Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Đề tài Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.34 KB, 52 trang )

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
1.Lý do chọn đề tài 2
Chương 1 3
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG 3
NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY 3
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực 3
1.2. Tình hình trong nước 6
Chương 2 12
MỘT SỐ HỌAT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM 12
TỪ 1986 ĐẾN NAY 12
2.1. Bình thường hóa và tiếp tục phát triển quan hệ ngoại giao với một số
nước và tổ chức trong khu vực 12
2.1.1. Bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 12
2.1.2. Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ 19
2.1.3. Khôi phục quan hệ Việt Nam - ASEAN 22
2.1.4. Tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam - Campuchia 28
2.2. Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với một số nước bạn bè truyền thống, thiết lập
quan hệ với Liên minh châu Âu (EU) và hội nhập khu vực. 33
2.2.1.Việt Nam khôi phục quan hệ với Nga và các nước Đông Âu 34
2.2.2. Việt Nam thiết lập quan hệ với Liên minh Châu Âu (EU) 37
2.1.3. Việt Nam gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) 39
2.2.1. Việt Nam gia nhập WTO 42
2.3. Một số bài học kinh nghiệm 44
KEÁT LUAÄN 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 51

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
MỞ ĐẦU


1.Lý do chọn đề tài
Đường lối đối ngoại được đánh giá là một trong những vấn đề quan trọng
trong công cuộc đổi mới đất nước trong 25 năm qua. Trong những thành tựu
chung của sự nghiệp đổi mới, ngoại giao Việt Nam đã góp phần to lớn đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng bị bao vây và nhanh chóng hội nhập trong khu vực và
trên thế giới.
Quá trình hội nhập và thiết lập quan hệ trong khu vực và trên thế giới trải
qua rất nhiều khó khăn gian khổ. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao
chính thức với 172 nước trên thế giới. Từ 1995, nước ta có quan hệ đầy đủ và
bình thường với tất cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế chính trị, các tổ chức
tài chính tiền tệ trên thế giới, đã cho thấy con đường đối ngoại Việt Nam đã trải
qua nhiều sự kiện, thuận lợi và khó khăn. Tìm hiểu đối ngoại Việt Nam chính là
tìm lại con đường lịch sử hội nhập, là nền tảng vững chắc cho đối ngoại của Việt
Nam trong tương lai.
Ngoại giao Việt Nam là một lĩnh vực nghiên cứu rộng và phong phú. Lựa
chọn một số hoạt động đối ngoại mang tính chất nổi bật tới hoạt động ngoại giao
Việt Nam là sự đánh giá có chọn lọc có phạm vi hẹp hơn song nó có tác động
toàn bộ đến vấn đề đối ngoại của Việt Nam trong tời kì đổi mới.
2.Nội dung đề tài
Đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
Chương 2: MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM TỪ
1986 ĐẾN NAY

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
1.1. Tình hình quốc tế và khu vực

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta bước vào công cuộc khôi
phục và phát triển kinh tế xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi.
Trước hết, do tác động của thắng lợi cách mạng Việt Nam, Phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới được thúc đẩy mạnh, nhiều dân tộc thuộc địa
hoăc lệ thuộc giành được độc lập. Trong khi đó, Chủ Nghĩa Tư Bản đang đi vào
giai đoạn suy thoái không đủ sức để lũng đoạn thế giới . Đây là cơ hội để các
dân tộc bị áp bức đứng lên giành độc lập, làm chủ đất nước. Việt Nam là một
nước đánh thắng Mĩ nên nhiều nước trên thế giới đã có cảm tình đã sẵn sàng
giúp đỡ Việt Nam.
Bên cạnh đó, bước vào những năm 70 của thế kỉ ΧΧ, các nước Tư Bản
Chủ Nghĩa đã áp dụng thành công các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ đã phát triển nhanh chóng. Ngược lại, trong giai đoạn này các nước
XHCN đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội. Mâu thuẫn trong
xã hội ngày càng sâu sắc. Hai sự kiện này làm cho khoảng cách phát triển của
hai phe Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa ngày càng xa nhau. Mỹ tiếp
tục phát động chạy đua vũ trang với Liên Xô và các nước XHCN, chống phá các
nước XHCN và phong trào hoà bình thế giới. Đối với Việt Nam, Mỹ dùng chính
sách cấm vận, bao vây, cô lập trên trường quốc tế. Đồng thời, Mỹ tăng cường
kích động lôi kéo người Việt Nam di tản làm mất an ninh chính trị, làm suy yếu
sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta.
Tình hình ở Campuchia cũng là nhân tố tác động rất lớn đối với quan hệ
ngoại giao Việt Nam. Sau khi giành được độc lập, Campuchia bước sang một
một giai đoạn đấu tranh mới chống chế độ diệt chủng của Pônpôt I-Êng Xari. Là
một nước láng giềng, Việt Nam đã đưa quân tình nguyện sang giúp đỡ
Campuchia. Đây là một hành động thể hiện thiện chí của Việt Nam. Song vin

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
vào cớ đó, các nước đế quốc, các bè phái phản động, chống phá cách mạng cũng
như XHCN đã cố tình bóp méo hành động này. Mỹ tiến hành bao vây, cấm vận,
Trung Quốc tiến hành chiến tranh ở 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Tiếp đó các nước

ASEAN công kích ta về chính trị, bao vây Việt Nam về kinh tế đẩy ta vào tình
thế vô cùng khó khăn.
Bước vào những năm 80 của thế kỉ ΧΧ, chiến tranh lạnh đi vào giai đoạn
kết thúc, các nước chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Giữa Mĩ và Liên Xô đã
diễn ra nhiều chuyến thăm cấp cao, kí nhiều hiệp định cắt giảm vũ khí
Ở khu vực Đông Nam Á, quá trình bình thường hoá quan hệ Xô - Trung
và xu thế đối thoại Xô - Mỹ đã tác động trực tiếp đến việc các bên cùng nhau
tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Ở thời điểm vấn đề Campuchia được
quốc tế hoá cao độ thì việc các nước lớn điều chỉnh chiến lược đã đưa đến
phương hướng giải quyết của vấn đề khúc mắc này.
Năm 1989 tại Địa Trung Hải, Tổng thống Nga Mgook Bachev và Tổng
thống Mĩ G.W.Bush đã kí hiệp định chấm dứt chiến tranh lạnh, mở ra một thời
kì phát triển mới cho nhân loại. Sở dĩ hai nước chấm dứt chiến tranh là do những
tổn thất kéo dài của cuộc chiến tranh lạnh đã làm cho tình hình phát triển kinh tế
của hai nước bị kìm hãm. Từ hoàn cảnh đó cần phải chấm dứt chiến tranh để
khôi phục đất nước. Hơn nữa trên thế giới đã hình thành những trung tâm kinh
tế, thương mại: Tây Âu, Nhật Bản và Mĩ, đang chi phối rất lớn đến tình hình
kinh tế thế giới.
Việc “Liên Xô và Mỹ ngồi vào bàn đàm phán ở cấp cao làm cho tình hình
đấu tranh trong cùng tồn tại giữa hai hệ thống xã hội độc lập được củng cố và
phát triển”
1
.Đó là một trong những căn cứ để Đảng Cộng Sản Việt Nam xác
định chính sách đối ngoại của mình khi vấn đề ra đường lối đối ngoại đổi mới
đất nước.
Sự khủng hoảng của các nước Đông Âu và sự sụp đổ của Đảng Cộng Sản
Liên Xô (1990) đã gây ra tổn thất thật lớn với CNXH, với phong trào cách mạnh
1
Đảng Cộng Sản Việt Nam (1987),Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr 36.


Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
thế giới, Việt Nam mất một chỗ dựa vững chắc về tư tưởng. Nó làm cho trật tự
thế giới mới và “tương quan lực lượng trên toàn thế giới từ chỗ cân bằng sang có
lợi cho Mỹ và các nước tư bản phat triển”
21
Sau khi Liên Xô tan rã, chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện thế giới bước
sang hệ thống mới. Theo dự báo của tình hình thế giới , một hoạt động xã hội mới
sắp hình thành, xã hội hệ thống một cực trong đó Mỹ đứmg đầu. Mỹ tăng cường sử
dụng khẩu lệnh dân chủ để can thiệp vào nội bộ các nước khác, gây dựng mưu đồ
làm bá chủ thế giới, gây ra những cuộc chiến tranh ở Trung Đông: Iran,Irac vào
năm 2001 Nhưng Mỹ đang bị cộng đồng thế giới phản đối mạnh mẽ.
Sự kiện 11/9/2001 ở Mĩ đã cảnh báo nguy cơ mới đang diễn ra trên toàn
thế giới. Tuy chiến tranh lạnh đã kết thúc song thế giới vẫn phải đối mặt với
những cuộc đấu tranh, xung đột tôn giáo, sắc tộc, nạn khủng bố. Mọi người trên
toàn thế giới mong chờ và hi vọng sự chuyển biến mới tươi sáng hơn trong
tương lai.
Hệ quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đó là sự xuất hiện của xu
thế toàn cầu hoá. Vì vậy toàn cầu hoá ra đời là một xu thế khách quan. Bản chất
của toàn cầu hoá là sự tăng lên sự phụ thuộc của các nước trong hoạt động kinh
tế - xã hội… giữa các nước trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hoá đã có tác động
mạnh mẽ đến quan hệ giữa các nước. Trước hết là việc hình thành của nhiều
công ty xuyên quốc gia có sức mạnh chi phối nền kinh tế thế giới,

làm cho quá
trình quốc tế hóa ngày càng mạnh mẽ. Tiếp theo đó là sự phát triển mạnh mẽ và
vai trò ngày càng to lớn của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của các
quốc gia,”
23
tỉ trọng hàng sơ chế đã giảm từ 38,3% năm 1984 xuống còn 25%
năm 1992, tỉ trọng tinh chế tăng từ 49,5% năm 1950 lên 75% năm 1992”. Các

nhân tố đó đã tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các
nước công nghiệp phát triển xúc tiến việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng
thu hẹp các ngành công nghiệp truyền thống, tốn nhiều nguyên liệu, lao động,
12.
Nguyễn Việt Thảo-hoàng Văn Hiển (1998), Quan hệ ngoại giao từ 1945, Nxb.chính trị quốc gia, Hà Nội.
23
Lưu Định Á (1994), Hãy cảnh giác với cuộc chiến tranh không có khói súng, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
tr . 17
3

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
năng lượng, gây ô nhiễm, chuyển dần các ngành này sang các nước đang phát
triển để tập trung phát triển trong nước các ngành sản xuất tiên tiến. Tác động
thứ 3 của Toàn Cầu Hoá là sự ra đời của hàng loạt các tổ chức như: khu vực
mậu dịch tự do Bắc Mĩ (NAFTA), diễn đàn hợp tác châu Á-Thái Bình Dương
(APEC)… Các tổ chức này lúc đầu được thành lập để liên kết kinh tế song về
sau mở rộng sang liên kết về chính trị. Sự liên kết của các nước khẳng định
chiều hướng của các nước muốn liên kết để tận dụng tiềm năng khu vực của
mình nhằm ứng phó với quá trình toàn cầu hoá đang tiến triển nhanh chóng. Và
tác động cuối cùng của Toàn Cầu Hoá là sự ra đời của các tổ chức thế giới như
tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng
quốc tế (WB)… làm tăng giao lưu giữa các nước trên lĩnh vực toàn cầu.
Với những tác động của cuộc cách mạng Khoa Học Công Nghệ và xu thế
Toàn Cầu Hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam những thời cơ song
không thiếu những vấn đề thách thức. Xu thế giao lưu thế giới ngày càng tăng là
điều kiện cho Việt Nam chớp thời cơ phát triển, hợp tác đầu tư trên mọi lĩnh
vực, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên không chớp
lấy thời cơ hay đề ra những chính sách khônh phù hợp sẽ biến Việt Nam trở
thành một nước tụt hậu trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam là một nước có nhiều nguồn lực để phát triển, cả ở trong và

ngoài nước. Việt Nam cần đưa ra được những chính sách và phương hướng sử
dụng ngồn lực đúng đắn để phát triển ngoại giao, đưa đất nước phát triển, vượt
qua những khó khăn thử thách để nâng tầm Việt Nam trên trường quốc tế.
1.2. Tình hình trong nước
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ 1975 thắng lợi, Việt Nam bước vào thời
kì thực hiện xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên bước vào những năm 1980,
Việt Nam lại lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội và quan hệ quốc tế.
Một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến những khó khăn, yếu kém là: sai
lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược
và tổ chức thực hiện, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật phát triển khách quan

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
của thời đại… Những sai lầm kéo dài trong chính sách đã gây ra những khó
khăn trong đất nước như: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng đến ba con số, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, dư luận xung quanh việc Việt Nam đưa quân vào
Campuchia chưa có hành lang pháp lý quốc tế đầy đủ đã khiến ta bị bao vây, cô
lập, các thế lực thù địch đã tăng cường chống phá.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và thực trạng đất nước, Đại hội đại
biểu lần VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu của
cách mạng trong thời kì đất nước đổi mới đi lên CNXH. Đại hội khẳng định:
“Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết, quyết tâm đem hết tinh thần và lực
lượng tiếp tục hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công CNXH và bảo vệ
vững chắc tổ quốc XHCN”
4
. Đại hội đã đề ra “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu
tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt
tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiên đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường tiếp theo”
5

