Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Một số giải pháp xây dựng rào cản đối với hàng nhập khẩu qua thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 121 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. GIỚI THIỆU
Đặt vấn đề
Kể từ ngày nước ta thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, trong nước nhiều thành
phần kinh tế được thành lập, bên cạnh đó, làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu
tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh. Trong giai đoạn đầu, hầu hết các nhà đầu tư đều đầu
tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng để hoạt động sản xuất nhằm tạo
ra sản phẩm. Nhà nước khuyến khích với nhà đầu tư trong nước sản xuất sản phẩm đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng, sử dụng trong nước; khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
sản xuất sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Trên thực tế, phần lớn các doanh nghiệp, kể cả
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều hướng vào thay thế nhập khẩu hơn là
hướng vào xuất khẩu, chạy đua lợi nhuận trước mắt hơn là có chiến lược lâu dài dẫn
đến chất lượng, mẫu mã, màu sắc hàng hóa kém cạnh tranh so với hàng ngoại nhập.
Trong những năm gần đây, bạn bè quốc tế đã bắt đầu chú ý tới hình ảnh một Việt
Nam mới mẻ, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu. Một trong những cột
mốc đáng nhớ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đó là ngày
11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Chính điều này đã buộc Việt Nam mở cửa hơn nữa kinh tế và tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam, nó như là một xu thế khách quan, một
nhu cầu tất yếu với những lợi ích không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nó cũng mang lại
không ít khó khăn, đặc biệt là đối với những nền kinh tế còn non trẻ, sức cạnh tranh
của các nền sản xuất trong nước còn kém. Vì vậy, hàng hóa của nước ngoài thâm nhập
vào thị trường Việt Nam ngày càng nhiều, đa dạng về chủng loại, chất lượng, giá cả,
trong đó không thiếu những hàng hóa làm mất niềm tin và ảnh hưởng đến nhà sản xuất,
người tiêu dùng Việt Nam. Đặc biệt, khi tình hình kinh tế, chính trị thế giới bất ổn,
nguy cơ chiến tranh xảy ra tại nhiều nước thì Việt Nam được xem là điểm đến lý tưởng
để đầu tư. Bên cạnh những nhà đầu tư có uy tín, có trách nhiệm, tha thiết đầu tư tại
2


Việt Nam để phát triển sản xuất, chiếm thị phần thì ngày càng xuất hiện nhiều nhà đầu
lợi dụng chính sách nhập khẩu để nhập khẩu hàng hóa nhằm mục đích trục lợi, thiếu
trách nhiệm, không nghiêm túc, hoặc nhập khẩu hàng hóa gây ra nguy hại cho nền kinh
tế đất nước, làm rối loạn thị trường, gây khó khăn cho nhà sản xuất trong nước đã tác
động đến chất lượng cuộc sống của người Việt Nam.
Do đó, các quốc gia thường sử dụng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để
bảo hộ nền sản xuất trong nước; coi bảo hộ là công cụ đắc lực trong chính sách thương
mại của mình đã đem lại cho Việt Nam những lợi ích to lớn, nhưng bên cạnh đó là
không ít khó khăn và thách thức. Hội nhập đồng nghĩa với việc Việt Nam phải mở cửa
hơn nữa nền kinh tế, cắt giảm thuế quan và loại bỏ những hàng rào phi thuế quan
không phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế nhưng vẫn đảm bảo lợi ích quốc
gia và bảo vệ nền sản xuất nước nhà.
Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị lớn
nhất của cả nước. Hàng ngày, nơi đây diễn ra các hoạt động giao thương nhộn nhịp rất
cần cho sự phát triển kinh tế của đất nước, trong đó có hoạt động nhập khẩu. Từ đây
hàng hóa nhập khẩu của thành phố sẽ được vận chuyển và lan tỏa đến hầu hết mọi
miền của đất nước. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu cũng gặp nhiều vần đề: năm 2011 phát
hiện 6 vụ nhập phế liệu không đạt chất lượng trị giá hơn 1,5 tỷ đồng, năm 2012 phát
hiện 9 vụ trị giá lên đến hơn 12 tỷ đồng; hàng ngàn tấn ác quy chì phế thải và hàng hóa
khác thuộc diện chất thải nguy hiểm; máy móc thiết bị lạc hậu, … đã nhập khẩu qua
các cảng tại thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ khi gia nhập WTO đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thành
phố luôn ở mức cao (năm 2006 chỉ có 283 dự án thì năm 2007 là 493, năm 2008 là
546, năm 2009 là 389, năm 2010 là 375, năm 2011 là 439 và năm 2012 là 436 dự án).
Trong đó, các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực thương mại đầu tư vào
thành phố Hồ Chí Minh thực hiện hoạt động nhập khẩu liên tục gia tăng (năm 2007 có
3

25 dự án thì năm 2008 là 66, 2009 là 87, năm 2010 là 107, năm 2011 là 121, năm 2012

là 137 dự án). Tuy nhiên, một số doanh nghiệp FDI có dấu hiệu chuyển giá để trốn
thuế thể hiện qua việc báo lỗ như: Cty TNHH Freetrend Industriala Việt Nam với mức
lỗ trên 2 năm là 222 tỷ đồng, Metro 11 năm chưa có lãi, Cô ca cô la liên tục lỗ… là
tình trạng đáng báo động.
Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước phát triển sản xuất, ủng hộ các nhà đầu
tư nước ngoài phục vụ phát triển đất nước là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trên cơ
sở tôn trọng luật pháp quốc tế, những điều cam kết WTO, đòi hỏi phải có một chính
sách hợp lý, đúng đắn, và linh hoạt. Một trong những chính sách đó là công khai minh
bạch, cụ thể hóa thủ tục hành chính, thủ tục cấp phép … và xây dựng rào cản trong
hoạt động nhập khẩu. Vấn đề khó khăn đối với các nhà hoạch định chính sách là làm
thế nào để có thể thực hiện tốt các rào cản đối với hàng nhập khẩu mà không vi phạm
các cam kết về tự do hoá thương mại của WTO.
Chính vì lý do trên nên tác giả chọn tên luận văn là “Một số giải pháp xây dựng
rào cản đối với hàng nhập khẩu qua thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2014-2020” để thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học.
2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của luận văn
Trên cơ sở trình bày thực trạng hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trên địa
bàn TP.HCM, tìm hiểu về những rào cản Việt Nam hiện đang áp dụng đối với họat
động nhập khẩu và đề xuất một số giải pháp về việc xây dựng rào cản đối với hoạt
động nhập khẩu trong bối cảnh Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế đối với
hàng nhập khẩu.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên cần giải quyết các vấn đề sau:
- Trình bày một số rào cản trong hoạt động nhập khẩu tại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị xây dựng rào cản đối với hàng nhập khẩu.
4

