Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Hình tượng con hổ trong văn hóa thời Nguyễnx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.74 KB, 9 trang )

Hình tượng con hổ trong văn hóa thời Nguyễn

Mười hai con giáp được hợp thành từ 12 con vật, đối
ứng với 12 địa chi. Mỗi khi Tết về, người Việt Nam lại
nghênh đón con vật biểu trưng cho năm mới và tiễn đưa
con vật năm cũ với lời hẹn 12 năm sau gặp lại.
Theo vòng quay như vậy, cứ 12 năm lại có năm Dần
thuộc một trong ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).
Như năm nay là Canh Dần (thuộc hành Mộc), và 12 năm
sau sẽ là Tân Dần (thuộc hành Thủy) và đủ một hội 60
năm nữa sẽ lại Canh Dần thuộc hành Mộc.
Hình tượng các con thú không chỉ gắn với 12 con
giáp mà còn xuất hiện nhiều trong nghệ thuật trang trí,
tạo hình của nhiều nền văn hóa khác nhau. Văn hóa
Nguyễn nói chung, trong đó văn hóa kiến trúc, đã tạo nên
một thế giới biểu tượng phong phú, gồm cả một số
những con giáp nói trên.
Ngày Xuân Canh Dần, lòng người thảnh thơi trong mối
giao hòa cùng với đất trời, cảnh vật xứ Huế phơi phới
xanh tươi mà nhớ đến những nơi chốn đã lưu giữ hình
tượng con hổ, một dấu ấn mang tính tâm linh trong thế
giới biểu tượng của Văn hóa Nguyễn.
1. Chuyện Hổ
Hổ (còn gọi là cọp, hùm), động vật có vú thuộc họ Mèo,
là một trong bốn loại “mèo lớn”. Truyền thuyết kể rằng,
lúc Nguyễn Ánh bị nhà Tây Sơn truy lùng; gặp hoàn cảnh
ngặt nghèo, hết cả lương thực, may nhờ có thịt thú rừng
do hổ tha tới tiếp tế mỗi ngày mà sống. Về sau, khi lên
ngôi vua, ông đã cho lập miếu thờ tại vùng Mô Xoài
thuộc tỉnh Bà Rịa để tạ ơn. Dân gian thường gọi là miếu
Ông Hổ. Tục truyền, vua còn ban lệnh cấm giết hổ. Nếu


kẻ nào lỡ tay giết chết hổ thì bị phạt 30 trượng.Còn nếu
bắt sống thì được thưởng 30 quan tiền. Cũng vì lệ này
mà hổ còn được gọi là Ông Ba Mươi. Do sức mạnh và
sự nhanh nhẹn của chúng, người ta thường phong cho
hổ là chúa sơn lâm.
Loài hổ phần lớn sống trong rừng và đồng cỏ. Đối với
Đông y hổ có thể cung cấp nhiều phương thuốc quí hiếm
như bổ dưỡng, tăng cường sinh lực, chữa các loại bệnh
về sinh lý. Xương hổ được dùng để nấu thành cao gọi
là cao hổ cốt, giúp trị bệnh suy dinh dưỡng, đau khớp.
Hiện nay, nhiều người vẫn tin rằng các chế phẩm từ hổ
có thể đem lại nhiều may mắn hay trừ được tà ma. Một
phần do sự khai thác hổ lấy da, một phần cũng vì để bào
chế các loại thuốc nhằm chữa trị những căn bệnh mà Y
học hiện đại chưa tìm ra cách chữa nên hổ tại các nước
châu Á đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Đối với văn hóa Việt Nam, hổ là biểu tượng của sự hùng
cường, thể hiện sức mạnh vô song. Trong 12 con
giáp, Hổ (Dần) đứng hàng thứ ba của địa chi.
2. Hình tượng hổ trong Văn hóa Nguyễn
Kinh thành Huế với địa thế “Tả Thanh long, Hữu Bạch
hổ” - Thanh long, Bạch hổ là hai trong bốn thánh thú hợp
thành tứ tượng hay tứ thánh thú. Văn hóa Tứ tượng kết
hợp các hiện tượng thiên văn Nhị Thập Bát Tú, bốn mùa
Xuân, Hạ, Thu, Đông; bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc,
tâm tính của con người Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Riêng Bạch Hổ còn được xem là linh vật thiêng liêng
thuộc về hành Kim ở phía Tây, tương ứng với mùa thu.
Theo thuyết Âm dương, Tứ tượng ứng với bốn phạm trù
trong quá trình biến đổi của vũ trụ: hư vô sinh thái cực,