.
Về lương thực, thực phẩm, bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội và
có tích trữ để đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu cần thiết của nhân dân, sản xuất
đáp ứng nhu cầu bình thường cho người dân về hàng tiêu dùng, về nông sản
thiết yếu, tạo một số mặt hàng chủ lực làm sao đạt được kim ngạch xuất khẩu
đáp ứng một phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư máy móc, phụ tùng và các hàng
thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa sản xuất chưa đủ.
Để đạt được mục tiêu lương thực thực phẩm, hàng xuất khẩu, hàng tiêu
dùng nói trên, Đảng đã tiến hành đổi mới hàng loạt các chính sách kinh tế xã hội
nhằm khai thác mọi tiềm lực của đất nước, sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ của
quốc tế. Tiêu biểu là việc chúng ta tiến hành xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, khuyến khích các thành phần kinh tế tiểu chủ, tư nhân, tư bản
nhà nước Về quản lý chúng ta đã xoá bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, tăng
cường chủ động cho các địa phương và các xí nghiệp, chủ động nâng cao kinh tế
4
Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại biểu toàn quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội tr. 37
5
Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại biểu toàn quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội tr. 42

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
đối ngoại, xây dựng luật đầu tư nước ngoài để khuyến khích vốn nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương đổi mới, ta đã gặp được nhiều
thắng lợi:
Về lương thực thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn, đến năm 1990 không những đã
đáp ứng đủ nhu cầu lương thực mà còn có nguồn dự trữ để xuất khẩu. Đó là kết
quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong
nông nghiệp, xoá bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương
thực thực phẩm trên phạm vi cả nước, “sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,5
triệu tấn, vượt hơn 2 triệu tấn so với năm 1987 và năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn”

6
.
Hàng hoá thị trường dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, có
tiến bộ về mẫu mã. Các cơ sở sản xuất với nhu cầu của thị trường, phần bao cấp
của nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương giảm đáng kể.
Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng về qui mô, hình thức và góp
phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Từ 1986-1990,
hàng xuất khẩu tăng lần từ 439 triệu sản phẩm và 384 triệu USD lên 1019 triệu
sản phẩm và 1170 triệu USD”
7
Lạm phát được kìm chế: Nếu chỉ số tăng bình quân hàng năm trên thị
trường “năm 1986 là 20% thì 1989 là 2,5% và 1990 là 4,4%”
8
. Nhờ kiềm chế
được lạm phát, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh,
đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng (họp 6/1991) tiếp tục đề ra chủ trương nhằm khắc phục những
khó khăn, đẩy mạnh những lợi thế để phát triển đất nước. Đại hội đề ra nhiệm vụ
mục tiêu của kế hoạch 5 năm (1991- 1995) là “vượt qua khó khăn thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực
và bất công xã hội, đưa đất nước ta vượt qua tình trạng khủng hoảng hiện nay”
9
.
6
Trần Bá Đệ (1998), Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay. Những vấn đề thực tiễn và lý luận của CNXH ở Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội tr .107.
7
Đảng Cộng Sản việt nam(1991),Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VII, Nxb sự thật,Hà Nội tr. 19, 27
8

98
Đảng cộng sản việt Nam(1991) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VII, Nxb Sự thật, Hà Nội tr. 60

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Trong thời kì thực hiện quyết định đại hội VII , ta đạt được nhiều thành
tựu to lớn trên công cuộc đổi mới “nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm về
tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2% (so với kế hoạch 5,5- 6,5%). Trong đó công
nghiệp tăng hàng năm bình quân 13,3% ( kế hoạch là 7,5- 8,5%). Một số ngành
có mức tăng cao: 1995 so với 1990, công nghiệp nhiên liệu tăng 3,2 lần, điện
gấp 1,6 lần”
10
.
Nông nghiệp tăng bình quân 4,5%, dịch vụ tăng 80% so với 1990, lạm
pháp tiếp tục bị đẩy lùi.
Kinh tế đối ngoại đạt trên 17 tỉ USD , đảm bảo nhập các loại vật tư và
thiết bị hàng hoá đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống.
Bên cạnh những thành tựu đạt được sau Đại hội VII của Đảng, ta gặp phải
những khó khăn chưa được giải quyết. Một trong những khó khăn đó là nước ta
vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, lực lượng sản xuất nhỏ bé,
cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến
chậm, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, chất lượng công trình thấp. Bên
cạnh đó tình trạng tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp cũng như
hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước vẫn chưa được ngăn chặn triệt để.
Sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân tăng nhanh. Đời sống của
một bộ phận nhân dân nhất là vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn.
Trong bối cảnh đó, Đại hội VIII của Đảng (họp từ 28/6 đến 1/7/1996) đã
kiểm điểm, đánh giá, thực hiện nghị quyết Đại hội VII, tổng kết mười năm đất
nước thực hiện đường lối đổi mới, đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong nhiệm kì mới.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình, từ nhận định nước ta đã thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, căn cứ vào “Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhấn
mạnh “nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
109
Trần Bá Đệ (1998) Lịch sử việt Nam 1975-nay. những vấn đề lý luận và thực tiễn của CNXH ở VN
ĐHQGN,Hà Nội tr. 117

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Đại hội của Đảng đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch
kinh tế xã hội 5 năm 1996 – 2000 là: “Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách
toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu phát triển nền kinh tế, nhanh, hiệu quả cao và bền
vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện đời sống
nhân dân nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”
11

Kế hoạch 5 năm (1996- 2000) được thực hiện trong điều kiện nhiều khó
khăn và những thuận lợi nhất định. Trong bối cảnh đó, kinh tế - xã hội nước ta tiếp
tục đạt được những thành tựu quan trọng.
“Nền kinh tế tiếp tục giữ vững được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế
có sự chuyển biến tích cực. Trong 5 năm, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân
13,5% / năm, nông nghiệp là 5,7%, lương thực bình quân đầu người tăng từ 360 kg
(1995) lên 444 kg (2000)”
12
“Cơ cấu ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa: trong tổng số sản phẩm xã hội, tăng tỉ trọng công nghiệp từ 28,7%
(1995) lên đến 36,6% (2000), giảm tỉ trọng nông nghiệp từ 27,2% còn 24,3%”
13
.

Kinh tế thương mại tiếp tục phát triển trong 5 năm 1996 – 2000. Hoạt
động xuất nhập khẩu trong 5 năm không ngừng tăng lên “xuất khẩu đạt 51,6 tỉ
USD, tăng bình quân hàng năm 21%. Nhập khẩu trong 5 năm khoảng 61 tỉ USD,
gấp 1,5 lần so với 5 năm trước”
14
.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng từng bước được mở rộng đầu tư ra nước
ngoài. Đến năm 2000 đã có 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ”
15
.
Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực, giáo dục và đào tạo
có bước phát triển cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo, cơ sở vật chất.
Các lĩnh vực văn hóa – xã hội phát triển đáng kể. Đến năm 2000 có 100% tỉnh,
thành phố đã phổ cập tiểu học và xóa nạn mù chữ; một số tỉnh bắt đầu phổ cập
11
11,12: Lịch Sử 12 (2002), Nxb. Giáo dục, tr. 290
12
13
Lịch Sử 12 (2002), Nxb. Giáo dục, tr. 290
1414
Lịch Sử 12 (2002), Nxb. Giáo dục, tr. 290
15
Lịch Sử 12 (2002), Nxb. Giáo dục, tr. 290