- Thực trạng hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn TP.HCM.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn này, tác giả sẽ sử dụng những
phương pháp nghiên cứu như sau: Thu thập thông tin, thống kê, phân tích, so sánh,
tổng hợp và phương pháp chuyên gia.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Rào cản đối với hàng nhập khẩu vào TP.HCM, trong đó tập trung chú trọng đến
doanh nghiệp FDI khi làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp FDI đầu tư vào TP.HCM
nhiều và có những bất cập trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
- Nội dung nghiên cứu: rào cản đối với hàng nhập khẩu vào TP.HCM.
- Không gian nghiên cứu: lấy thực tiễn của TP.HCM để chứng minh.
- Thời gian nghiên cứu: số liệu trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 để
định hướng cho giai đoạn 2014 đến 2020.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về rào cản đối với hàng nhập khẩu.
- Chương 2: Thực trạng rào cản đối với hàng nhập khẩu vào TP.HCM giai đoạn
2007 - 2012.
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị xây dựng rào cản đối với hàng nhập khẩu của
Việt Nam giai đoạn 2014-2020.



5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN ĐỐI VỚI HÀNG NHẬP KHẨU
1.1. HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Nhập khẩu và mục tiêu của nhập khẩu

1.1.1.1. Nhập khẩu
- Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước
ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nhà nhập khẩu phải chuyển ngoại
tệ ra nước ngoài để thanh toán cho nhà xuất khẩu.
- Quyền nhập khẩu là quyền được nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Việt
Nam để bán cho thương nhân có quyền phân phối hàng hoá đó tại Việt Nam; bao gồm
quyền đứng tên trên tờ khai hàng hoá nhập khẩu để thực hiện và chịu trách nhiệm về
các thủ tục liên quan đến nhập khẩu. Quyền nhập khẩu không bao gồm quyền tổ chức
hoặc tham gia hệ thống phân phối hàng hoá tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật
Việt Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác.
- Doanh nghiệp FDI hoạt động nhập khẩu được xem như là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt
động nhập khẩu các hàng hóa được pháp luật Việt Nam cho phép.
- Qui trình hoạt động nhập khẩu: Phù hợp với phạm vi hoạt động quyền nhập
khẩu quy định tại Điều 3.4 Nghị định 23/2007/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 12/02/2007
và Điểm 3.1 Thông tư số 05/2008/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 14/04/2008.
Quy trình thực hiện thủ tục nhập khẩu hàng hóa như sau:
Trước khi hàng về đến Việt Nam, dù bằng đường không hay đường biển cũng sẽ
có giấy báo (Arrival Notice) thông báo cho nhà nhập khẩu biết về chi tiết lô hàng, thời
gian, địa điểm mà hàng sẽ về đến Việt Nam kèm theo việc yêu cầu đến nhận hàng. Nhà
6

nhập khẩu sẽ thực hiện các yêu cầu và chuẩn bị hồ sơ như nội dung yêu cầu trong Giấy
báo hàng đến để nhận lệnh giao hàng và thanh toán các chi phí (nếu có)
Các chứng từ cần thiết để nhận hàng là lệnh giao hàng (D/O : Delivery Order)
cũng được ghi chú rõ trong giấy báo (tàu) đến. Khi nhận được D/O, nhà nhập khẩu
mang nó cùng một số chứng từ khác như hợp đồng (Contract), Hóa đơn thương mại
(commercial Invoice), Bảng kê chi tiết hàng hóa (Packing List), Giấy Chứng nhận xuất

xứ (C/O: Certificate of Origin), Giấy Chứng nhận Đăng ký Kinh doanh, đăng ký mã số
xuất nhập khẩu, giấy Giới thiệu, … đến cơ quan Hải Quan và mở tờ khai hải quan hoặc
đăng ký mở tờ khai hải quan qua mạng.
Sau khi mở tờ khai hải quan, nhà nhập khẩu sẽ nộp các loại thuế, phí thì cơ quan
hải quan sẽ tiến hành kiểm hóa hàng hóa xem có đúng trong hợp đồng, Invoice,
Packing List cũng như C/O không? Khi hàng hóa nhập khẩu đúng với kê khai trên các
chứng từ thì hàng hóa sẽ được thông quan.
1.1.1.2. Mục tiêu nhập khẩu
Mỗi doanh nghiệp khi được cấp phép hoạt động đều có một ngành nghề kinh
doanh nhất định. Thường căn cứ vào ngành nghề kinh doanh và nhu cầu hoạt động,
doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu với nhiều mục đích như sau:
- Nhập khẩu nguyên nhiên phụ liệu, máy móc và vật tư phục vụ sản xuất trong
nước: Do nền kinh tế Việt Nam nghèo nàn lạc hậu nên hầu hết nguyên nhiên phụ liệu,
máy móc và vật tư sản xuất trong nước đều phụ thuộc vào nhập khẩu. Chính sách nhà
nước thiếu định hướng chiến lược, thiếu quy hoạch vùng nguyên liệu, vùng sản xuất
cho phát triển sản xuất nên ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng
trưởng cao trong nhiều năm qua như: hàng dệt may, da giày, chế biến thực phẩm và đồ
uống, sản phẩm thép và kim loại màu, ô tô, xe máy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa …
cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm
sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm
7

như: giấy in, giấy viết, phôi thép và thép cám, lốp xe các loại… Rất nhiều những mặt
hàng này ngòai việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước còn là yếu tố đầu vào
cho nhiều ngành sản xuất và cho xuất khẩu ra các thị trường khác. Việc nhập khẩu với
số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các
doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ
thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đoái… Việc
phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng sẽ làm phát sinh
thêm nhiều khoản chi phí khác như: chi phí vận chuyển, chi phí hải quan, chi phí cảng,