thái cựcsinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ
tượng sinh bát quái. Chúng tập thành hệ thống ngũ hành:
Thanh Long: mộc;Huyền Vũ: thủy; Bạch Hổ: kim; Chu
Tước: hỏa. Tương truyền còn có thánh thú thứ
năm, Hoàng Lân (kỳ lân màu vàng), hay "Hoàng Lân của
trung tâm". Tất cả các thánh thú hợp lại dưới sự cai quản
của "trung tâm" là Hoàng Lân, và Hoàng Lân tượng trưng
cho nguyên tố Thổ.
Đối với phong thủy, hội tụ đủ Tứ tượng: Thanh long,
Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ là điều cần thiết để có một
địa thế đẹp. Ngày xưa, chọn được đất để đặt kinh đô,
các nhà phong thủy phải tìm sự hài hòa giữa tứ tượng
như nơi đó phải có sông ngòi, đất đai phì nhiêu, dễ đón
gió và nhận được ánh mặt trời vừa phải. Xây dựng kinh
thành, đặt kinh đô cho vương triều, nhà Nguyễn chắc
chắn không thể không xem xét đến các yếu tố phong
thủy.
Nơi định đô gắn với việc thịnh, suy của một triều đại, việc
chọn địa điểm xây dựng kinh thành rất được coi trọng.
Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, đã có
tám lần các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ rồi cuối cùng
trở về lại Phú Xuân. Ngày Quý Mùi tháng 4 năm Ất Sửu,
năm Gia Long thứ 4 (tức 30-4-1805), Kinh thành Huế
được khởi công xây dựng. Tuân thủ theo những nguyên
tắc Dịch lý và Phong thủy, nhà Nguyễn đã chọn xây kinh
thành về hướng Đông Nam (thuộc phương Nam) vì Kinh
dịch viết: "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" nghĩa
là bậc đế vương xoay mặt về hướng Nam để nghe (cai
trị) thiên hạ; lấy núi Ngự Bình làm bình phong che chắn
cho Kinh thành; lấy sông Hương làm yếu tố minh đường,

dòng sông nằm dài giữa hai cồn đất cong như một cánh
cung mang lại sinh khí cho Kinh thành; hai bên có cồn
Hến và cồn Dã Viên tạo thế Tả Thanh long, Hữu Bạch
hổ chầu về trọng địa Kinh thành. Đó là thế rồng chầu hổ
phục bảo vệ cho vương triều. Ngoài ra còn có các chi lưu
sông Hương, Kẻ Vạn, An Hòa và sông Đông Ba làm Hộ
Thành hà (do thiên tạo và nhân tạo).
Riêng cồn Hến và cồn Dã Viên, được cấu tạo bằng phù
sa bồi lắng của dòng chảy sông Hương và đều có dạng
hình thoi, nổi lên giữ sông Hương. Cái tên Tả Thanh
long (rồng xanh ở phía trái) xuất hiện trong thuật phong
thủy của kiến trúc Kinh thành Huế, mà người dân chỉ
quen gọi cồn Hến, vì có những con hến ngon tạo nên
hương vị đặc trưng chỉ có ở bát cơm hến cồn xứ Huế mà
ai đã từng một lần thưởng thức cũng nôn nao nhớ mãi
không nguôi.
Hữu Bạch hổ (cọp trắng ở phía phải) là chỉ cồn Dã Viên,
nằm ở phía tây Kinh thành Huế. Về tên chính thức của
cái cồn ấy thì phải đến thời Tự Đức (1848-1883) mới có.
Vua Tự Đức đã nhận ra vẻ đẹp lý tưởng của nó trên
dòng sông thơ mộng và đã cho biến cái cồn này thành
một vườn ngự. Chính nhà vua đã đặt tên là Dữ Dã
Viên (vườn Dữ Dã). Ý nghĩa của địa danh Dữ Dã được
gợi hứng từ một câu chuyện trong lịch sử được ghi chép
ở sách Luận ngữ. Sau khi nói chuyện với 4 môn đệ của
mình, Khổng Tử đã khen người học trò tên Điểm (tức
Tăng Bích) rằng : « Ta khen cái chí của trò Điểm ». Câu
này dịch từ nguyên văn Ngô dữ Điểm dã, ý nói « thầy »
cũng có cùng một sở nguyện như « trò Điểm ». Và vua
Tự Đức đã tâm đắc với nhân sinh quan thanh tĩnh vô vi

