MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức và giáo dục đạo đức là một phạm trù xã hội, xuất hiện khi có
xã hội loài người, tồn tại và phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Đạo đức là một khía cạnh quan trọng trong việc hình thành nhân cách của mỗi
con người, nói lên mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội. Đạo đức
là kết quả của một quá trình giáo dục, là kết quả của sự tu dưỡng, rèn luyện
của bản thân. Ngày 21 tháng10 năm 1964 Bác Hồ khi về thăm trường đại học
sư phạm Hà Nội, đã nói: “Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một
bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường
XHCN. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức
cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức cách mạng thì
có tài cũng vô dụng”. Điều 2, Luật giáo dục (sửa đổi 2005) đã chỉ rõ “Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức tri
thức, sức khỏe thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và
năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Văn kiện
hội nghị ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam lần 2 khoá VIII, khi
đánh giá về công tác giáo dục đào tạo trong thời gian qua đã nêu “Đặc biệt
đáng lo ngại trong một bộ phận học sinh, sinh viên có trình trạng suy thoái đạo
đức, mờ nhạt lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập
nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong những năm tới cần tăng
cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ
nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh…tổ chức cho học sinh tham gia
các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu
giáo dục toàn diện”.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Đời sống của nhân dân được nâng lên một bước.
Bên cạnh đó, những mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động đến các tầng
1
lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên và học sinh như: Lối sống thực dụng,
thiếu ước mơ, hoài bão, sa ngã vào những tệ nạn xã hội, ma tuý. Mặt khác do
cơ chế mở cửa, sự xâm nhập văn hoá phẩm đồi truỵ, phim ảnh bạo lực… đã và
đang làm huỷ hoại thể lực, trí tuệ, đạo đức thế hệ chủ nhân tương lai của đất
nước.
Huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội cũng không nằm ngoài thực trạng
đó. Trong những năm qua, từ khi sát nhập vào Thủ đô Hà Nội do tốc độ đô thị
hoá nhanh, nền kinh tế cùng các ngành nghề dịch vụ phát triển, nhiều gia đình
cha mẹ mải mê đi làm ăn kinh tế, ít có thời gian quan tâm đến con cái, họ
thường giao phó việc học hành của con cho nhà trường. Khi không có sự quản
lý giám sát chặt chẽ của gia đình, nhà trường và xã hội các em dễ bị lôi kéo, sa
ngã vào các tệ nạn xã hội, thường xuyên bỏ học, tụ tập và có những hành vi vi
phạm đạo đức. Hoạt động giáo dục đạo đức (GDĐĐ) và quản lý hoạt động
GDĐĐ cho học sinh trong các nhà trường đã có những kết quả nhất định.
Song sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa
thật chặt chẽ, các hình thức giáo dục chưa phong phú, việc giáo dục học sinh
chưa ngoan đôi khi bị “hành chính hoá”. Công tác quản lý hoạt động GDĐĐ
trong các nhà trường vẫn còn những khó khăn bất cập.
Vấn đề GDĐĐ học sinh và quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh đã được
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Các công trình nghiên
cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận GDĐĐ và quản lý hoạt động
GDĐĐ cho học sinh THPT nói riêng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên
cứu về quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh ở các trường THPT thuộc
huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội. Vì vậy để góp phần vào việc GDĐĐ cho
học sinh trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nên tôi đã chọn
đề tài: “Biện pháp Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường THPT thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt
nghiệp.
2
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng hoạt động quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện của các
trường THPT thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường
THPT thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh và cán bộ quản lý các trường THPT trong công tác quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của các trường THPT thuộc huyện
Ứng Hoà, thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu có những giải pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh THPT hợp
lý và được thực hiện theo một trình tự nhất định, thì sẽ nâng cao hiệu quả giáo
dục toàn diện cho học sinh ở các trường THPT, góp phần từng bước hoàn
thiện mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước đối với học sinh
trung học phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở khoa học của hoạt động quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh ở trường trung học phổ thông.
5.2. Khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng việc quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh ở các trường THPT thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà
Nội.
5.3. Đề xuất và lý giải các giải pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường THPT thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội.
3
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu lý thuyết về giáo dục, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục,
quản lý giáo dục đạo đức; Những quy luật triết học Mác xít, đường lối quan
điểm giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam; Nghiên cứu tài
liệu về hoạt động của cán bộ quản lý, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò
- Phương pháp trò chuyện và phỏng vấn
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
7. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành nghiên cứu ở 05 trường THPT thuộc huyện Ứng
Hoà, thành phố Hà Nội (Trường THPT Ứng Hoà A; Trường THPT Ứng Hoà
B; trường THPT Trần Đăng Ninh; Trường THPT Lưu Hoàng; Trường THPT
Đại Cường)
- Đối tượng khảo sát: Cán bộ lãnh đạo quản lý, Đoàn thanh niên, giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, phụ huynh và học sinh 05 trường THPT
thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, phần nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức và công tác quản lý
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT huyện Ứng Hoà,
thành phố Hà Nội
Chương 3. Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường THPT huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội.
4
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
- Nhà triết học Socrat (470-399 trước công nguyên) đã cho rằng đạo đức
là tôn trọng những quy định chung và lợi ích chung của mọi người và ông đã
hướng triết học vào mục đích giáo dục con người.
- Aristoste (384-322-TCN) cho rằng đạo đức là cái thiện của cá nhân,
chính trị là cái thiện của xã hội.
- Comenki (1592-1670) đã đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức trong
đó chú trọng đến hành vi là động cơ đạo đức.