chi phí bảo hiểm… Chi phí kinh doanh của ta còn cao, do đó tỷ suất lợi nhuận hạn chế,
lợi nhuận thấp, doanh nghiệp không có động lực để phát triển đòi hỏi doanh nghiệp
phải có kế hoạch, định hướng và nhạy bén trong kinh doanh.
- Nhập khẩu hàng tiêu dùng để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng: nhu cầu
tiêu dùng trong nước luôn ở mức cao với các mặt hàng trong nước chưa sản xuất
được (hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu chất lượng, mẫu mã, giá cả …) như:
xăng dầu, phân bón, máy móc thiết bị, xe cộ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng tiêu
dùng này còn xuất phát xu hướng chuộng hàng ngoại hơn hàng nội.
- Nhập khẩu hàng hoá để phục vụ triển lãm, hội chợ: hàng hóa nhập vào để tham
gia các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm quảng bá, quảng cáo và khuếch trương
sản phẩm đến với người tiêu dùng.
- Nhập khẩu hàng hóa, máy móc, thiết bị từ nước ngoài để thực hiện các dự án
trong nước: Nhiều dự án tại Việt Nam đòi hỏi trình độ máy móc, phương tiện kỹ
thuật cao hoặc đồng bộ hệ thống nên phải nhập hàng hóa ở nước ngoài về, phần đông
các dự án này do các đối tác nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Nga…
trúng thầu đã nhập khẩu một lượng lớn máy móc, thiết bị từ các nước này vào Việt
Nam để thực hiện dự án.
- Nhập khẩu hàng hóa để gia công (tạm nhập tái xuất): là việc các doanh nghiệp
8

nhập khẩu các hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam để hoàn thành các công đoạn
nào đó theo hợp đồng sau đó xuất khẩu hàng hóa đó ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
1.1.2. Những hoạt động liên quan đến nhập khẩu
1.1.2.1. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động nhập khẩu
Xuất phát từ nhu cầu, lợi ích con người trong sản xuất, tiêu dùng, vui chơi, giải
trí nhằm tìm kiếm những nguồn nguyên liệu, hàng hóa, trang thiết bị, máy móc phục
vụ sản xuất, giao thương, tiêu dùng mà các nhà đầu tư tham gia vào hoạt động nhập
khẩu. Thông thường các nhà đầu tư nhập khẩu những thứ mà họ chưa có, hoặc nhập
khẩu những thứ mà bên ngoài ưu việt hơn thứ mà họ có về giá cả, chất lượng, màu
sắc, …Trong những năm gần đây, hoạt động nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ do những

cam kết về hàng hóa của các nước khi gia nhập WTO (trong đó có Việt Nam)
cũng là những nguyên nhân thúc đẩy hoạt động nhập khẩu:
Thứ nhất, các nước thành viên WTO mở rộng quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hóa cho các doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, các điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu như:

- Rào cản ở các nước nhập khẩu ít hơn (thuế giảm, hàng rào phi thuế quan dần
được bãi bỏ);
- Hàng hóa xuất khẩu của các thành viên WTO được đối xử công bằng hơn trên
thị trường thế giới;
- Doanh nghiệp dễ dàng định hướng hoạt động xuất khẩu của mình hơn do được
tiếp cận với thông tin về thị trường nhập khẩu.
Thứ ba, các nước thành viên WTO buộc phải cắt giảm rào cản thuế quan và
phi thuế quan, giảm bảo hộ và trợ cấp xuất khẩu, bởi vậy hàng nhập khẩu vào nhiều
hơn trước.
1.1.2.2. Các hình thức nhập khẩu trong thương mại quốc tế
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của môi trường, điều
9

kiện kinh doanh cùng với sự năng động sáng tạo của người kinh doanh đã tạo ra nhiều
hình thức nhập khẩu khác nhau như:
- Nhập khẩu trực tiếp: là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất
nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ
các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của
Nhà nước cũng như quốc tế. Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp hoàn toàn
nắm quyền chủ động và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu từ
nghiên cứu thị trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, đến việc ký
kết và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả các chi phí phát sinh
trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ phần lãi thu được cũng như phải tự

chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua lỗ. Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp
được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập khẩu doanh nghiệp phải chịu
thuế doanh thu, thuế lợi tức. Nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp
đồng nhập khẩu với nước ngoài, sau khi hàng về nước sẽ lập hợp đồng tiêu thụ hàng
hoá trong nước.
- Nhập khẩu uỷ thác: là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp
hoạt động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu nhưng
không đủ điều kiện về khả năng tài chính, về đối tác kinh doanh nên đã uỷ thác cho
doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng
hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài
để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng
gọi là phí uỷ thác. Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác
được quy định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp Xuất
nhập khẩu (nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có),
không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ
đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng
và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường
10

với nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì đại diện của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được
tính doanh số, không chịu thuế doanh thu. Khi nhận uỷ thác, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu này (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán hàng hoá
với nước ngoài và một hợp đồng nhận uỷ thác với bên uỷ thác.
- Nhập khẩu liên doanh: Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên
kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và
đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt
động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng
phải chịu. Nhập khẩu liên doanh thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi

ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định,
quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng theo số vốn góp, việc phân chia chi
phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân chia tuỳ theo thoả thuận dựa
trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong nhập khẩu liên
doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi
đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và
chịu thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên
doanh phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp
đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là doanh nghiệp Nhà
nước).
- Tạm nhập, tái xuất hàng hóa: là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc từ
các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng
theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm
thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam.
- Tạm xuất, tái nhập hàng hóa: là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa
vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
11

riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm
thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam.
1.2. RÀO CẢN ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.2.1. Khái niệm rào cản thương mại
Rào cản thương mại: thuật ngữ “rào cản” đối với thương mại chỉ được đề cập
chính thức trong 1 hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đó là hiệp định
về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại. Tuy nhiên trong Hiệp định này khái niệm
hàng rào cũng không được định danh một cách rõ ràng mà chỉ được thừa nhận: ”không
một nước nào có thể ngăn cản tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo chất lượng
hàng hóa xuất khẩu của mình, hoặc để bảo vệ cuộc sống hay sức khỏe con người, động
và thực vật, bảo vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hoạt động man trá, ở mức độ mà
nước đó cho là phù hợp và phải đảm bảo rằng các biện pháp này không được tiến hành

với cách thức có thể gây ra phân biệt đối xử một cách tùy tiện hoặc không thể biện
minh được giữa các nước, trong các điều kiện giống nhau, hoặc tạo ra các hạn chế trá
hình đối với thương mại quốc tế, hay nói cách khác phải phù hợp với các quy định của
Hiệp định này”.
Trong thực tế, các nhà khoa học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rào cản
thương mại. Song, nhìn chung, rào cản thương mại theo cách hiểu chung nhất là bất kỳ
biện pháp hay hành động nào gây cản trở đối với thương mại quốc tế, là những quy
định thuế quan, ngoài thuế quan, hay một chính sách phân biệt nào đó mà một nước
hay một vùng lãnh thổ áp dụng, với mục đích hạn chế hoặc ngăn cản thương mại quốc
tế. Nó gồm áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu, hay áp
dụng nâng cao một số tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn,
lao động, môi trường, xuất xứ, v.v bao gồm tất cả các biện pháp được thực hiện ở biên
giới, nhằm hạn chế việc hàng hóa nước khác thâm nhập vào thị trường và các thủ tục
này tạo thuận lợi cho hàng hóa trong nước như một hình thức bảo hộ.
12