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
trung học cơ sở. Trong 5 năm, có khoảng 6,1 triệu lao động được thu hút vào
làm việc, bình quân mỗi năm thu hút 1,2 triệu người. Hộ đói nghèo giảm từ 20%
(1995) còn 10% (2000).
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng – an ninh được
tăng cường, quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng: đến năm 2000 ta có quan

hệ với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút
nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài.
Tóm lại, từ 1986 đến nay tình hình thế giới đã diễn ra nhiều biến động to
lớn đã tác động mạnh mẽ đến ngoại giao Việt Nam. Với những đánh giá khách
quan sâu sắc, áp dụng một cách thực tiễn, khoa học vào điều kiện của đất nước,
Đảng đã đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển ngoại giao Việt
Nam, nâng vị thế Việt Nam lên cao hơn trên trường quốc tế.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Chương 2
MỘT SỐ HỌAT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1. Bình thường hóa và tiếp tục phát triển quan hệ ngoại giao với một số
nước và tổ chức trong khu vực.
Vào cuối những năm 1970, sau khi phong trào giải phóng dân tộc
Campuchia giành thắng lợi, nhân dân Campuchia tiếp tục bước vào cuộc chiến
đấu chống chế độ diệt chủng của Pônpốt – Iêng xari. Là một nước láng giềng
thân thiện, Việt Nam đã đưa quân sang giúp đỡ nhân dân Campuchia. Đây là
việc làm thể hiện thiên chí của nhân dân Việt Nam với nhân dân Campuchia.
Tuy nhiên việc Việt Nam đưa quân sang Campuchia đã gây ra không ít những
dư luận xoay quanh. Sự việc này làm cho quá trình phát triển ngoại giao của
Việt Nam sau những năm đầu đổi mới trở nên khó khăn và phức tạp. Do vậy,
trong những năm đầu đổi mới, vấn đề Campuchia là vấn đề nổi cộm có tác động
rất lớn đến toàn bộ ngoại giao Việt Nam. khôi phục và mở rộng quan hệ với các
nước trong tương lai.
2.1.1. Bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bên cạnh cuộc kháng chiến sinh tồn
của nhân dân trong nước giành độc lập thì Việt Nam luôn có sự giúp đỡ của các
nước xã hội chủ nghĩa trong đó có sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Đó là
mối quan hệ anh em bền chặt của chủ nghĩa xã hội nói chung cũng như mối quan hệ

Việt Nam - Trung Quốc, Liên Xô nói riêng. Thế nhưng tháng 2/1979, Trung Quốc
đã nổ súng tấn công vào biên giới Việt Nam. Đó là vết đen trong lịch sử Việt Nam -
Trung Quốc, nỗi đau của những ai là người Việt cũng như người Hoa quý trọng và lo
vun đắp cho tình hữu nghị giữa nhân dân 2 nước.
Trong cuộc đàm phán Việt Nam - Trung Quốc sau 2 tháng nổ ra cuộc
chiến tranh (18/4/1979), Đại biểu Việt Nam đã đưa ra đề nghị ba điểm “Những
nguyên tắc và nội dung chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan
hệ Việt Nam - Trung Quốc:

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
1. Những biện pháp cấp bách nhằm bảo hoà bình ổn định ở vùng biên giới
2 nước bao gồm: không tập trung quân sát đường biên giới, cách li lực lượng vũ
trang 2 bên, chấm dứt mọi hành động khiêu khích chiến tranh và mọi hình thức
hoạt động đối địch….
2. Khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ sở những nguyên
tắc cùng tồn tại hoà bình
3. Giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ trên nguyên tắc tôn trọng
nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại.
Đây là những đề nghị nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt
do cuộc chiến tranh gây ra, ngăn ngừa chiến tranh trở lại vừa nhằm giải quyết
những vấn đề cơ bản trong mối quan hệ hai nước, thể hiện lòng mong muốn sớm
khôi phục lại tình hữu nghị lâu đời giữa hai nước, góp phần gìn giữ hoà bình, ổn
định ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Trong phiên họp thứ nhất của vòng hai tại Bắc Kinh (28/06/1979) Việt
Nam đã đưa ra “dự thảo thoả thuận” về việc hai bên cam kết không tiến hành
các hoạt động thám báo, trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau.
Không tiến hành bất cứ một hoạt động tiến công nào, không nổ súng từ lãnh thổ
bên này sang lãnh thổ bên kia, cả trên bộ, trên không, trên biển, không có bất kỳ
hoạt nào uy hiếp an ninh của nhau.
Những đề nghị của Việt Nam có thể đáp ứng yêu cầu của tình hình sau

khi chiến tranh đã xảy ra và quan hệ bị rạn nứt giữa hai nước. Ngày 26/04/1979,
trưởng đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc Hàn Nhiệm Long đã đưa ra lập
trường 8 điểm với nội dung chính sau đây:
1. Hai bên khôi phục quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước trên cơ
sở năm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không
xâm phạm lẫn nhau….
2. Bất cứ bên nào không có mưu cầu bá quyền Đông Dương, Đông Nam
Á và các khu vực khác…
3. Hai bên tôn trọng đường biên giới Trung - Việt …

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
4. Hai bên tôn trọng chủ quyền lãnh hải rộng 12 hải lý của mỗi bên…
5. Quần đảo Tây Sa và Nam Sa xưa nay vẫn là một lãnh thổ không chia
cắt được của Trung Quốc.
6. Kiều dân của bên nào cư trú ở bên kia đều phải tôn trọng pháp luật của
nước sở tại, tôn trọng phong tục tập quán.
7. Để thoả mãn yêu cầu chính đáng của nhân dân Việt Nam, đã bị cầm
quyền Việt Nam cưỡng ép xua đuổi sang Trung Quốc trở lại quê hương.
8. Về việc khôi phục quan hệ giữa hai nước về các mặt như: vận tải,
thương mại, hàng không…
Phía Trung Quốc đưa ra lập trường 8 điểm trong lúc họ thường xuyên duy
trì năm quân đoàn ở vùng biên giới Trung Việt, dùng 15 sư đoàn áp sát biên
giới, tiếp tục gây tình hình không ổn định cho Việt Nam. Yêu cầu Việt Nam từ
bỏ chủ quyền của mình trên lãnh thổ Hoàng Sa, Trường Sa, thay đổi đường lối
ngoại giao của mình, tiếp tục gây khó khăn cho Việt Nam. Hơn nữa, Trung
Quốc còn muốn dùng vấn đề Campuchia để tập hợp lực lượng, hạn chế ảnh
hưởng của Liên Xô với Đông Nam Á. Đó là lý do vì sao mà vấn đề bình thường
hoá qua hệ Việt Trung gắn liền với việc giải quyết vấn đề ở Campuchia.
Việt Nam, Liên Xô cùng Lào, Campuchia và các nước ASEAN tăng
cường giải quyết những vấn đề tồn tại giữa quan hệ Việt Nam và Campuchia,