Sang thế kỷ 20 có nhiều nhà tâm lý học, giáo dục nổi tiếng của Liên Xô
(cũ) như:
- A-X Makarenko: Trong tác phẩm bài ca sư phạm, các vấn đề giáo dục
người công dân (giáo dục trẻ em phạm pháp và không gia đình) đã đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục đạo đức và các biện pháp giáo dục đúng
đắn như sự nêu gương, nguyên tắc giáo dục tập thể và thông qua tập thể.
- V-A Xukhomlinki với kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục ở trường
nông thôn Pavlush ông cho rằng: dạy học trước hết là sự giao tiếp về tâm hồn
giữa thầy và trò “Dạy trẻ phải hiểu trẻ, thương trẻ, và tôn trọng trẻ…”
- V-A Khuchetxki cho rằng : “Quá trình lĩnh hội những khái niệm đạo
đức là quá trình rất phức tạp và nó đòi hỏi phải có sự chỉ đạo đặc biệt.”…
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Sau cách mạng tháng 8 (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ: Năm 1950 TW Đảng và Chính phủ quyết định tiến
hành cải cách giáo dục “Nền giáo dục của dân, do dân, vì dân” thực hiện ba
nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng” với phương châm: “học đi đôi với
5
hành”, “lý luận gắn liền với thực tiễn”. Mục tiêu nhà trường đào tạo người cán
bộ vừa hồng vừa chuyên. Bác Hồ đã nhấn mạnh đến giá trị đạo đức cách mạng
là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, và cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Năm 1979 Bộ chính trị và TW Đảng cộng sản Việt Nam đã ra nghị
quyết về cải cách giáo dục và Uỷ ban cải cách giáo dục TW đã ra quyết định
số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong trường
học, đã ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh từ mẫu giáo
đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều Bác Hồ dạy”.
Nghị quyết Hội nghị lần 2 của BCH TW Đảng khoá VIII (1996) có nêu:
“Mục tiêu chủ yếu là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học,
hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng
tạo và năng lực thực hành”. Với tư tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con
người vào vị trí trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát
triển. Trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc
tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và là
mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Chính vì vậy đã có nhiều tác giả trong nước nghiên cứu về vấn đề giáo
dục đạo đức và công tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên từ
nhiều góc độ khác nhau như:
- Tác giả Phạm Minh Hạc [16] đã nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc
nhân cách, thực hiện giáo dục trong phát triển nhân cách. Công trình nghiên
cứu của ông và các cộng sự về phát triển toàn diện con người Việt Nam trong
thời kỳ CNH - HĐH đất nước đã dành một chương cho vấn đề đạo đức,
GDĐĐ, các giải pháp nâng cao hiệu quả GDĐĐ trong giai đoạn hiện nay
nhằm tìm ra các giải pháp về GDĐĐ;
- Tác giả Hà Thế Ngữ [19] đã nghiên cứu vấn đề tổ chức quá trình
GDĐĐ thông qua giảng dạy các môn khoa học đặc biệt là các môn khoa học
xã hội và nhân văn, giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức
đạo đức cách mạng, hướng dẫn các hành vi đạo đức cho học sinh;
6
- Tác giả Hà Nhật Thăng [31] đã đề cập đến những vấn đề chung như
phương pháp luận của GDĐĐ, xây dựng các chuẩn mực đạo đức của con
người Việt Nam trong thời kỳ CNH – HĐH, các giải pháp nâng cao hiệu quả
GDĐĐ trong giai đoạn hiện nay. Nhìn chung các tác giả đã nghiên cứu mối
quan hệ giữa nhận thức khoa học với GDĐĐ, những biểu hiện nhân cách trong
lối sống của thanh niên. Đặc biệt những năm gần đây nhiều nhà nghiên cứu,
nhà hoạt động xã hội đã và đang nhức nhối trước những hiện tượng suy thoái
đạo đức của một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên đang ngồi trên ghế nhà
trường mà có hành vi bạo lực, vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội.
Ngành GD&ĐT nói chung và GD&ĐT Hà Nội nói riêng đã quan tâm
và có nhiều văn bản chỉ đạo về việc GDĐĐ, giáo dục truyền thống cho học
sinh trong nhà trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, toạ đàm về
công tác phòng chống tệ nạn xã hội và ma tuý xâm nhập học đường, bạo lực
học đường Tuy nhiên ở huyện Ứng Hoà nói riêng vấn đề này vẫn chưa có
tác giả nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy chúng tôi hy vọng với đề
tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường
THPT thuộc huyện Ứng Hoà thành phố Hà Nội” sẽ góp phần giúp cho các nhà
quản lý giáo dục các trường THPT trên địa bàn huyện Ứng Hoà, có thể tham
khảo để nâng cao hiệu quả việc GDĐĐ cho học sinh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
K.Marx đã viết: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào,
được thực hiện ở quy mô tương đối lớn, đều cần ở một chừng mực nhất định
đến sự quản lý; Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc có thể và
hoàn thành những chức năng chung xuất hiện trong toàn bộ cơ thể sản xuất,
khác với sự vận động của bộ phận riêng rẽ của nó” [26].
Như vậy, bản chất của quản lý là một hoạt động lao động, một hoạt
động tất yếu vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển xã hội loài người.
7
Quản lý là khoa học vì nó là lĩnh vực tri thức được hệ thống hoá và là đối
tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học phân loại kiến
thức, giải thích các mối quan hệ khách quan đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể quản lý. Quản lý là một nghệ thuật, bởi lẽ nó là hoạt động đặc
biệt đòi hỏi sự khôn khéo, tinh tế và linh hoạt những kinh nghiệm đã quan sát
được, những tri thức đã đúc kết được, người quản lý qua đó áp dụng những kỹ
năng tổ chức con người và công việc. Xôcrat, nhà triết học người Hy Lạp đã
nói: “Những người biết cách sử dụng con người sẽ điều khiển công việc hoặc
các nhân một cách sáng suốt. Trong khi những người không biết làm như vậy
sẽ mắc sai lầm trong việc điều hành cả hai công việc này”
Khái niệm về quản lý được nhiều nhà khoa học trình bày trên những
phương diện tiếp cận khác nhau.