1.2.2. Rào cản đối với hàng hóa nhập khẩu
Hiện nay hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp trong nước lẫn doanh nghiệp FDI
nhìn chung đều chịu những rào cản thương mại như nhau, tuy nhiên mức độ và tính
chất khác nhau. Rào cản thương mại bao gồm hai nhóm rào cản lớn đó là: rào cản thuế
quan và rào cản phi thuế quan:
1.2.2.1. Hàng rào thuế quan (Tariff Barriers)
Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng thu ngân sách cho
chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ
hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay
còn non trẻ của nước mình. Như vậy, thuế quan là một trong những rào cản thương mại
phổ biến nhất trong thương mại quốc tế nên trong hầu hết các vòng đàm phán thương
mại đa biên và song phương đều nổi lên chủ đề về cắt giảm thuế quan để đẩy nhanh
quá trình tự do hóa thương mại. Các quy định của WTO không đề cập một cách cụ thể
rằng các nước phải ràng buộc loại thuế nào vì trong thực tiễn thương mại quốc tế có rất

nhiều loại thuế và mức thuế suất khác nhau.
Các loại thuế: có 3 loại thuế quan phổ biến như sau:
- Thuế phần trăm: (ad - valoren tariff) được đánh theo tỷ lệ phần trăm giá trị giao
dịch của hàng hóa nhập khẩu. Hiện nay, đây là loại thuế được sử dụng rộng rãi nhất
nhưng nhìn chung còn ở mức cao nên WTO kêu gọi tất cả các nước thành viên tiếp tục
cam kết cắt giảm.
- Thuế phi phần trăm: (non ad –valoren tariff) chủ yếu được áp dụng cho hàng
nông sản, bao gồm 3 loại:
+ Thuế tuyệt đối: thuế xác định bằng một khoản cố định trên 01 đơn vị hàng
nhập khẩu. Đây là một loại thuế được áp dụng nhiều nhất đối với các mặt hàng nông
sản.
+ Thuế tuyệt đối thay thế quy định quyền lựa chọn áp dụng thuế phần trăm hay
thuế tuyệt đối.
13

+ Thuế tổng hợp: là sự kết hợp thuế phần trăm và thuế tuyệt đối. Ví dụ: mặt
hàng sữa nhập khẩu vào Nhật Bản phải chịu mức thuế 21,3% + 54 Yên/kg.
- Thuế quan đặc thù gồm có: hạn ngạch thuế quan, thuế đối kháng, thuế chống
bán phá giá, thuế thời vụ và thuế bổ sung:
+ Hạn ngạch thuế quan là một biện pháp quản lý nhập khẩu với 2 mức thuế
suất nhập khẩu, hàng hóa trong hạn ngạch thuế quan thì có mức thuế suất thấp, còn
ngoài hạn ngạch thì chịu mức thuế suất cao hơn. Việc quản lý hạn ngạch thuế quan tuy
khó khăn nhưng mang lại nhiều hiệu quả, vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu
dùng trong nước muốn dùng hàng nhập khẩu giá rẻ, đồng thời bảo vệ được người sản
xuất nội địa.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, WTO đã quyết định cho phép áp dụng hạn
ngạch thuế quan dù rất hạn hẹp. Trong Hiệp định Nông nghiệp tại vòng đàm phán
Urugoay, hạn ngạch thuế quan được thông qua để đảm bảo tiếp cận thị trường hiện tại
(hay tối thiểu) khi các biện pháp phi thuế quan đã được thuế hóa. Cũng tại đây, hạn
ngạch được tính để đảm bảo các yêu cầu về tiếp cận thị trường hiện tại và tối thiểu.

Thông qua các vòng đàm phán, WTO luôn hướng mục tiêu cắt giảm thuế quan.
Các nước thành viên không được phép tăng thuế lên trên mức trần đã cam kết trong
biểu. Qua tám vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT trước đây, đặc biệt là sau vòng
Uruguay, thuế công nghiệp bình quân của các nước phát triển được giảm xuống 3,8%,
các nước này cũng đồng ý cắt giảm 36% mức thuế công nghiệp. Riêng các nước đang
phát triển đồng ý cắt giảm 24% thuế nông nghiệp.
+ Thuế đối kháng hay còn gọi là thuế chống trợ cấp xuất khẩu: đây là một
khoản thuế đặc biệt đánh vào các sản phẩm nhập khẩu để bù lại việc nhà sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm đó được Chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp.
+ Thuế chống bán phá giá: là một loại thuế quan đặc biệt được áp dụng để
ngăn chặn và đối phó với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào thị trường nội địa tạo
ra sự cạnh tranh không lành mạnh.
14

. Điều 6 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (hay còn gọi là
Hiệp định chống bán phá giá – ADP) định nghĩa: “Phá giá nghĩa là sản phẩm được đưa
ra bán ở một nước thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm ấy và ở sản phẩm được
xem là bán phá giá nếu giá xuất của sản phẩm ấy thấp hơn giá của sản phẩm tương tự
như thế được tiêu thụ ở thị trường nội địa trong điều kiện buôn bán thông thường”.
. Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: biên độ phá giá từ 2%
trở lên; số lượng, giá trị hàng hóa bán phá giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối
lượng hàng nhập khẩu.
. Hành động phá giá sẽ bị coi là không hợp pháp nếu nó gây ra hay đe dọa gây
ra thiệt hại vật chất đối với một ngành kinh tế nội địa đã được kiến lập vững chắc, hay
ngăn cản một cách đáng kể việc thành lập một ngành kinh tế nội địa.
. Để bù đắp thiệt hại, các quốc gia có quyền đặt ra thuế chống phá giá đối với
bất kì sản phẩm bị bán phá giá nào. Mức thuế này không được lớn hơn biên độ phá giá
của sản phẩm tương ứng. Tuy vậy, trước khi áp dụng thuế chống phá giá, thành viên
muốn sử dụng biện pháp này phải tiến hành điều tra thiệt hại do hành động bán phá giá
gây ra đối với ngành kinh tế trong nước theo những quy định và thủ tục rất chặt chẽ.

