Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Luận văn thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lí ở thành phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.42 KB, 65 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu của đề tài 3
NỘI DUNG 4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ 4
1.1 Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý 4
1.2 Vị trí, vai trò của cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị 6
1.3 Về chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý của
Đảng và Nhà nước 9
CHƯƠNG 2 .THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CÁN NỮ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ CẤN THƠ 13
2.1 Những thành tựu về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Thành phố Cần Thơ thời gian vừa qua và nguyên nhân của những thành tựu đó 13
2.2 Những hạn chế về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
ở Thành phố Cần Thơ trong thời gian vừa qua và nguyên nhân của những hạn chế
đó 28
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ CẤN THƠ TRONG THỜI GIAN TỚI 36
3.1 Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị các cấp ở Thành phố
Cần Thơ về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý 36
3.2 Đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ
nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần Thơ 39
3.3 Thực hiện bình đẳng giới trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần Thơ 49


3.4 Phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học tập, rèn luyện của cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý ở Thành phố Cần Thơ 50
KẾT LUẬN 55
PHỤ LỤC 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử, từ xưa đến nay, phụ nữ nói chung ít có đều kiện và cơ hội tham
gia lãnh đạo, quản lý đất nước. Phong trào giải phóng phụ nữ cùng với sự tham gia
vào đời sống chính trị của đất nước phát triển rất mạnh từ thế kỷ XIX nhằm đấu
tranh đòi quyền bình đẳng giới, bao gồm bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Ngày nay vấn đề giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia vào đời sống
chính trị của phụ nữ, đưa vấn đề giới và phụ nữ vào các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu, không chỉ riêng quốc gia, dân tộc
nào.
Ở Việt Nam, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến
công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý. Điều đó được
khẳng định và thể hiện nhất quán trong các cương lĩnh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chỉ thị số 37/CT – TW ngày 16 - 5 –
1994 khẳng định “Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý
kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện bình đẳng, dân chủ của phụ
nữ, là điều kiện để phát huy tiềm năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ”. Quan
điểm này tiếp tục khẳng định trong Đại hội X: “Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham
gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các
cấp”. Phụ nữ tham gia trong hệ thống chính trị là sự khẳng định về năng lực, trí tuệ
của mình.
Thành phố Cần Thơ là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của
đất nước. Nhằm nâng cao năng lực, chất lượng sức chiến đấu của Đảng và hệ thống
chính trị trong toàn thành phố, thời gian qua, Đảng bộ Thành phố Cần Thơ luôn nỗ
lực, chủ động thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm quy hoạch, xây dựng, phát

triển đội ngũ cán bộ nữ. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng do nhiều nguyên nhân, tỷ
lệ cán bộ nữ các cấp các ngành, trong Thành phố Cần Thơ hiện nay vẫn còn thấp,
chưa tương xứng với yêu cầu công tác cán bộ nữ đòi hỏi cần phải có những giải
pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả và đề ra những chính sách nhằm nâng cao hiệu
quả xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần
Thơ.
2
Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài “Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ
lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay – Thực trạng và giải
pháp” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Khái quát những vấn đề lý luận và chính sách của Đảng, Nhà nước về xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý. Từ đó, đánh giá đúng thực
trạng của việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành
phố Cần Thơ trong thời gian qua và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành
phố Cần Thơ trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Một là, tìm hiểu và khái quát những vấn đề lý luận và chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý.
Hai là, phân tích, đánh giá đúng thực trạng xây dựng và phát triển đội ngũ cán
bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần Thơ trong thời gian vừa qua.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: “xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý ở Thành phố Cần Thơ”.
Phạm vi nghiên cứu: xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
ở Thành phố Cần Thơ từ năm 2006 đến năm 2013 và những năm tiếp theo.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, luận văn đã kết hợp và sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp,
logic và lịch sử, gắn lí luận với thực tiễn, điều tra xã hội học để làm sáng tỏ mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
3
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 9 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC TA VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1.1 Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý
* Khái niệm cán bộ lãnh đạo
Cán bộ lãnh đạo là chỉ những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức, địa
phương, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo có
trách nhiệm đề ra phương hướng, chủ trương, quyết định, trước hết là những quyết
định có tính có tính chiến lược của tổ chức, địa phương, đơn vị mình. Cán bộ lãnh
đạo lãnh đạo là những người dẫn dắt, tổ chức phong trào theo hướng đi cụ thể; là
4
người điều hành, chỉ đạo bằng quyền qua các mệnh lệnh. Họ còn là người điều
chỉnh những quyết định cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh khách
quan.
Cán bộ lãnh đạo được phân ra làm nhiều cấp: cấp vi mô toàn quốc, cấp ngành,
cấp địa phương và cấp cơ sở. Cán bộ lãnh đạo ở các cấp khác nhau thì tầm ảnh
hưởng khác nhau.
Về phẩm chất cá nhân, cán bộ lãnh đạo phải là người có sự uy tín, là người đại
diện cho số đông, cho tập thể. Cán bộ lãnh đạo phải là người có khả năng thu phục
nhân tâm, nhân tài, có khả năng sử dụng “đúng người, đúng việc”; là người có tri