- “Quản lý một tổ chức là nhằm đạt đến sự ổn định và phát triển bền
vững các quá trình xã hội, quá trình tồn tại của tổ chức đó” [1]; Thuật ngữ
quản lý (tiếng Việt gốc Hán) bao gồm hai quá trình tích hợp vào nhau. Quá
trình “quản” bao gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định. Quá
trình “lý” bao gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế “phát triển”.
- “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và
đạt được mục đích của tổ chức” [8].
- “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người sao cho mục tiêu
của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội” [12].
- “Quản lý là những tác động có tính định hướng, có kế hoạch của chủ
thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt
được mục đích nhất định” [28].
Tóm lại: Các khái niệm quản lý tuy trình bày có khác nhau, song chúng
đều có những điểm giống nhau về nội hàm là được tiến hành trong một tổ
chức hay một nhóm xã hội, chúng là những tác động có định hướng của chủ
8
thể quản lý, những tác động đó được phối hợp nỗ lực của cá nhân nhằm thực
hiện mục tiêu của tổ chức.
1.2.2. Đạo đức
Trong xã hội dù muốn hay không, con người bao giờ cũng phải có
những mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với mọi người xung quanh. Mối
quan hệ ấy vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp đòi hỏi mỗi người phải có
những ứng xử, giao tiếp và thường xuyên điều chỉnh hành vi, thái độ của bản
thân cho phù hợp với yêu cầu và lợi ích chung của mọi người. Trong trường
hợp đó con người được xem là có đạo đức. Ngược lại, với những biểu hiện
thái độ hành vi vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích của người khác
hoặc của cộng đồng, bị xã hội phê phán thì cá nhân đó bị coi là vô đạo đức.
Theo từ điển tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên
tắc, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.
Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn, đạo
đức của một giai cấp nhất định” [27].
Vấn đề đạo đức nảy sinh trên cơ sở của sự điều chỉnh hành vi mà ta coi
đó là những quan hệ đạo đức. Có nhiều khái niệm khác nhau về đạo đức:
- Theo Phạm Khắc Chương: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh những tồn tại xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội thực hiện trên
cơ sở kinh tế. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp đến cao như những nấc
thang giá trị của văn minh con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất và
thông qua sự đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng
phong phú và hoàn thiện hơn” [9].
- Theo tác giả Trần Hậu Kiêm: “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc,
quy tắc chuẩn mực xã hội - nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội” [22].
9
Tóm lại, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh những quan hệ
xã hội thực hiện được hình thành trên cơ sở của một nền kinh tế - xã hội. Vì
vậy mỗi hình thái kinh tế - xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đề được định hình
bởi những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức tương ứng.
1.2.3. Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là hình thành cho con người những quan điểm cơ bản
nhất, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội. Nhờ đó con
người có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội
cũng như tự đánh giá suy nghĩ về bản thân của mình. Vì thế, công tác giáo dục
đạo đức góp phần vào việc hình thành, phát triển nhân cách phù hợp với từng
giai đoạn phát triển.
“Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới người học để hình thành cho
họ ý thức, tình cảm và một niềm tin đạo đức, đích cuối cùng quan trọng nhất
của giáo dục đạo đức là tạo lập những thói quen hành vi đạo đức”[33].
Giáo dục đạo đức còn gắn bó chặt chẽ với giáo dục pháp luật. Giáo dục
pháp luật giúp cho người học nắm được chuẩn mực của pháp luật, các quyền
lợi và nghĩa vụ của người công dân. Thực hiện pháp luật một cách tự giác góp
phần tạo nên cuộc sống bình yên cho xã hội đó chính là thể hiện những phẩm
chất đạo đức chân chính. Vì đạo đức là sự phản ánh trình độ văn hoá của con
người cho nên giá trị GDĐĐ nhân văn là một nhiệm vụ quan trọng: “Giáo dục
hệ thống giá trị đạo đức nhân văn là một quá trình tổ chức hoạt động của giáo
dục bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp giúp mọi người hiểu biết hệ thống
giá trị chuẩn mực đạo đức nhân văn theo yêu cầu của sự phát triển xã hội và
giúp mọi người tự giác có nhu cầu thực hiện những chuẩn mực đó. Hệ thống
giá trị đó định hướng, điều chỉnh hành vi của con người” [32].
Như vậy giáo dục đạo đức là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, xuyên
suốt toàn bộ hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và
phát triển nhân cách con người. Bởi vậy giáo dục đạo đức luôn là mối quan
10
tâm của toàn xã hội, là vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục và
đào tạo vì sự phát triển con người và phát triển xã hội.
1.2.4. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Trường THPT là cơ quan giáo dục của Nhà nước. Hiệu trưởng quản lý
nhà trường, quản lý giáo dục theo theo chế độ thủ trưởng. Hiệu trưởng chịu
trách nhiệm quản lý toàn diện hoạt động giáo dục của nhà trường, trong đó có
giáo dục đạo đức.