Trong những tình huống đặc biệt, các thành viên có thể sử dụng các biện pháp tạm thời
nhằm tránh những thiệt hại lớn ngay trong quá trình điều tra, ví dụ như có thể áp dụng
thuế tạm thời hoặc thu tiền đặt cọc. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng trong thời
gian ngắn, thông thường không quá 4 tháng.
+ Thuế thời vụ là loại thuế với mức thuế suất khác nhau cho cùng 01 loại sản
phẩm. Thông thường được áp dụng cho mặt hàng nông sản, khi vào thời vụ thu hoạch
trong nước thì áp dụng mức thuế suất cao nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, khi hết
thời vị thì trở lại mức thuế bình thường.
+ Thuế bổ sung là một loại thuế được đặt ra để thực hiện biện pháp tự vệ trong
trường hợp khẩn cấp. Các Chính phủ có thế áp dụng thuế bổ sung cao hơn mức thuế
thông thường nếu như khối lượng hàng nhập khẩu của sản phẩm đó tăng lên quá cao
15

gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ làm mất đi một ngành sản xuất nào đó
trong nước.
Trong biểu thuế xuất nhập khẩu của các nước thường có nhiều loại thuế cụ thể
khác nhau cho cùng một loại sản phẩm và có sự chênh lệch nhau rất lớn về các loại
thuế. Sự chênh lệch giữa các loại thuế là do các quy định về “ưu đãi” quyết định. Nếu
hàng hóa của một nước nào đó chịu thuế suất thông thường hoặc kém ưu đãi hơn so với
nước khác thì chính điều đó sẽ trở thành rào cản thuế quan. Hiện có một số loại thuế
được áp dụng trong thương mại quốc tế như sau:
- Thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) còn gọi là thuế suất thông thường. Đây là
mức thuế cao nhất mà các nước áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên
WTO và chưa ký hiệp định thương mại song phương với nhau. Thuế này có thể nằm
trong khỏang từ 20-110%.
- Thuế tối huệ quốc (MFN) là loại thuế mà các nước thành viên WTO áp dụng
cho những nước thành viên khác hoặc theo các hiệp định song phương về ưu đãi thuế
quan. Đây là loại thuế có mức thuế suất thấp hơn nhiều so với loại thuế suất thông
thường.
- Thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP): là loại thuế ưu đãi cho một số hàng hóa nhập

khẩu từ các nước đang phát triển được các nước công nghiệp phát triển cho hưởng
GSP. Mức thuế này thấp hơn mức thuế tối huệ quốc.
- Thuế áp dụng đối với các khu vực thương mại tự do: đây là loại thuế có mức
thuế suất thấp nhất hoặc có thể bằng không đối với nhiều mặt hàng. Hiện tại có rất
nhiều khu vực tự do đã được hình thành và trong các hiệp định này là thuế suất rất thấp
hoặc bằng không (tức là ưu đãi về thuế rất cao).
- Các loại thuế quan ưu đãi khác: một số nước tham gia ký kết các hiệp định
chuyên ngành như hiệp định thương mại máy bay dân dụng, hiệp định thương mại các
sản phẩm dược, sản phẩm ô tô… cũng dành cho nhau các ưu đãi thuế quan đặc biệt đối
với các sản phẩm này.
16

Theo Hiệp định Nông nghiệp, các nước thành viên không được áp dụng các biện
pháp phi thuế quan đối với nông sản. Tất cả các biện pháp phi thuế quan cần phải được
thuế hóa. Thông thường với mức thuế hóa tại vòng đàm phán Uruguay thì mức nhập
khẩu nông sản hầu như không đáng kể.
1.2.2.2. Các hàng rào phi thuế quan (Non-Tariff Barriers)
Những rào cản thuế quan phải được thực hiện theo cam kết WTO, do đó chúng ta
tập trung nghiên cứu những rào cản phi thuế quan. Những rào cản phi thuế quan này đã
ảnh hưởng rất lớn đến nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam trong những năm gần đây.
Chính vì rào cản này mà sản lượng hàng hóa nhập khẩu vào được hạn chế, các doanh
nghiệp thì nản lòng trước hệ thống rào cản phức tạp, dẫn đến phải từ bỏ một thị trường
tiềm năng.
Các hàng rào này bao gồm: biện pháp cấm (cấm vận, cấm nhập khẩu, cấm xuất
khẩu), hạn ngạch, cấp phép, định giá hải quan, quy định về xuất xứ, quy định về kỹ
thuật, vệ sinh, nhãn mác, trợ cấp, chống bán phá giá, sở hữu trí tuệ, kiểm tra hàng hoá
trước khi xuống tàu, Trong đó, các biện pháp đang được sử dụng rộng rãi là:
- Biện pháp cấm: trong số các biện pháp cấm được sử dụng trong thực tiễn
thương mại quốc tế có các biện pháp như: cấm vận toàn diện, cấm vận từng phần, cấm
xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một số hàng hóa nào đó, cấm phần lớn các doanh

nghiệp mà chỉ cho doanh nghiệp được xác định xuất khẩu hoặc nhập khẩu (ví dụ: chất
nổ, hóa chất chuyên ngành, xăng dầu…). Đây là biện pháp mang tính bảo hộ cao, gây
ra hạn chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế. Nói chung, WTO không cho phép các
nước thành viên được sử dụng biện pháp này. Tuy nhiên, do có sự không đồng đều
trong trình độ phát triển giữa các thành viên (hiện nay có khoảng ¾ các nước thành
viên WTO là các nước đang phát triển) nên các quốc gia vẫn có thể thi hành các biện
pháp cấm trên cơ sở không phân biệt đối xử trong một số trường hợp được quy định tại
Điều XXI-GATT/1994, cụ thể là:
+ Cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia;
17

+ Cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội;
+ Cần thiết để bảo vệ con người, động vật và thực vật;
+ Liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu vàng và bạc;
+ Cần thiết để bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm.
Việc thực hiện các biện pháp này cần phải kèm theo việc hạn chế sản xuất hay
tiêu dùng. GATT/1994 còn quy định các trường hợp sau được phép áp dụng biện pháp
cấm nhập khẩu, xuất khẩu: Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt
sự khan hiếm lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác; cần thiết để áp
dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm
trong thương mại quốc tế.
- Rào cản trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM): Trợ cấp là một khoản đóng
góp về tài chính do Chính phủ hoặc một tổ chức Nhà nước cung cấp, hoặc là một
khoản hỗ trợ thu nhập, hoặc hỗ trợ giá và mang lại lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp.
Đây là một công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở hầu hết các
nước nhằm đạt các mục tiêu của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính
trị Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO được chia ra làm ba
cấp độ rõ rệt là đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh như trong giao thông.
+ Trợ cấp đèn đỏ: là các biện pháp trợ cấp bị cấm sử dụng hoàn toàn, điều 3
Hiệp định SCM quy định những trường hợp sau coi như bị cấm trợ cấp trực tiếp cho

hàng xuất khẩu và bị cấm sử dụng:
(1) Chương trình cung ứng tiền liên quan đến thưởng xuất khẩu, hoặc cung cấp
đầu vào với những điều kiện ưu đãi;
(2) Miễn thuế trực thu hoặc giảm thuế gián thu đối với sản phẩm xuất khẩu
vượt quá mức thuế đánh vào sản phẩm tương tự bán trong nước, hoặc hoàn lại thuế
nhập khẩu đối với những nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu quá mức;
(3) Chương trình bảo hiểm xuất khẩu với phí bảo hiểm không đủ trang trải chi
phí dài hạn của chương trình bảo hiểm;
18

(4) Tín dụng xuất khẩu thấp hơn đi vay của Chính phủ cũng coi như Nhà nước
trợ cấp cho xuất khẩu với lãi suất thấp.
+ Trợ cấp đèn vàng: là các loại trợ cấp được phép sử dụng, song cũng có thể bị
kiện hoặc áp dụng biện pháp đối kháng, đây là loại trợ cấp mang tính đặc thù, không
phổ biến, đối tượng nhận trợ cấp được giới hạn trong phạm vi: một doanh nghiệp hoặc
nhóm doanh nghiệp; một lĩnh vực công nghiệp hay một nhóm ngành công nghiệp; một
khu vực địa lý được định rõ nằm trong phạm vi quyền hạn của cơ quan thẩm quyền cấp
phép. Trợ cấp này được thực hiện nhưng chỉ dừng ở mức không gây tác động bất lợi
cho các thành viên, tác động bất lợi được nêu rõ trong Hiệp định gồm: ảnh hưởng
nghiêm trọng tới ngành sản xuất trong nước; làm vô hiệu hóa và suy yếu các ưu đãi
thuế quan đã đạt được trong đàm phán thương mại; làm tổn thất tới quyền lợi của nước
khác.
+ Trợ cấp đèn xanh: là loại trợ cấp được thực hiện mà không bị khiếu kiện, bao
gồm các loại sau:
(1) Hỗ trợ cho những hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) do công ty tiến
hành;
(2) Trợ cấp nhằm điều chỉnh những phương tiện sản xuất thích nghi với những
đòi hỏi về môi trường, miễn trợ cấp một lần, không lặp lại và giới hạn ở mức 20% chi
phí cho việc thích nghi đó;
(3) Hỗ trợ những ngành sản xuất nằm trong các vùng khó khăn. Vùng khó

khăn phải xác định ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với những đặc điểm kinh tế và
hành chính nhất định.
- Rào cản về hạn chế định lượng (hạn ngạch - quota): đang được coi là có tác
dụng bảo hộ mạnh hơn các biện pháp thuế quan và dễ bóp méo thương mại. Đây là
biện pháp dùng để hạn chế về số lượng hoặc giá trị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
trong một thời gian nhất định (thông thường là 1 năm). Hạn ngạch này có thể do nước
nhập khẩu hoặc xuất khẩu tự áp đặt một cách đơn phương nhưng cũng có loại hạn
19

ngạch được áp đặt trên cơ sở tự nguyện của bên thứ hai (hạn ngạch xuất khẩu tự
nguyện). Điều XI-GATT/1994 đã quy định không cho phép các nước thành viên áp
dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hoá, vì nó làm
ảnh hưởng nhiều đến thương mại thế giới. Biện pháp này được quy định nghiêm ngặt
hơn thuế quan bởi hai lý do chủ yếu:
Thứ nhất, các biện pháp phi thuế quan nói chung và các biện pháp định lượng nói
riêng không thể hiện tính minh bạch như thuế quan do tính pháp lý không cao bằng thuế
và thời gian quy định thông thường chỉ trong vòng 1 năm.
Thứ hai, hạn ngạch và các biện pháp hạn chế định lượng dễ biến tướng hơn thuế
quan. Nhiều khi chỉ thay đổi cách gọi tên biện pháp nhưng nội dung chủ yếu vẫn là hạn
ngạch. (Ví dụ như: Các biện pháp quản lý theo kế hoạch định hướng, quản lý có điều
kiện…). Hiện nay các quốc gia có xu hướng ít sử dụng công cụ hạn ngạch mà dùng
thuế quan thay thế cho hạn ngạch. Đây cũng là quy định có tính chất bắt buộc đối với
các quốc gia thành viên của WTO. Tuy vậy, WTO vẫn quy định những trường hợp đặc
biệt được áp dụng hạn ngạch tại Điều XI, XII GATT/1994, cụ thể như sau:
+ Được áp dụng một cách tạm thời nhằm hạn chế, ngăn ngừa, khắc phục sự
khan hiếm lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác.
+ Được áp dụng để bảo vệ sự cân bằng cán cân thanh toán (việc tạo ra, duy trì
hay mở rộng hạn chế số lượng vì mục đích này không được vượt quá mức cần thiết).
+ Được áp dụng để ngăn ngừa sự đe dọa sắp xảy ra hoặc để ngăn chặn lại sự
thiếu hụt nghiêm trọng dự trữ tiền tệ; Hoặc trong trường hợp một quốc gia thành viên

có dự trữ tiền tệ quá ít, được áp dụng để đạt được một mức tăng hợp lý dự trữ tiền tệ.
+ Khi sử dụng hạn ngạch, các quốc gia thành viên phải thực hiện các yêu cầu
kèm theo:
. Thực hiện biện pháp này phải kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu
dùng trong nước.
20