tạo điều kiện để đi tới hoà hợp giưa Việt Nam - Trung Quốc nói riêng và Đông
Dương - Trung Quốc nói chung.
Ngày 18/1/1989, Việt Nam và Trung Quốc mở đàm phán về Việt Nam -
Campuchia. Ngày 5/4/1989, Việt Nam tuyên bố rút quân khỏi Campuchia vào
tháng 9 - 1989. Như vậy là đã đạt được yêu cầu mà Trung Quốc đặt ra cho Việt
Nam. Trung Quốc cần tính lợi ích chiến lược của mình.
Nhưng khi đó, phái Pônpốt không đủ khả năng khôi phục địa vị bằng
quân sự, ASEAN tích cực đóng vai trò quan trọng trong khu vực, Mĩ thấy cần
ủng hộ cố ghế của ba phái Campuchia tại Liên Hợp Quốc, thì các ghế của Trung
Quốc đã khác trước.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách với Việt Nam.
Ngày 15/7/1988, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đề nghị
với Trung Quốc hàng loạt các biện pháp nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ
giữa hai nước như: chấm dứt hành động vũ trang từ biên giới, đất liền, hải đảo,
không bên nào được đóng ở điểm cao trên đường biên giới, lui quân về phía sau
để tránh xung đột, ở điểm nóng Vị Xuyên cũng làm như vậy tạo điều kiện cho
nhân dân hai bên ghé thăm họ hàng, chấm dứt tuyên truyền chống đối nhau và
đề nghị đàm phán bất cứ cấp nào, kể cả cấp cao, bất cứ ở đâu, bí mật hay công
khai. Và ta đơn phương thực hiện đề nghị 15/7/1988, mở một số cửa khẩu cho
dân qua lại, giảm chống Trung Quốc trong tuyên truyền, dùng từ XHCN để nói
về Trung Quốc. Xu thế chung và các biện pháp mà Việt Nam chủ động đề ra
trong điều kiện Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách và mở cải là nguyên
nhân khiến Trung Quốc chấp nhận đàm phán với ta.
Bắt đầu ngày 18/1/1989, cuộc đàm phán với ta đến tới vòng thứ hai thì
Trung Quốc dừng lại để ép ta thêm. Sau khi rút khỏi Campuchia, vấn đề
Campuchia được nhanh chóng giải quyết giữa 5 nước thường trực Hội đồng bảo
an, Mĩ tuyên bố đàm phán với Việt Nam. Các nước phương Tây của ASEAN
phá hàng rào cấm vận của Mĩ và cải thiện quan hệ với Việt Nam.

Ngày 12/8/1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Lương Bằng tại Singapore đã
tuyên bố: Trung Quốc hi vọng cuối cùng sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt
Nam và thảo luận các vấn đề như Nam Sa…
Từ ngày 3 - 4/9/1990 diễn ra hội nghị cấp cao Việt Trung tại Thành Đô
(Trung Quốc). Tham gia hội nghị về phía Việt Nam có Tổng bí thư Đảng cộng
sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Cố vấn
Phạm Văn Đồng. Về phía Trung Quốc vụ có Tổng Bí thư Đảng cộng sản Trung
Quốc Giang Trạch Dân, Thủ tướng quốc viện Trung Quốc Lý Bằng.
Hai bên đều bày tỏ vui mừng sau hơn 10 năm quan hệ xấu đi. Hai bên đã
trao đổi thẳng thắn sâu rộng về quan hệ Việt Trung và vấn đề Campuchia.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Hai bên đồng ý khôi phục quan hệ giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam -
Trung Quốc, đồng thời với việc giải quyết vấn đề toàn diện công bằng, hợp lý về
Campuchia, từng bước cải thiện quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, từng bước
thực hiện bình thường hoá.
Về vấn đề Campuchia, hai bên cho rằng đã chín muồi để giải quyết
Campuchia một cách toàn diện, công bằng và hợp lý trước mắt hi vọng các bên
Campuchia thành lập được hội đồng nhân dân tối cao, Campuchia tương lai phải
là một nước hòa bình, độc lập, trung lập không liên kết, có quan hệ hữu nghị với
các nước láng riềng.
Cuộc gặp ở Thành Đô mở đường cho việc khai thông và phát triển quan
hệ truyền thống giữa hai nước. Từ đó quan hệ Việt Trung đã chuyển sang một giai
đoạn mới. Hai bên đã diễn ra các cuộc gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc thân thiện bàn về đẩy mạnh
quan hệ giữa hai nước. Ở Bắc Kinh, đoàn Việt Nam đã thăm một số cơ sở kinh tế văn hoá
của Trung Quốc. Các cuộc đàm phán và gặp gỡ đã diễn ra trong bầu không khí
hữu nghị, chân thành và thẳng thắn, tôn trọng và hiẻu biết lẫn nhau.
Hai bên nhìn lại những bước tiến triển mới trong mối quan hệ hai nước từ
cuộc gặp gỡ cấp cao Việt - Trung tháng 11/1991 đến nay. Hai bên nhất trí cho
rằng củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác láng giềng hữu nghị

giữa hai nước, cũng có lợi cho hoà bình, ổn định của khu vực.
Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt NamVũ Dũng nói: “Theo thoả thuận của
của cấp cao 2 nước xuất phát từ nhu cầu khách quan của 2 nước, phát triển toàn
diện, lâu dài. Tháng 11/2006, hai bên đã kí biên bản ghi nhớ về việc thành lập
Uỷ ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, với chức năng
chính là tăng cường chỉ đạo, điều phối vĩ mô đối với các cơ chế hợp tác hiện
hành giữa hai bên, quy hoạch tổng thể quan hệ hai nước trên các lĩnh vực, điều phối
giải quyết các vấn đề quan trọng, tăng cường tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác cùng
có lợi, đưa sự hợp tác toàn diện diện giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, thiết
thực, hiệu quả hơn.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Đến nay, sau một năm hoạt động với hai phiên họp tại Hà Nội 11/2006 và
tại Bắc Kinh 11/2008, Uỷ Ban chỉ đạo đã phát huy tốt vai trò đối ngoại nói trên,
có những đóng góp thiết thực, hiệu quả vào tăng cường sự hiểu biết và tin cậy
giữa hai bên, thúc đẩy tháo gỡ những vướng mắc mà hai nước chưa giải quyết
được.
Với chức năng của mình, Uỷ Ban chỉ đạo đã đạt được những thành tựu
đáng kể:
Thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng nói: “Trong phiên họp lần
2 tại Bắc Kinh từ 23 đến 25 tháng 1 năm 2008. Trước phiên họp đã diễn ra bốn
hoạt động quan trọng là: cuộc đàm phán chuyên cấp chuyên viên về phân định
khu vực ngoài cửu vịnh Bắc Bộ tại Bắc Kinh (từ 16 tới 20/1/2008), cuộc họp
cấp chủ tịch Uỷ Ban liên hợp phân giới cắm mốc biên giới trên bộ tại Hà Nội (từ
15 tới 20/1/2008), hai cuộc họp trù bị giữa hai Đảng và hai tổng thư ký Uỷ ban
chỉ đạo tại Bắc Kinh (21 đến 22/1/2008).
Trong các cuộc họp của Uỷ ban chỉ đạo, hai bên đã trao đổi rất thẳng thắn
và chân thành trên tình thần hữu nghị và đồng chí anh em về những biện pháp
thúc đẩy quan hệ hai nước theo phương châm 16 chữ đã được lãnh đạo cấp cao
thoả thuận và phương châm xử lý, giải quyết vấn đề tồn tại và nảy sinh trong