Về bản chất, quản lý giáo dục đạo đức là quá trình tác động có định
hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình giáo dục
đạo đức nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục đạo đức bằng xây dựng
kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kế hoạch và kiểm tra
việc thực hiện kế hoạch để đạt được những yêu cầu, mục tiêu, nội dung giáo
dục đạo đức theo các chuẩn mực đạo đức mà xã hội đặt ra đồng thời phù hợp
với lứa tuổi, cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Như vậy, quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức là hoạt động điều hành việc giáo dục đạo đức để đạo
đức vừa là yêu cầu vừa là mục tiêu của nền giáo dục.
1.3. Đặc trưng của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
1.3.1. Mục tiêu của hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của quá trình giáo dục toàn diện trong
nhà trường. Do đó, mục tiêu GDĐĐ nằm trong mục tiêu chung của nhà
trường. Mục tiêu của GDĐĐ là giúp cho mỗi cá nhân nhận thức đúng đắn các
giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết sống
vì mọi người, vì gia đình, vì sự tiến bộ xã hội.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Dạy cũng như học
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc
quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì tài cũng vô dụng”. Lời dạy
của Người nhằm xác định con người mới XHCN, đó là con người có tri thức
11
(có tài), nhưng phải có đạo đức trong sáng biết đặt lợi ích của tổ quốc lên trên
lợi ích cá nhân.
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 35, năm
1992) nêu rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, Nhà nước phát triển giáo dục
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện”.
Quan điểm của Đảng đối với ngành giáo dục là: Thường xuyên giáo
dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học
tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Từ những quan điểm trên cho thấy giáo dục đạo đức là nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình sư phạm, nó đóng vai trò then chốt trong hoạt
động giáo dục của nhà trường THPT bao gồm các nhiệm vụ sau:
- Phát triển các nhu cầu đạo đức cá nhân: Giáo dục đạo đức là quá
trình biến các hệ thống chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi của bên ngoài
xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong cá nhân, thành niềm
tin, thói quen của người được giáo dục. Từ đó họ luôn nảy nở những tình
cảm hướng tới cái chân, thiện, mỹ, họ luôn rèn luyện phấn đấu để đạt được
những phẩm chất mong muốn.
- Hình thành và phát triển ý thức đạo đức và giáo dục tình cảm đạo
đức: Giáo dục đạo đức luôn cung cấp những tri thức về phẩm chất đạo đức,
về các chuẩn mực đạo đức, từ đó giúp cho người được giáo dục hình thành
và phát triển ý thức đạo đức. Đồng thời khơi dạy ở họ những rung động,
cảm xúc với hiện thực xung quanh, biết yêu, ghét rõ ràng, có thái độ đúng
đắn với các hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội.
- Rèn luyện ý trí, hành vi, thói quen và các ứng xử đạo đức: Trong
quá trình giáo dục đạo đức sẽ tổ chức cho người học lặp đi lặp lại những
hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt và trong cuộc sống. Từ đó giúp
12
họ rèn luyện ý trí, hành vi, thói quen đạo đức và cách ứng xử để hình thành
thói quen đạo đức bền vững.
Mặt khác quá trình giáo dục đạo đức là một quá trình tiếp thu những
tinh hoa văn hoá của nhân loại và quá trình sáng tạo những tri thức mới.
Các tri thức đó luôn mang tính đặc thù dân tộc và thời đại. Chính vì vậy mà
GDĐĐ còn có nhiệm vụ rất quan trọng là phát triển các giá trị đạo đức cá
nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại.
1.3.2. Nguyên tắc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
1.3.2.1. Giáo dục cho học sinh trong thực tiễn sinh động của xã hội
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường phải gắn liền với đời sống thực tiễn
của xã hội, của cả nước và địa phương, phải nhạy bén với tình hình chuyển
biến của địa phương và của cả nước, đưa những thực tiễn đó vào những giờ
lên lớp, vào những hoạt động của nhà trường để giáo dục học sinh.
1.3.2.2. Giáo dục theo nguyên tắc tập thể
Nguyên tắc này thể hiện ở cả 3 nội dung: Dìu dắt học sinh trong tập thể
để giáo dục; Giáo dục bằng sức mạnh tập thể; Giáo dục học sinh tinh thần vì
tập thể.
Trong một tập thể lớp, tập thể chi đội có tổ chức tốt, có sự đoàn kết nhất
trí thì sức mạnh của dư luận tích cực sẽ góp phần rất lớn vào việc giáo dục đạo
đức cho học sinh.
Những phẩm chất tốt đẹp như tinh thần tập thể, tính tổ chức kỷ luật, tình
đồng chí và tình bạn, tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, tính khiêm tốn học
hỏi mọi người bao giờ cũng do giáo dục tập thể hình thành.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi nhà trường phải tổ chú trọng
đến các tập thể lớp, tập thể chi đoàn. Nhà trường phải cùng với Đoàn thanh
niên làm tốt phong trào xây dựng các chi đoàn vững mạnh trong trường học.
13
1.3.2.3. Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự
giác của học sinh
Giáo dục đạo đức bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác của
học sinh là chính, không nên cưỡng ép, mệnh lệnh, dọa nạt sẽ biến học sinh
thành những đứa trẻ thụ động, sợ sệt, rụt rè.
Nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải kiên trì, nhẫn nại, phải có tình
thương đối với học sinh một cách sâu sắc, không thể làm qua loa làm cho
xong việc. Yêu cầu đối với học sinh cần phải giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ cho các
em hiểu, để các em tự giác thực hiện.
1.3.2.4. Giáo dục đạo đức cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu
điểm là chính, trên cơ sở đó mà khắc phục khuyết điểm
Đặc điểm tâm lý của học sinh là thích được khen, thích được thầy, bạn
bè, cha mẹ biết đến những mặt tốt, những ưu điểm, những thành tích của
mình. Nếu giáo dục đạo đức quá nhấn mạnh về khuyết điểm của học sinh,
luôn nêu cái xấu, những cái chưa tốt trong đạo đức của các em thì sẽ dễ đẩy
các em vào tình trạng tiêu cực, chán nản, thiếu tự tin, thiếu sức vươn lên.
Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng
những mặt tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ,
dùng những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm gương người
tốt việc tốt khác để giáo dục các em.
1.3.2.5. Ttôn trọng nhân cách học sinh, đề ra yêu cầu ngày càng cao
đối với học sinh
Muốn xây dựng nhân cách cho học sinh người thầy cần phải tôn trọng
nhân cách các em. Tôn trọng học sinh, thể hiện lòng tin đối với học sinh là
một yếu tố tinh thần có sức mạnh động viên học sinh không ngừng vươn lên
rèn luyện hành vi đạo đức. Khi học sinh tiến bộ về đạo đức cần kịp thời có yêu
cầu cao hơn để thúc đẩy các em vươn lên cao hơn nữa.
14
Trong công tác giáo dục đòi hỏi người thầy phải yêu thương học sinh
nhưng phải nghiêm với chúng, nếu chỉ thương mà không nghiêm học sinh sẽ
nhờn và ngược lại thì các em sẽ sinh ra sợ sệt, rụt rè, không dám bộc lộ tâm tư
tình cảm, do đó người thầy không thể uốn nắn tư tưởng, xây dựng tình cảm
đúng đắn cho học sinh được.
1.3.2.6. Giáo dục đạo đức phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học
sinh và đặc điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh
Công tác giáo dục đạo đức cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh là quá độ, phức tạp và nhiều mâu thuẩn để từ đó hình thức, biện pháp
thích hợp. Cần phải chú ý đến cá tính, giới tính của các em. Đối với từng em,
học sinh gái, học sinh trai cần có những phương pháp giáo dục thích hợp,
không nên đối xử sư phạm đồng loạt với mọi học sinh. Muốn vậy người thầy
phải sâu sát học sinh, hiểu rõ cá tính từng em để có những biện pháp giáo dục
phù hợp.
1.3.2.7. Nhân cách của người thầy trong công tác GDĐĐ cho học
sinh THPT
Kết quả công tác giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường phụ thuộc
rất lớn vào nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu,
phương pháp sư phạm dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những
ảnh hưởng trực tiếp của nhân cách người thầy với học sinh. Bác Hồ đã có lời
dạy chúng ta về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân: “… Giáo
viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa chuyên môn, đức là chính trị.
Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức…Cho nên thầy giáo, cô
giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”.
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức giữa các
thành viên trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục học
sinh giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
15
1.3.3. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi
công việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ.
Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết” [13].
Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên của Hồ Chí Minh
thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, giáo dục lý tưởng cách mạng, chí khí phấn đấu là nội dung
quan trọng hàng đầu.
- Thứ hai, giáo dục, bồi dưỡng cho thanh niên tính hiếu thuận và lòng
nhân ái
- Thứ ba, giáo dục, bồi dưỡng tri thức văn hoá, khoa học kỹ thuật và
nghề nghiệp để thanh niên có đủ trình độ năng lực hoàn thành nhiệm vụ do
cách mạng giao phó.
Trong nhà trường THPT nội dung về GDĐĐ cho học sinh bao gồm:
- Giáo dục ý thức chính trị: Là ý thức về quyền lợi giai cấp, sự tồn vong
và giàu mạnh của đất nước về vai trò của đất nước trong quan hệ với các quốc
gia trên thế giới. Nó bao hàm ý thức về chủ quyền dân tộc, về tồn tại và toàn
vẹn lãnh thổ, về sự giàu mạnh của đất nước, về đường nối lãnh đạo và chiến
lược phát triển đất nước của Đảng, sự tuân thủ chính sách đối nội và đối ngoại
của quốc gia, về thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân trong cuộc sống,
học tập, lao động, nghĩa vụ quân sự…
- Giáo dục ý thức pháp luật: Thể hiện ở việc tham gia xây dựng các bộ
luật, thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Biết đấu tranh để pháp luật thực hiện công minh, quyền được
bảo hộ của luật pháp.
16
- Giáo dục ý thức đạo đức: Thể hiện ở sự nhận thức và thực hiện các
quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong
cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận về thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn
minh, lương tâm, trách nhiệm, mục đích cuộc sống, nếp sống, lối sống, trong
gia đình, trong cộng đồng và xã hội.
- Giáo dục hành vi đạo đức: Trang bị cho học sinh những nhu cầu nhận
thức đạo đức và văn hoá đạo đức để họ có các hành vi phù hợp với các chuẩn
mực của xã hội. Nhu cầu nhận thức đạo đức và văn hoá đạo đức là những nhu
cầu cơ bản hàng đầu của đời sống tinh thần trong thế giới tinh thần phong phú
của con người, là những giá trị không chỉ dừng ở mức độ nhận thức mà nó đòi
hỏi con ngường phải có kỹ năng sống, kỹ năng tham gia vào đời sống đạo đức
tốt đẹp của con người và xã hội.
- Phát triển ý thức đạo đức: Trang bị cho học sinh những hiểu biết,
niềm tin về các chuẩn mực, các quy tắc đạo đức như giáo dục ý thức sống,
giáo dục lối sống cá nhân, giáo dục ý thức về các mối quan hệ trong gia đình,
trong tập thể và ngoài xã hội, giáo dục ý thức về cuộc sống lao động sáng tạo,
giáo dục về nghĩa vụ lao động và bảo vệ tổ quốc.
