơ sở giáo
dục sau trung học ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có nhiều hình thức quản lý các
cơ sở giáo dục này, có thể thuộc quản lý nhà nước (công lập) hoặc tư thục; có thể
đào tạo tuyển sinh cả nước, theo vùng hay tỉnh.
Hiện nay, hệ thống giáo dục đại học đã phát triển khắp cả nước, đa dạng về
loại hình trường. Theo số liệu thống kê của Bộ giáo dục đào tạo [14], năm học
2012-2013 cả nước 207 trường đại học, học viện và 214 trường cao đẳng, trong đó
có 54 trường đại học và 29 trường cao đẳng ngoài công lập. Sự đa dạng các loại
hình sở hữu đối với các cơ sở giáo dục đại học (công lập, tự thục, quốc tế) cho phép
huy động các nguồn lực để phát triển hệ thống giáo dục đại học trong cả nước, tuy
nhiên cũng dẫn đến những khó khăn trong giám sát và quản lý chất lượng đào tạo.
Hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều đưa ra nhiều giải pháp để xây dựng,
thu hút, phát triển đội ngũ GV. Nhiều cơ sở đào tạo đưa ra những chính sách
khuyến khích về vật chất như hỗ trợ, ưu đãi về lương, thưởng, hỗ trợ khuyến khích

học tập nâng cao trình độ hoặc bố trí nhà công vụ cho GV trẻ…
Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ GD-ĐT cho thấy năm học 2011-2012, đội
ngũ GV cơ hữu của tất cả các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước là 84.109 người,
tăng 37,45% (22.919) người; số lượng GV có trình độ trên đại học là 45.512 người,
tăng 56,67% so với năm học 2008-2009. Mặc dù vậy, quy mô đội ngũ GV vẫn còn
khiêm tốn so với tốc độ tăng quy mô đào tạo. Tỉ lệ đội ngũ GV có trình độ tiến
sĩ hoặc có chức danh khoa học còn thấp. Hiện toàn ngành chỉ có 286 GV có chức
danh giáo sư (0,5%), 2009 phó giáo sư (3,37%), 8.519 tiến sĩ (14,27%) và 28.037
thạc sĩ (47,0%).
25



Bảng 2.1. Quy mô giảng viên các trường đại học, cao đẳng
Năm học
Cao đẳng
Đại học, Viện
Tổng số
2008-2009
20.183
41.007
61.190
2009-2010
24.597
45.961
70.558
2010-2011
23.622
50.951
74.573

2011-2012
24.437
59.672
84.109
(Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo)
Quy mô đào tạo giáo dục đại học đang tăng nhanh. Số lượng sinh viên năm
học 2012-2013 so với năm học 2008-2009 tăng khoảng 1,3 lần. Hiện nay, cả nước
có 2.177.299 sinh viên trong đó có 1.453.067 sinh viên đại học, học viên sau đại
học và 724.232 sinh viên hệ cao đẳng. Xu thế phát triển giáo dục đại học đại chúng
đã làm tăng tỷ lệ lớp trẻ trong độ tuổi được học tập trong các trường đại học, cao
đẳng, nhưng cũng phải chấp nhận các mặt bằng trình độ đầu vào khác nhau, trong
khi các yêu cầu của thị trường lao động có trình độ chuyên môn cao đang ngày một
khắt khe hơn.
Các loại hình tổ chức đào tạo đang được đa dạng hoá. Bên cạnh các loại hình
đào tạo truyền thống (đào tạo chính quy) thì quy mô tổ chức đào tạo tại chức, đào
tạo từ xa, đào tạo liên kết trong và ngoài nước cũng tăng nhanh. Xu thế này đang
từng bước đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội ở mọi lứa tuổi và điều kiện khác
nhau, nhưng cũng dẫn đến nguy cơ làm suy giảm các chuẩn mực giáo dục đại học ở
trong nước.
Hiện tượng giáo dục đại học xuyên biên giới đang có nhiều tác động đến các
trường đại học Việt Nam. Một số trường đại học trong nước đã bắt đầu có các hợp
tác, liên kết đào tạo với nước ngoài. Các hoạt động này sẽ giúp các trường đại học
Việt Nam có nhiều cơ hội để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các đối tác nước
ngoài, qua đó từng bước phấn đấu đạt được các chuẩn mực khu vực và quốc tế. Tuy
nhiên, điều này cũng có nguy cơ các công dân Việt Nam sẽ phải tiếp nhận những
chương trình giáo dục không tương xứng với các chuẩn mực chất lượng đã được
tuyên bố trước đó. Vì vậy, các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là Bộ giáo dục đào tạo

×