quan hệ hai nước. Hai bên đã đạt được những thoải thuận và nhận thức chung
quan trọng về hai loại vấn đề trên.
Hai bên khẳng định quan hệ hợp tác giữa hai nước trong thời gian qua,
tiếp tục có những bước phát triển mới, mạnh mẽ và toàn diện trên hầu hết những
lĩnh vực. Lãnh đạo cấp cao giữa hai nước tiếp tục duy trì truyền thống, đi thăm
và gặp gỡ thường xuyên, giúp tăng cường tin cậy, tạo động lực mới thúc đẩy
hợp tác giữa hai nước phát triển ngày càng sâu rộng, thực chất và hiệu quả.
Quan hệ thương mại có bước phát triển vượt bậc với kim ngạch hai chiều:
“Năm 2007 đạt khoảng 15 tỉ USD hoàn thành trước 3 năm mục tiêu đề ra
15 tỉ USD cho 2010.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Giao lưu và hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước cũng có
bước phát triển như:
Hai bộ quốc phòng đã kí thoả thuận và hợp tác biên phòng, hai Bộ công
an đã xây dựng cơ chế hợp tác từ Trung Ương xuống địa phương. Trung Ương
hai Đảng triển khai chương trình trao đổi kinh nghiệm cải cách, mở cửa và hội
nhập, đã tổ chức thành công cuộc hội thảo lần 3 về lý luận xây dựng CNXH.
Hai bên nhất trí chuẩn bị tích cực để các chuyến thăm của các nhà lãnh
đạo hai Đảng hai nước năm 2008 thành công tốt đẹp; củng cố để nâng cao hơn
trình độ giao lưu hợp tác giữa các bộ, ngành và địa phương hai nước, cũng như
giao lưu nhân văn, trong đó coi trọng giao lưu thanh niên và tăng cường hữu
nghị giữa hai nước. Phía Trung Quốc khẳng định sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp lớn, uy tín cao, tiềm lực lớn tăng cường đầu tư vào Việt Nam, sẵn sàng
nhập khẩu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam để cải thiện tình hình nhập siêu
của Việt Nam; thúc đẩy điều tra nghiên cứu các dự án trong phạm vi “ hai hành
lang và một vành đai kinh tế “Việt - Trung, …Sớm họp lại Uỷ ban liên hợp kinh
tế - thương mại và khởi động nhóm công tác và soạn thảo “Quy hoạch 5 năm
phát triển hợp tác kinh tế nhằm đưa kinh tế - thương mại hai nước phát triển
toàn phương vị lên tầm cao mới, sớm hoàn tất nội dung để kí ngay hai hiệp định

về kiểm dịch động vật và thực vật tạo thuận lợi cho xuất nhập khẩu qua biên
giới; đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phối hợp và hợp tác chặt chẽ giữa hai
nước trên các vấn đề quốc tế trọng đại, nhất là sau khi Việt Nam đảm nhận chức
Uỷ viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc và tăng cường
hợp tác trong khuôn khổ khu vực như 10 + 1, 10 + 3, GMS và khu vực mậu dịch
tự do Trung Quốc - ASEAN (CAFTA). Hai bên đã thoả thuận các biện pháp để
đưa vào sử dụng khoản vay tín dụng ưu đãi 500 triệu USD mà Trung Quốc đã
giành cho Việt Nam.
Hai bên đã trao đổi thẳng thắn đầy đủ về những vấn đề nhạy cảm, quan
trọng trong quan hệ hai nước. Đó là vấn đề vấn đề biên giới và lãnh thổ đặc biệt
là vấn đề biển Đông, trong đó có hai quần đảo là Hoàng Sa và Trường Sa.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Hai bên đạt được một số nhận thức chung quan trọng nhằm xử lý và giải
quyết những vấn đề tồn tại và nảy sinh và đều hi vọng rằng trên cơ sở tiến triển
trong tương lai đặc biệt là trong phiên họp của Uỷ ban chỉ đạo lần này, các vấn
đề tồn tại sẽ được giải quyết hợp lý thoả đáng nhằm thu hẹp bất đồng, tăng
cường tin cậy, giữ gìn hữu nghị và thúc đẩy quan hệ hợp tác, góp phần duy trì
hoà bình ổn định ở biển Đông và trong khu vực.
Hai bên nhất trí đẩy nhanh công tác phân giới, cắm mốc, giải quyết dứt
điểm các vấn đề tồn tại, giải quyết song vấn đề trên bộ, xây dựng đường biên
giới Việt - Trung thhành đường biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác, cùng
phát triển lâu dài giữa hai nước. Về vấn đề trên biển, hai bên nhât trí cần duy trì
ổn định, không làm phức tạp thêm tình hình, thúc đẩy hợp tác trước hết là hợp
tác trên những vấn đề nhạy cảm như khảo sát khoa học biển, cứu hộ nạn…tiếp tục
đàm phán về vấn đề Vịnh Bắc Bộ đi đôi với tìm kiếm khả năng hợp tác phù hợp.
Nhìn tổng thể 17 năm qua, quan hệ Việt Trung đã không ngừng phát triển
cả về bề rộng lẫn bề sâu. Trên mọi lĩnh vực, đã hình thành khuôn khổ quan hệ
mới là phương châm 10 chữ và rất nhều hiệp định, thoả thuận làm cơ sở pháp lý
cho việc đi sâu hợp tác ngày càng có hiệu quả đem lại lợi ích thiết thực cho cả

hai nước.
Hiện nay, quan hệ giữa hai nước đang đứng trước cơ hội phát triển ổn
định, lâu dài để nâng lên tầm cao hơn, lành mạnh và bền vững hơn. Tuy còn tồn
tại một số vấn đề do lịch sử để lại, điều quan trọng là lãnh đạo cấp cao hai nước
đặc biệt quan tâm chỉ đạo. Duy trì và tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị và
hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc là lợi ích cơ
bản của cả hai nước và phù hợp với xu thế hoà bình ổn định, hợp tác cùng phát
triển ở khu vực và thế giới.”
16
2.1.2. Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ
Quan hệ Việt -Mỹ là mối quan hệ đi theo những chặng đường quanh co,
từ tiếp xúc bình thường, chiến tranh tiếp nối chiến tranh rồi lại bình thường hoá.
16
Google :Đối ngoại-VN-Trung Quốc (2007)

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Mỹ lấy việc giải quyết vấn đề Campuchia và vấn đề MIA (Những người
Mỹ mất tích) làm điều kiện để bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ. Việt Nam có
yêu cầu kéo Mỹ vào đàm phán, từng bước tiến tới bình thường hoá quan hệ Việt
- Mỹ, phá một bước bao vây, cấm vận của Mỹ, tranh thủ sự hoà bình với Mỹ để
tiến cập, làm bạn với các nước, tích cực giải quyết vấn đề MIA.
Sau khi đi Hà Nội, phái đoàn Moodcock cho rằng nên bình thường hoá
quan hệ Việt Nam không điều kiện. Họ cũng đề nghị lập văn phòng liên lạc tại 2
thủ đô khi bình thường hoá quan hệ.
Từ 1986, Việt - Mỹ chính thức chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Ngày
8/6/1990 Việt Nam và Mỹ cùng đàm phán về vấn đề Campuchia và bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam.
Ngày 20/1/1988, Tổng thống Mỹ Reagan tuyên bố: trong khung cảnh một
giải pháp giải quyết vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia, Mỹ sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.