. Cam kết không làm ảnh hưởng tới lợi ích của các nước thành viên
khác, đồng thời phải dần dần nới lỏng biện pháp này khi kinh tế đã hồi phục.
. Do tính pháp lý không cao và thời gian thông thường chỉ 1 năm trở lại,
nên khi tiến hành áp dụng biện pháp này, các quốc gia phải công bố thời gian cụ thể và
những thay đổi nếu có.
- Tự vệ trong thương mại: Trong thương mại quốc tế, biện pháp tự vệ là việc tạm
thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu
chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất
trong nước trong thời gian ngắn (thời hạn 4 năm, có thể gia hạn thêm 01 lần không quá
5 năm), tạo điều kiện cho ngành sản xuất đó nâng cao khả năng cạnh tranh. Các biện
pháp thường được áp dụng là: yêu cầu đối tác tự hạn chế xuất khẩu, tăng mức thuế
nhập khẩu, áp dụng hạn mức nhập khẩu, hoặc dùng các biện pháp phân biệt đối xử
khác.
Tuy nhiên, theo điều 2 Hiệp định Tự vệ của WTO, các thành viên có thể áp dụng
các biện pháp tự vệ đối với một sản phẩm không phân biệt xuất xứ khi thành viên này
đã xác định theo những quy định chặt chẽ rằng số lượng nhập khẩu đang tăng lên một
cách tuyệt đối hoặc tương đối của sản phẩm này đang gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước sản xuất những sản phẩm tương tự
hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nhập khẩu đó. Sau đó các biện pháp tạm thời
hạn chế nhập khẩu giảm dần theo các năm. Mặt khác, các quốc gia áp dụng biện pháp
tự vệ phải bồi thường thiệt hại cho các thành viên khác do biện pháp tự vệ gây nên nếu
họ chứng minh được thiệt hại và yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp không thỏa
thuận được mức bồi thường thì sau 03 năm các thành viên này có thể dùng biện pháp

trả đũa.
- Rào cản về cấp phép nhập khẩu: có 2 loại giấy phép là giấy phép về quyền hoạt
động kinh doanh nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu đối với một số loại hàng hóa hoặc
phương thức kinh doanh nhập khẩu nào đó. Chẳng hạn là giấy phép cho phép doanh
21

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mua, bán hàng hóa trên thị trường nội địa,
giấy phép nhập khẩu thuốc lá điếu và rượu ngoại, giấy phép kinh doanh tạm nhập tái
xuất…. Giấy phép nhập khẩu không quy định số lượng hay giá trị cụ thể mà chỉ yêu
cầu khi nhập khẩu phải xuất trình chứng từ để cơ quan Hải quan và các cơ quan hữu
quan khác kiểm tra hoặc cấp phép. Các quy định của WTO về giấy phép nhập khẩu
được quy định trong Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu ILP. Các thủ tục
cấp giấy phép nhập khẩu có thể ảnh hưởng tiêu cực tới dòng di chuyển của thương mại
giữa các quốc gia, nhất là trong trường hợp các thủ tục này rườm rà, phức tạp gây chậm
trễ hoặc không minh bạch. Chẳng hạn như qui định về kiểm tra trước khi xếp hàng, quy
định về cửa khẩu thông quan, quy định về giá tính thuế hải quan…Vì thế một số
nguyên tắc chung được đưa ra nhằm hạn chế những tác động không mong muốn này,
cụ thể như sau:
+ Nội dung giấy phép và thủ tục cấp cần phải minh bạch, rõ ràng và có thể dự
đoán trước;
+ Chế độ cấp và quản lý giấy phép không phiền toái hơn mức cần thiết trong
đó có tính tới mục đích áp dụng;
+ Bảo vệ những nhà nhập khẩu và cung cấp nước ngoài khỏi bị chậm trễ không
cần thiết do các quyết định độc đoán.
Bên cạnh đó, các nước cũng cần phải công khai các thông tin liên quan đến thủ
tục nộp đơn, tiêu chuẩn của nhà nhập khẩu, cơ quan tiếp nhận, danh sách các sản phẩm
đòi hỏi giấy phép trong thời hạn hợp lý (21 ngày) trước khi chúng có hiệu lực.
Cấp phép nhập khẩu được chia thành hai loại:
+ Thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu tự động (không điều kiện). Theo quy định
này thì giấy phép tự động là một văn bản cho phép thực hiện ngay lập tức không có

điều kiện gì đối với người làm đơn xin giấy phép. Chế độ cấp giấy phép này chỉ mang
tính chất quản lý để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu chứ không nhằm cản trở hoạt
động thương mại.
22

+ Thủ tục cấp giấy phép không tự động (có điều kiện). Giấy phép không tự
động là một loại văn bản cho phép được thực hiện khi người nhập khẩu đáp ứng được
một số điều kiện nhất định. Thực chất đây là một loại giấy phép được sử dụng cho mục
đích hạn chế nhập khẩu của Chính phủ, do vậy nó chủ yếu được áp dụng cho các hàng
hóa quản lý bằng hạn ngạch. Sử dụng các biện pháp cấp phép không tự động cũng dẫn
tới rào cản thương mại về thủ tục hành chính và chi phí tăng.
- Rào cản về Định giá hải quan: Định giá hải quan để tính thuế cũng có thể trở
thành một rào cản lớn với hoạt động thương mại. Ví dụ như quy định về áp giá tối
thiểu để tính thuế nhập khẩu. Chính vì vậy, Hiệp định về định giá hải quan của WTO
đã quy định các nguyên tắc cụ thể trong việc xác định giá trị tính thuế của hàng hoá,
bắt buộc các thành viên phải thực thi đúng và minh bạch.
- Rào cản về các quy định về kỹ thuật, vệ sinh, nhãn mác
Cùng với những nỗ lực giảm thuế và điều chỉnh các biện pháp phi thuế truyền
thống trong WTO, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mang tính
kỹ thuật như các quy định về vệ sinh, kỹ thuật, môi trường, nhãn mác sản phẩm. Đây là
phạm vi chứa đựng nhiều quy định khá phức tạp và hết sức chặt chẽ. Có một số hệ
thống áp dụng như:
+ Hiệp định về áp dụng các biện pháp Vệ sinh Kiểm dịch động thực vật SPS
của (WTO), gọi tắt là Hiệp định Vệ sinh Kiểm dịch động thực vật hay Hiệp định SPS,
được ban hành và có hiệu lực cùng với sự ra đời của Tổ chức WTO vào ngày
01/01/1995. Hiệp định liên quan đến sự áp dụng các quy định về an toàn vệ sinh thực
phẩm, thú y và bảo vệ thực vật.
. Mục đích cơ bản của Hiệp định SPS là duy trì quyền lợi tối cao của tất cả các
nước thành viên, đó là xây dựng mức bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người,
động thực vật thích hợp, nhưng phải đảm bảo rằng các quyền lợi này không bị lạm

dụng với mục đích bảo hộ và không được tạo ra các rào cản thương mại quốc tế trá
hình.
23