- Bồi dưỡng tình cảm đạo đức: Hình thành và phát triển những xúc cảm,
tình cảm đạo đức trong sáng; Xây dựng niềm tin đạo đức dựa trên cơ sở kết
hợp hài hoà giữa nhận thức và tình cảm đạo đức đã đạt được. Từ đó hình
thành nhu cầu, động cơ, tình cảm phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Tất cả những nội dung trên giúp cho học sinh sống và làm việc theo
pháp luật; Học tập và rèn luyện tốt để trở thành người công dân có tri thức, có
kỷ luật, có được các đức tính tốt đẹp như: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư, khiêm tốn, giản dị, học tập và rèn luyện suốt đời, sẵn sàng xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
17
1.3.4. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Về phương pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng so sánh “Óc những người tuổi trẻ trong sáng như một tấm
lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ” [13]. Vì vậy,
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên phải được coi là một khoa học,
với các phương pháp cơ bản:
- Kết hợp chặt chẽ khoa học công tác giáo dục của các tổ chức đoàn thể xã
hội với tự tu dưỡng, tự rèn luyện của thanh niên.
- Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên.
- Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đạo đức mới với đấu tranh loại bỏ
những hành vi vô đạo đức.
Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, việc nêu gương,
khen thưởng người tốt việc tốt là phương pháp có ý nghĩa và tác dụng rất lớn.
Bản thân Người luôn là tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời trong
việc lựa chọn mục tiêu lý tưởng, suốt đời chiến đấu, hy sinh vì độc lập, hạnh
phúc của nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, tấm gương sáng về tinh thần học tập,
rèn luyện với những phẩm chất đạo đức nhân ái, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư cho các thế hệ thanh niên Việt Nam.
Ở các trường THPT, GDĐĐ là cách thức tác động của các nhà giáo dục
lên người học nhằm hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức cần
thiết. Về cơ bản phương pháp GDĐĐ gồm ba phương pháp chính: Phương
pháp thuyết phục; Phương pháp tổ chức hoạt động; Phương pháp kích thích
những hành vi. Song sự cụ thể hoá các phương pháp càng chi tiết bao nhiêu thì
hiệu quả các phương pháp càng tốt bấy nhiêu, bởi nó quyết định thời gian đạt
được mục đích GDĐĐ nhanh hay chậm.
Cụ thể các phương pháp gồm có:
* Nhóm các phương pháp tổ chức các hoạt động xã hội và hình
thành các kinh nghiệm ứng xử xã hội
18
Đây là phương pháp đưa con người vào các hoạt động thực tiễn để tập
dược, rèn luyện tạo nên hành vi thói quen đạo đức. Nó bao gồm:
- Phương pháp đòi hỏi sư phạm: Là phương pháp nêu nên các đòi hỏi
về mặt sư phạm, đề ra các yêu cầu về đạo đức đối với học sinh.
- Phương pháp giao công việc: Là cách thức nôi cuốn học sinh vào các
hoạt động tập thể, nhờ đó họ thu lượm được những kinh nghiệm trong quan hệ
đối xử giữa người với người theo nguyên tắc đạo đức XHCN thông qua việc
thực hiện những nghĩa vụ xã hội.
- Phương pháp tạo dư luận xã hội: Là phương pháp dùng sự phản ánh
những đòi hỏi tập thể, nó trở thành một phương tiện giáo dục mạnh mẽ đối với
học sinh. Dư luận xã hội trở thành một phương pháp giáo dục khi đánh giá các
hành vi của các thành viên hoặc nhóm tập thể. Để tạo ra dư luận xã hội lành
mạnh, cần luôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động tập thể, các sự kiện
tiêu biểu trong đời sống của môi trường giáo dục, hướng dẫn học sinh thảo
luận, nhận xét các sự kiện đó đúng hay sai.
- Phương pháp tạo tình huống giáo dục: Là những tình huống của lựa
chọn tự do. Đặt trong tình huống đó học sinh nhất thiết phải lựa chọn một giải
pháp nhất định trong số các phương án khác nhau. Trong khi lựa chọn giải
pháp học sinh phải biết phân tích và xem xét hành động của mình có phù hợp
với chuẩn mực đạo đức không, từ đó có biện pháp tự điều chỉnh.
* Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cá nhân
- Phương pháp đàm thoại: Là trao đổi ý kiến với nhau về một đề tài
giáo dục cho học sinh, nhằm giúp đỡ họ phân tích đánh giá các sự kiện, hành
vi, các hiện tượng trong đời sống xã hội. Từ đó hình thành thái độ đạo đức cho
học sinh.
- Phương pháp tranh luận: Là hình thức cho học sinh phán đoán, đánh
giá niềm tin dựa trên sự va chạm các ý kiến, quan điểm khác nhau nhờ đó
19
nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng, tính mềm dẻo của các tri thức
thu được.
- Phương pháp nêu gương: Đây là phương pháp quan trọng để giáo dục
ý thức cho học sinh. Việc hình thành ý thức cho học sinh phải thường xuyên
dựa vào những mẫu mực cụ thể, sống động, biểu hiện những tư tưởng và lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
ứng xử của học sinh
- Phương pháp thi đua: Là phương pháp kích thích phương hướng tự
khẳng định ở mỗi học sinh, thúc đẩy học tập, đua tài gắng sức, hăng hái vươn
lên, lôi cuốn người khác cùng tiến lên dành được những thành tích cao nhất.
Thi đua là kích thích sự nỗ lực, phát huy sáng tạo, đề cao ý thức trách nhiệm,
thực hiện sự tương trợ tập thể.
- Phương pháp khen thưởng: Là biểu hiện sự đánh giá tích cực của xã
hội đối với cá nhân và tập thể, khích lệ họ, làm tấm gương cho các học sinh
khác phấn đấu và tự điều chình hành vi của mình.