ẩn sau câu chuyện ấy, muốn lập khu vườn trên cồn để
tìm đến những nơi yên ắng, gần gũi với thiên nhiên để
hưởng thú tiêu dao. Do đó, nhà vua đã sử dụng điển tích
nói trên và rút gọn 4 chữ Ngô dữ Điểm dã còn lại 2
chữ dữ dã và dùng để đặt tên cho khu vườn ngự của
mình là Dữ Dã Viên. Tên vua đặt là thế, nhưng để cho
tiện, dân gian còn bớt đi một chữ nữa: Dã Viên. Chẳng
hạn như cồn Dã Viên, cầu Dã Viên (nằm trên cồn đó).
Không rõ vô tình hay hữu ý, cồn Dã Viên không chỉ mang
hình ảnh trừu tượng hóa hổ trắng trong Dịch lý và Phong
thủy, mà cũng ghi dấu bóng dáng các sơn lâm một cách
đậm nét. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-
1765), đã có lần cho tổ chức một trận đấu giữa voi và
cọp ở cồn này. Đầu thế kỷ XIX, những trận tử chiến giữa
voi và cọp được vua Gia Long cho tổ chức ở bờ bắc
sông Hương trước mặt Kinh thành, rồi vua Minh Mạng
cho tổ chức tại đấu trường Hổ Quyền xây dựng năm
1830 ở gần bờ nam của dòng sông.
Xin ngoài lề, cồn Dã Viên còn gắn với một dấu ấn khác:
cầu Bạch Hổ. Tương truyền, khi cầu Bạch Hổ (lúc đó
chưa được đặt tên) đang được xây cất, có một con hổ
trắng đến ngồi ở giữa cầu khiến mọi người đều hoảng
hốt bỏ chạy. Cũng chính vì thế mà cây cầu này được gọi
là cầu Bạch Hổ. Tuy nhiên, cây cầu Bạch Hổ vừa nói ở
trên và cầu Bạch Hổ ngày nay thường nhắc đến, lại
không phải là một. Cây cầu mà ngày nay chúng ta quen
gọi là cầu Bạch Hổ, thực ra là cầu sắt Dã Viên, bắc qua
sông Hương, nối từ đường Lê Duẩn, cồn Dã Viên đến
đường Bùi Thị Xuân. Còn cầu Bạch Hổ có tên là cầu Lợi
Tế, bắc qua sông đào Kẻ Vạn, tức sông Kim Long nằm ở

góc Tây nam Kinh thành. Cầu được xây dựng năm 1839,
dưới thời Minh Mạng, dân gian quen gọi cầu Kim Long.
Cầu nằm đầu đường Kim Long. Đầu cầu phía đông nay
thuộc phường Phú Thuận, đầu cầu phía tây thuộc
phường Kim Long. Có lẽ do cầu Dã Viên phía bắc gần
cầu Bạch Hổ cũ, nên người ta quen gọi cầu này là cầu
Bạch Hổ, cũng có thể do cầu bắc qua cồn Dã Viên, mà

×