. Điều 2 Hiệp định SPS quy định cụ thể như sau: “Các thành viên không bị
ngăn cản ban hành hay thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người,
động vật và thực vật với điều kiện các biện pháp này không được áp dụng theo cách
thức tạo ra sự phân biệt đối xử không hợp lý và tùy tiện, hay hạn chế một cách vô lý tới
thương mại quốc tế”.
. Các thành viên phải đảm bảo là việc áp dụng của bất kỳ biện pháp nào cũng
chỉ trong phạm vi cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật, cũng
phải dựa trên các cơ sở khoa học và không được phép duy trì khi không có chứng cớ
khoa học đầy đủ.
+ Hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000:
Hệ thống gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Bộ ISO 9000 có mục tiêu
lớn nhất là đảm bảo chất lượng đối với người tiêu dùng. Biện pháp đảm bảo chất lượng
của bộ ISO 9000 là xây dựng hệ thống chất lượng và phòng ngừa từ khâu thiết kế, lập
kế hoạch. Bộ ISO 9000 gồm 20 yêu cầu, chia thành các nhóm:
. ISO 9001: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá
trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
. ISO 9002: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá
trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ sau bán hàng.
. ISO 9003: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá
trình kiểm tra cuối cùng và thử nghiệm.
Bộ ISO 9000 đưa ra những hướng dẫn đối với hệ thống chất lượng cho việc phát
triển có hiệu quả, chứ không áp đặt một hệ thống chất lượng chuẩn đối với từng doanh
nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có hệ thống chất lượng đặc thù, phù hợp trong
từng hoàn cảnh cụ thể. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu Á và Việt
Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị

24

trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hóa của các doanh nghiệp không có giấy
chứng nhận này.
+ Hệ thống quản trị chất lượng ISO 9001:2000
Hệ thống này đã được trên 140 quốc gia áp dụng. ISO 9001:2000 đề cập chủ yếu
đến các lĩnh vực về chất lượng. Theo Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp
quốc (UNIDO) các doanh nghiệp áp dụng hệ thống này sẽ:
. Đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
. Nâng cao tinh thần làm việc và đoàn kết của nhân viên trong doanh nghiệp.
. Vượt qua rào cản trong thương mại quốc tế.
. Gia tăng thị phần, diện tích, lợi nhuận và phát triển bền vững.
Trong thực tế, sản phẩm của doanh nghiệp nào được cấp giấy chứng nhận phù
hợp với ISO 9001:2000 sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường các nước phát triển.
+ Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000
Được xây dựng nhằm thiết lập hệ thống quản lý môi trường và cung cấp các công
cụ hỗ trợ có liên quan cho các tổ chức hoặc doanh nghiệp để quản lý sự tác động của
các hoạt động, sản phẩm hoặc dịch vụ của họ đối với môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm
và liên tục cải thiện môi trường. Bộ ISO 14000 đề cập các vấn đề sau:
(1) Hệ thống quản lý môi trường (Environmental Management System - EMS);
(2) Kiểm tra đánh giá môi trường (Environmental Auditing - EA);
(3) Đánh giá kết quả hoạt động môi trường (Environmental Performance
Evalution – EPE);
(4) Ghi nhãn môi trường (Environmental Labelling – EL);
(5) Đánh giá chu trình sống của sản phẩm (Life Cycle Asessment – LCA);
(6) Các khía cạnh môi trường trong tiêu chuẩn sản phẩm (Environmental
Aspect in Production Standard – EAPS).
Trong các tiêu chuẩn nêu trên, tiêu chuẩn ISO 14001 về hệ thống của Bộ tiêu
chuẩn ISO 14000 đối với các tổ chức, doanh nghiệp về vấn đề môi trường. Các tiêu
25


chuẩn còn lại là các tiêu chuẩn mang tính chất hướng dẫn giúp cho việc xây dựng và
thực hiện hệ thống quản lý môi trường có hiệu quả. Một nội dung khác là nhãn môi
trường. Cac tiêu chuẩn về dán nhãn môi trường được xây dựng trên cơ sở phân tích chu
kỳ sống của sản phẩm: giai đoạn tiền sản xuất (chế biến các nguyên liệu thô), sản xuất,
phân phối (bao gồm đóng gói), sử dụng hoặc tiêu thụ và loại bỏ sau khi sử dụng.
+ Hệ thống quản trị môi trường ISO 14001:2000
Hệ thống này xem xét khía cạnh bảo vệ môi trường của tổ chức và của sản phẩm.
thị trường thế giới hiện nay rất chú trọng đến vấn đề môi trường, tổ chức Môi trường
thế giới đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên cung ứng những sản phẩm “xanh và
sạch”. Mức độ ảnh hưởng đến môi trường của 1 sản phẩm có vai trò lớn tới sức cạnh
tranh của sản phẩm đó trên thị trường.
+ Hệ thống thực hành sản xuất tốt GMP (Good Manufacturing Practices)
Đây là 1 hệ thống đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là
dược phẩm. Các nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia đều yêu cầu các sản
phẩm là thực phẩm và dược phẩm khi nhập vào thị trường nước họ phải được công
nhận đã áp dụng GMP. Bộ Y tế Việt Nam quy định đến năm 2005 doanh nghiệp sản
xuất dược phẩm nào không đạt GMP sẽ không được cấp số đăng ký sản xuất thuốc.
+ Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn HACCP (Hazard
Analysis Critical Control Point)
Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp chế biến hàng thuỷ sản nếu
muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU, NB, Australia, Canada , Bộ Thuỷ sản (Nay
là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) Việt Nam quy định các doanh nghiệp chế
biến hàng thuỷ sản phải áp dụng HACCP kể từ năm 2000. Việc áp dụng hệ thống này
là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thủy hải
sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản phẩm và thị trường EU.
HACCP là hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu trong quá
trình sản xuất thực phẩm. Nó được thiết kế riêng cho công nghiệp thực phẩm (chăn

×