- Phương pháp trách phạt: Là biểu thị thái độ không tán thành, lên án,
phủ định của nhà giáo dục, của gia đình, xã hội đối với các hành vi sai trái,
giúp cho học sinh tự điều chỉnh bản thân phù hợp với chuẩn mực đã định.
1.3.5. Hình thức tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, nó
được tiến hành với những hình thức tổ chức (con đường và phương thức) cụ
thể sau đây:
1.3.5.1. Giáo dục đạo đức thông qua việc dạy các môn học trong
chương trình chính khoá
Qua các môn học trong chương trình chính khoá làm cho học sinh
chiếm lĩnh được những tri thức khoa học, những khái niệm đạo đức, được thực
20
hành, rèn luyện đạo đức trong đời sống hàng ngày từ đó hình thành ý thức đạo
đức, củng cố những kỹ năng, chuẩn mực đạo đức và hành vi đạo đức trong
cuộc sống giữa người với người.
Các môn khoa học tự nhiên giáo dục học sinh tư duy lôgic, khoa học,
chính xác trong việc khám phá thế giới. Nó có tác dụng giúp học sinh hình
thành các phẩm chất: Tư duy hợp lý, coi trọng nhân quả, cần cù chịu khó, khát
vọng sáng tạo, biết tôn trọng chân lý, quy luật khách quan, khiêm tốn, trung
thực.
Các môn khoa học xã hội nhân văn có ưu thế nổi trội trong việc GDĐĐ
cho học sinh. Thông qua các môn học này bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, hình
thành thái độ cư xử và hành vi đạo đức.
1.3.5.2. Giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (GDNGLL) như: Sinh hoạt
Đoàn thanh niên, tham quan dã ngoại, văn hoá văn nghệ - thể dục thể thao; các
chủ đề trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục hướng nghiệp,
giáo dục kỹ năng sống; các bổi ngoại khoá về hoạt động xã hội, truyền thống
dân tộc, uống nước nhớ nguồn…
Thông qua các các hoạt động GDNGLL, giáo dục được tinh thần tập
thể, tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau tạo nên nếp sống đoàn kết
thân thiện, đồng thời rèn luyện năng lực hoạt động xã hội của mỗi cá nhân, tạo
nên sức “đề kháng” cho các em trước những hành vi cám giỗ lệch chuẩn.
1.3.5.3. Giáo dục đạo đức thông qua lao động sản xuất
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Học phải đi đôi với hành, lý luận phải
gắn liền với thực tiễn”.
Thông qua lao động sản xuất, giáo dục cho học sinh có nhận thức đúng
đắn về mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, biết vận dụng kiến thức đã học và thực tiễn sản xuất; qua đó
giáo dục lòng yêu lao động, sự trân trọng các thành quả lao động của cá nhân,
21
của cộng đồng và xã hội. Đây là hoạt động có ảnh hưởng rất lớn trong việc
hình thành nhân cách học sinh. Hoạt động lao động của các em bao gồm lao
động công ích ở trường, ở gia đình và ngoài xã hội. Khi tham gia lao động sẽ
bồi dưỡng được tình cảm yêu lao động và trân trọng người lao động, làm nảy
nở tình cảm mới: Niềm vui vào kết quả lao động, tự hào về kết quả lao động,
hài lòng với những thắng lợi sau những nỗ lực kiên trì; thói quen phục tùng lợi
ích tập thể. Lao động gắn liền với học tập, đó là lời dạy của Nguời và cũng là
một trong những nguyên lý giáo dục của chúng ta hiện nay.
1.3.5.4. Giáo dục đạo đức bằng hình thức tự tu dưỡng, tự rèn luyện
bản thân
Đây là nhân tố quyết định trực tiếp đến đạo đức của mỗi học sinh. Sự
phát triển đạo đức đòi hỏi có sự tác động từ bên ngoài và những động lực bên
trong, đó chính là quá trình giáo dục và tự giáo dục. Tự giáo dục mang yếu tố
quyết định đến việc rèn luyện đạo đức.
1.3.5.5. Giáo dục đạo đức thông qua sự gương mẫu của người thầy
Người thầy luôn là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo. Nhân
cách của người thầy có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giáo dục và đào tạo
cho học sinh. Lứa tuổi này các em có yêu cầu ở thầy cô phải có phẩm chất
cao. Các em hiểu và biết nhận xét đánh giá từng thầy cô, có xu hướng cảm
phục và yêu quý những thầy cô giỏi, tâm lý, các em sẵn sàng làm theo sự
hưỡng dẫn của thầy cô. Những người thầy cao quý đó thực sự là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo. “Làm gương” là phương pháp thể hiện cuộc sống
mẫu mực của chính mình để thuyết phục học sinh, để làm rung động tâm hồn
học sinh. Khổng Tử gọi đây là “Phương pháp thân giáo” – Phương pháp đặc
trưng của giáo dục.
1.4. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
1.4.1. Mục tiêu của công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT
22
Quản lý hoạt động GDĐĐ trong xã hội ta hiện nay nói chung và trong
nhà trường nói riêng nhằm hướng tới việc phát triển toàn diện nhân cách cho
người học, làm cho quá trình GDĐĐ vận hành đồng bộ, hiệu quả để góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục; đồng thời làm cho quá trình GDĐĐ tác động tới
người học để hình thành cho họ ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức, tạo lập
những thói quen hành vi đạo đức.
Mục tiêu công tác quản lý hoạt động GDĐĐ bao gồm:
- Về nhận thức: Làm cho mọi lực lượng tham gia giáo dục có nhận thức
về tầm quan trọng của công tác quản lý hoạt động GDĐĐ; Nắm vững quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển
con người toàn diện.