Ngày 26/9/1989 Việt Nam hoàn toàn rút quân khỏi Campuchia. Quan hệ
Việt - Mỹ ngày càng được mở rộng, đã có những khoản viện trợ cho Việt Nam,
từng bước nới lỏng cấm vận, tiến tới bình thường hoá quan hệ. Việt Nam tăng
cường thực hiện kế hoạch MIA. Đó là điều kiện đẩy nhanh tiến trình quan hệ
Việt - Mỹ.
Ngày 06 tháng 08 năm 1990, đối thoại Việt - Mỹ vòng một đã diễn ra giữa
Đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch
và Bộ trưởng ngoại giao J. Baker tại New York (ngày 29 tháng 09 năm 1990) và
Pari (ngày 23 tháng 10 năm 1991 lúc này Bộ trưởng ngoại giao là Nguyễn Mạnh
Cầm). Ngày 09 tháng 04 năm 1991, phía Mĩ đưa ra lộ trình bốn bước bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 22 tháng 11 năm 1991, Thứ trưởng
ngoại giao Việt Nam Lê Mai và Trợ lý ngoại trưởng Mĩ phục trách vấn đề Châu
Á R. Solomon tiến hành đàm phán chính thức lần đầu tiên về bình thường hóa
quan hệ Việt Mỹ. Phía Mỹ đưa ra 5 yêu cầu về vấn đề MIA và 7 điểm trong vấn
đề nhân đạo ở Việt Nam. Việt Nam yêu cầu chính phủ Mỹ bãi bỏ hoàn toàn

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
lệnh cấm vận với Việt Nam và tiếp tục đàm phán giải quyết các vấn đề tồn tại
trong quan hệ hai nước. Những sự kiện này chứng tỏ Mỹ đã công khai hóa chủ
trương bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và cũng thể hiện những lỗ lực
ngoại giao của Việt Nam tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Từ cuối năm 1991, Mỹ bắt đầu có những động thái rõ ràng hơn hướng tới
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 23 tháng 12 năm 1991, Mĩ bãi bỏ
việc hạn chế đi lại 25 dặm đối với các nhà ngoại giao Việt Nam tại Liên hợp
quốc, ngày 30 tháng 04 năm 1992, cho phép nối đường dài liên lạc bằng bưu
chính viễn thông Mỹ - Việt; Ngày 30 tháng 04 năm 1992 cho phép xuất khẩu các
mặt hàng phục vụ nhu cầu cơ bản của con người sang Việt Nam và nới lỏng,
các hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ giúp đỡ nhân đạo cho Việt Nam,
ngày 16 tháng 09 năm 1992, Bộ ngoại giao Mỹ tuyên bố hỗ trợ cho Việt Nam 2
triệu USD trong chương trình giúp đỡ người tị nạn Việt Nam hồi hương, ngày 14

tháng 12 năm 2009, Tổng thống Mỹ G. Bush tuyên bố cho phép các Công ty của
Mỹ được lập văn phòng và ký các hợp đồng kinh tế ở Việt Nam sau khi Mỹ xóa
bỏ lệnh cấm vận.
Trong thời gian này, hai bên tiếp tục tiến hành lộ trình bình thường hóa ở
cấp độ khác nhau. Mỹ lần lượt bãi bỏ các lệnh cấm vận với Việt Nam cho phép
các Công ty tiến hành đầu tư, tài trợ. Bên cạnh đó nhiều phái đoàn nghị sĩ,
thương nhân và những cựu chiến binh Mỹ sang thăm Việt Nam, tìm hiểu và tạo
cơ hội làm ăn ở Việt Nam. Trong hai ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1993, Đặc phái
viên của Tổng thống B.Clinton J. Vesey tiếp tục tới Việt Nam nhằm trao đổi ý
kiến về cải thiện quan hệ Mỹ Việt. Từ ngày 15 đến 18 tháng 07 năm 1993, phái
đoàn cấp cao của Mỹ gồm 22 thành viên đưa tổng thống Mỹ cử ra sang thăm
Việt Nam. Đây là cấp cao nhất của Mỹ vào Việt Nam kể từ 1975
Các hoạt động ngoại giao sôi động đó đã góp phần thúc đẩy Chính phủ
Mỹ tiến gần hơn việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 3 tháng 2
năm 1994, Tổng thống Mĩ B. Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt
Nam và đề nghị hai nước trao đổi cơ quan liên lạc. Sự kiện này đánh dấu chấm

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
cuộc bao vây cấm vận Việt Nam suốt 20 năm của Mĩ và mở đường cho hai nước
tiến đến chỗ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Sự kiện đó đã khai thông
quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tiền tệ lớn trên thế giới, nó tạo điều kiện
dễ dàng cho quan hệ Việt Nam với các tổ chức này.
Vào 11/7/1995, Tổng thống Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ
Việt - Mỹ.
Vì vậy chính phủ và nhân dân Việt Nam rất hoan nghênh quyết định của
Tổng thống Mỹ B.Cliton. Sẵn sàng cùng chính phủ Hoa Kỳ bàn về một khuôn
khổ mới cho quan hệ 2 nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng, độc lập, chủ quyền,
không can thiệp vào công cuộc nội bộ của nhau, cùng có lợi và phù hợp với
nguyên tắc quốc tế.
Những quan hệ đó phục vụ những mục đích chính đáng của nhân dân 2

nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn đình, hợp tác trong khu vực cũng
như trên thế giới. Việt Nam sẽ có những cố gắng để tìm kiếm người Mỹ mất tích
trong chiến tranh Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam và nhân dân Việt Nam cho rằng bước phát triển mới
của quan hệ Việt - Mỹ sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ gần
gũi hơn với đất nước. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kêu
gọi đồng bào Việt Nam tại Hoa Kỳ hãy giúp đỡ đến nhau, góp phần cho cuộc
sống hoà bình,thịnh vượng, phát triển mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, chung
sức với đồng bào trong nước xây dựng Việt Nam thành một quốc gia dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ là sự kiện lớn trong lịch
sử quan hệ 2 nước. Từ đây mở ra một khuôn khổ mới trong quan hệ giữa 2 nước
trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, cùng có lợi.
2.1.3. Khôi phục quan hệ Việt Nam - ASEAN
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á bao gồm 10 quốc gia (tính
đến 2003): Campuchia, Brunây, Inđônêsia, Lào, Malayxia, Myanmar, Philippin,

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Singapore, Thái Lan, Việt Nam. Trừ vương quốc Thái Lan, các nước còn lại đều
trải qua thời kỳ thuộc địa và cuối cùng đã được giải phóng sau chiến tranh thế
giới thứ 2. Sau quá trình đấu tranh giành độc lập, một số nước có mục tiêu giữ
gìn nền độc lập và khôi phục đất nước là vô cùng quan trọng. Hơn thế nữa, quá
trình hội nhập và liên kết các nước về mọi mặt đang diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu
cho thời kỳ này là sự thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) đã thúc đẩy
quá trình hội nhập trên thế giới. Mặt khác để tránh sự can thiệp của các nước đế
quốc, đặc biệt là Mĩ, các nước Đông Nam Á chuẩn bị thành lập tổ chức Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN).
Ngày 8-8-1967, 5 nước Đông Nam Á: Singapore, Malayxia, Philipin,
Inđônêxia, Thái Lan đã thành lập ra tổ chức ASEAN.

Đến năm 1972, ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên vẫn hoạt
động riêng rẽ, chủ yếu là hợp tác song phương, sự giao lưu giữa các nước còn
chưa được mở rộng.
Tháng 2 năm 1972, tại Bali (Inđônêxia) các nước ASEAN đã tham gia
hiệp ước Bali. Hội nghị đã thông qua những nguyên tắc hoạt động và những
điều khoản quan trọng trong mối quan hệ các nước. Từ đó đến nay, ASEAN
luôn hoạt động tích cực và đạt được nhiều thành tựu lớn.
Trong lúc đó, tình hình thế giới và tình hình trong khu vực có những
chuyển biến nhanh chóng. Trên thế giới, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đầu năm
1973 đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Các nước đều phải tiến hành công
cuộc điều chỉnh để phù hợp với tình hình hiện tại, đề cao mục tiêu phát triển
kinh tế lên hàng đầu.
Ở Đông Dương, Mỹ đã phải rút quân, Việt Nam, Lào, Campuchia được
giải phóng, quan hệ giữa 3 nước Đông Dương ngày càng khăng khít. Như vậy ở
Đông Nam Á đã hình thành 2 nhóm nước đó là những nước ASEAN và ba nước
Đông Dương. Sau khi được giải phóng, Việt Nam và ASEAN đã có bước quan
hệ với nhau, có nhiều chính sách đẩy mạnh quan hệ giữa 2 nhóm nước.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Tuy nhiên từ cuối những năm 70 đến đầu những năm 80 của thế kỷ 20,
quan hệ giữa nhóm ASEAN và Đông Dương đã trở nên căng thẳng do vấn đề
chiến tranh ở Việt Nam và Chế độ diệt chủng: Pônpôt-Iêng Xari. đây là vấn đề
chi phối rất lớn đến những hoạt động đối của Việt Nam.
Sau khi giải quyết vấn đề Đông Dương, Việt Nam trở lại mối quan hệ hữu
nghị với ASEAN, từng bước đặt mối quan hệ hợp tác, giữa 2 bên đã có nhiều
cuộc gặp cấp cao.
Đầu những năm 1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các
nước ASEAN và các nước trong khu vực”.
Tháng 2 năm 1989 cùng với Lào, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia

hiệp ước Bali.
Tháng 10- 1990, Tổng thống Inđônêxia sang thăm hữu nghị chính thức
Việt Nam.
Từ 24-10 đến 1-1-1991, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm hữu nghị chính
thức Cộng hoà Inđônêxia, Vương quốc Thái Lan, Cộng hoà singapore
Tháng 1-1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm hữu nghị Cộng hoà Philippin
và Vương quốc Brunây.
Tháng 4-1992, Thủ tướng liên bang Malayxia thăm chính thức Việt Nam.
Tháng 7-1992, Việt Nam chính thức ký hiệp ước Bali và trở thành quan
sát viên của ASEAN.
Cuộc gặp hữu nghị giữa Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng diễn ra
nhiều hơn, xiết chặt quan hệ giữa 2 nhóm nước Đông Dương nói chung và giữa
Việt Nam nói riêng với ASEAN.
Tháng 5-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt tham dự hội nghị quốc tế: “Những
làn sóng của tương lai: ASEAN - Việt Nam - Trung Quốc những cơ hội mới
cho thế giới.”
Tháng 7-1994, Uỷ ban thường trực ASEAN nhất trí nguyên tắc Việt Nam
trở thành viên của ASEAN.

Đề tài : Những hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ 1986 đến nay
Ngày 17-10-1994, Việt Nam gửi đơn chính thức xin ra nhập ASEAN.
Ngày 27-7-1995, tại Banda Seri Begaoan đã diễn ra trọng thể lễ kết nạp
Việt Nam làm thành viên chính thức, đầy đủ của ASEAN.
Trong xu thế thế giới đang phát triển khu vực hoá, quốc tế hoá sự phụ
thuộc giữa các quốc gia ngày càng rõ nét. Trong tình hình đó, sự gia nhập
ASEAN của Việt Nam là một xu thế tất yếu khách quan.
Ngày 27-7-1995, với Việt Nam là một dấu son trong lịch sử hội nhập dân
tộc cũng như trong khu vực, tạo thuận lợi cho sự phát triển chung của toàn khu
vực. Đông Nam Á đã và đang trở thành một khu vực phát triển năng động nhất, đầy
hứa hẹn sẽ trở thành trung tâm kinh tế, thương mại của thế giới vào thế kỷ tới.

Mấy tháng sau khi ra nhập ASEAN, Việt Nam đã tham gia vào hội nghị cấp
cao ASEAN lần thứ 5 từ ngày 14 đến 15-12-1995. Hội nghị có sự tham gia của các
vị đứng đầu của các nước Bruney, Indônêxia, Malayxia, Philippin, Singapore, Thái
Lan, Việt Nam ngoài ra còn có Thủ tướng Myanma, Lào, Campuchia. Hội nghị
diễn ra nhiều quyết định quan trọng trong đó có 6 điểm chính:
1. ASEAN sẽ phấn đấu nhanh chóng thực hiện một ASEAN bao gồm tất
cả các nước Đông Nam Á khi bước vào thế kỷ XXI.
2. ASEAN sẽ tiến hành các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hơn bản
sắc, tinh thần và ý thức cộng đồng ASEAN thông qua sự tham gia ngày càng
rộng rãi của công dân ASEAN.
3. ASEAN sẽ đưa hợp tác chuyên ngành lên một tầm cao mới để đem lại
phồn vinh chung cho tất cả các quốc gia thành viên của mình.
4. ASEAN sẽ phấn đấu tiến tới hội nhập kinh tế to lớn thông qua các việc
phát huy các hoạt động hợp tác kinh tế hiện có, xúc tiến hợp tác trên lĩnh vực
mới và thúc đẩy hợp tác chặt chẽ hơn tại các diễn đàn quốc tế.
5. ASEAN sẽ thực hiện các biện pháp để tăng cường hơn nữa sức mạnh
tự cường quốc gia và khu vực về chính trị, kinh tế, xã hội, nhân đạo và các lĩnh
vực khác.

×