- Về thái độ tình cảm: Làm cho mọi lực lượng tham gia giáo dục biết
ủng hộ lẽ phải, ủng hộ những việc làm đúng, biết lên án, phê bình, đấu tranh
với những biểu hiện sai trái về đạo đức, có thái dộ đúng đắn với các hành vi
của bản thân đối với hoạt động quản lý GDĐĐ.
- Về hành vi: Làm cho mọi lực lượng tham gia giáo dục, trong đó có đội
ngũ cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên, học sinh tích cực tham gia quản lý và
tổ chức việc GDĐĐ thông qua các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội, rèn
luyện tu dưỡng theo chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.
1.4.2. Nội dung, phương pháp, quy trình và biện pháp quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
1.4.2.1. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Nội dung quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT gồm:
- Quản lý việc thực hiện mục tiêu GDĐĐ: Đó là những tác động của chủ
thể quản lý thông qua chức năng cơ bản của quản lý đến khách thể quản lý, tập
trung mọi nguồn lực của mình vào mục tiêu GDĐĐ cho học sinh.
- Quản lý việc thực hiện các nội dung GDĐĐ: Đó là những tác động
của chủ thể quản lý thông qua chức năng cơ bản của quản lý đến khách thể
23
quản lý, tập trung mọi hoạt động giáo dục của mình vào việc thực hiện từng
nội dung GDĐĐ .
- Quản lý việc thực hiện các phương pháp GDĐĐ: Đó là những tác
động của chủ thể quản lý thông qua chức năng cơ bản của quản lý đến khách
thể quản lý, tập trung mọi hoạt động giáo dục của mình vào việc lựa chọn và
đổi mới phương pháp GDĐĐ .
- Quản lý việc thực hiện các hình thức tổ chức GDĐĐ: Đó là những tác
động của chủ thể quản lý thông qua chức năng cơ bản của quản lý đến khách
thể quản lý, tập trung mọi hoạt động giáo dục của mình vào việc lựa chọn và
đổi mới các hình thức GDĐĐ .
- Quản lý việc phối hợp các lực lượng tham gia GDĐĐ: Đó là những
tác động của chủ thể quản lý thông qua chức năng cơ bản của quản lý đến
khách thể quản lý, đến các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội trong và
ngoài nhà trường. Tập trung và chia sẻ với nhà trường trong việc xây dựng
mục tiêu, xác định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động
GDĐĐ cho học sinh.
- Quản lý việc đánh giá kết quả GDĐĐ : Đó là những tác động của chủ
thể quản lý thông qua chức năng cơ bản của quản lý đến khách thể quản lý, tập
trung vào việc đánh giá chính xác kết quả GD & ĐT theo các chuẩn mực đạo
đức đã được thống nhất.
1.4.2.2. Các phương pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Phương pháp quán lý hoạt động GDĐĐ là cách thức mà chủ thể quản lý
tác động vào học sinh nhằm đạt được những mục tiêu quản lý đề ra. Trong các
trường THPT thường sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp tổ chức hành chính: Là phương pháp tác động trực tiếp
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các mênh lệnh hành chính dứt
khoát bắt buộc như: Nghị định, nghị quyết, quy định, nội quy… Phương pháp
tổ chức hành chính là vô cùng cần thiết trong hoạt động quản lý. Tuy nhiên
khi sử dụng phương pháp này cần chú ý không lên quá lạm dụng sẽ dẫn tới
bệnh quan liêu mệnh lệnh.
24
- Phương pháp kinh tế: Đây là phương pháp mà chủ thể quản lý tác
động gián tiếp đến đối tượng quản lý dựa trên các lợi ích vật chất và các đòn
bẩy kinh tế để làm cho đối tượng quản lý suy nghĩ đến lợi ích của mình, tự
giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm một cách tốt nhất mà không phải đôn
đốc nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể quản lý. Những
phương pháp kinh tế thường dùng như: Cộng điểm, khen thưởng, xử phạt khi
có hành vi xấu.
- Phương pháp tâm lý – xã hội: Là phương pháp tạo sự khuyến khích
đến đối tượng quản lý sao cho họ luôn luôn toàn tâm toàn ý vào công việc, coi
những mục tiêu, nhiệm vụ của chủ thể quản lý như là mục tiêu công việc của
chính họ, hơn nữa họ luôn luôn cố gắng học hỏi tích luỹ kinh nghiệm ngày
càng tốt hơn, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1.4.2.3. Quy trình quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1) Kế hoạch hoá hoạt động giáo dục đạo đức
Hoạt động kế hoạch hoá là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ
thống kế hoạch quản lý chung của cơ sở. Bản kế hoạch GDĐĐ phải có nội
dung thể hiện rõ về mục tiêu, các tiêu chí đánh giá mục tiêu, dự kiến được
nguồn lực (nhân lực, tài lực và vật lực), thời gian, các biện pháp thực hiện
mục tiêu. Như vậy khi lập kế hoạch người quản lý cần chú ý:
- Đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu GDĐĐ với mục tiêu giáo dục.
- Lựa chọn nội dung, hình thức hoạt động đa dạng, thiết thực, phù hợp
với hoạt động tâm sinh lý học sinh để có hiệu quả giáo dục cao.
- Thành lập ban chỉ đạo để theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc
thực hiện kế hoạch.
Căn cứ vào những chú ý vừa nêu trên người thủ trưởng cần phải xây
dựng kế hoạch quản lý trong quá trình GDĐĐ, nó bao gồm các loại kế hoạch
sau:
- Kế hoạch hoạt động theo chủ điểm
- Kể hoạch động theo chương trình
- Kể hoạch hoạt động theo các mặt hoạt động của xã hội
25