thức, có kinh nghiệm ở lĩnh vực phụ trách, có tầm nhìn biết quy tụ nhân tài, vật lực.
Một số cán bộ lãnh đạo được gọi là lãnh tụ, chính khách. Đó là những cán bộ
lãnh đạo xuất sắc, có mức độ ảnh hưởng lớn, có tiếng nói, uy tín rất cao trong toàn
cộng đồng xã hội.
Cán bộ lãnh đạo là người chịu trách nhiệm về một đối tượng cụ thể hay một
bộ phận cụ thể trong hệ thống tổ chức quản lý, là người đại diện và là đại biểu lợi
ích cho Đảng, Nhà nước, tập thể, tổ chức nào đó. Dựa vào bộ máy quản lý, vào hệ
thống tổ chức, cán bộ lãnh đạo theo hướng hoạt động của tổ chức, tập thể vào
những nhiệm vụ được giao phó. Cán bộ lãnh đạo chịu trách nhiệm cá nhân về giải
quyết kịp thời những vấn đề cơ bản, phối hợp hoạt động với các hệ thống quản lý,
tổ chức các công tác nhằm thực hiện các quyết định quản lý.
Trên đây là quan niệm chung nhất về người cán bộ lãnh đạo. Tuy nhiên, trong
mỗi giai đoạn cách mạng, ngoài những yêu cầu thì yêu cầu cụ thể về phẩm chất,
năng lực của cán bộ lãnh đạo khác nhau. Hơn nữa, cũng còn có yêu cầu cụ thể với
từng loại cán bộ lãnh đạo trong xã hội. [11, trang 11-12]
* Cán bộ quản lý
Đó là những người mà hoạt động nghề nghiệp của họ hoàn toàn hay chủ yếu
gắn với việc thực hiện chức năng quản lý, là người điều hành, hướng dẫn tổ chức
những quyết định của cán bộ lãnh đạo. Họ được trao quyền đánh giá một cách độc
5
lập, chỉ đạo hoạt động, công việc của người khác, hay của một đơn vị tổ chức, một
khâu trung gian trong một quá trình quản lý kinh tế, xã hội, v.v
Để điều hành tốt công việc, cán bộ quản lý cần phải giỏi chuyên môn, có năng
lực, phẩm chất điều khiển, tố chức công việc và đoàn kết tập thể họ trực tiếp làm
việc với đối tượng quản lý, trực tiếp tổ chức thực hiện các quyết định của lãnh đạo
nên cán bộ quản lý, trực tiếp tổ chức thực hiện các quyết định của lãnh đạo nên cán
bộ quản lý cần thường xuyên thu nhận thông tin từ trên xuống cũng như từ dưới lên.
Họ cần có khả năng nhận ra sự đúng, sai trong các chủ trương, chính sách khi tổ
chức thực hiện. Do vậy, họ cũng là những người có thể tham mưu cho cán bộ lãnh
đạo chấn chỉnh, điều chỉnh, hoàn thiện quyết định cũ hoặc ra quyết định mới. Cán

bộ lãnh đạo, quản lý có thể có được phân loại theo nghề nghiệp, năng lực và chức
vụ. [11, trang 13]
* Cán bộ lãnh đạo, quản lý
Ở một số lĩnh vực và phạm vi quy mô nhỏ, cán bộ lãnh đạo cũng đồng thời là
cán bộ quản lý, hoặc cán bộ quản lý đồng thời là cán bộ lãnh đạo. Khi vừa là cán bộ
lãnh đạo, vừa là cán bộ quản lý, cán bộ đó vừa có quyền ra quyết định vừa tổ chức
thức hiện quyết định đó. [11, trang 14]
1.2 Vị trí, vai trò của cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
Nhìn vào các thời đại lịch sử có thể thấy, việc khẳng định vai trò và năng lực
của cán bộ nữ trong đời sống chính trị là cả một quá trình, đó là quá trình đấu tranh
giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, trong đó có quyền bình đẳng về
chính trị, quyền được tham gia các hoạt động chính trị - xã hội. Như thế, tiền đề đầu
tiên để mở cửa cho cán bộ nữ tham chính, nói rộng hơn là hoạt động xã hội là cách
mạng xã hội, nhằm giải phóng phụ nữ ra khỏi tình trạng bị bóc lột, áp bức và nô
dịch, thực hiện tự do chính trị, bình đẳng chính trị cho phụ nữ. Sâu xa và căn bản
hơn, phải phát triển kinh tế và văn hóa, tạo ra môi trường xã hội, cả vật chất lẫn tinh
thần cho sự phát triển của cán bộ nữ. Cùng với tiền đề đó, phải tiến hành những cải
tạo quan hệ xã hội cũ một cách căn bản, nhất là trong tâm lý, ý thức con người, kể
cả tâm lý ý thức của bản thân phụ nữ do bị tập nhiễm từ lâu đời ý thức hệ phong
6
kiến và tư sản. Do đó, phải phát triển xã hội theo hướng dân chủ hóa và hiện đại
hóa, chú trọng cả giáo dục đạo đức và tăng cường các thể chế luật pháp, pháp lý
trên nền tảng của phát triển kinh tế thì mới tạo được điều kiện, môi trường và động
lực để cán bộ nữ tham chính. [6, trang 72-76]
Ở Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ phụ nữ tham gia các cấp đảng từ
trung ương đến địa phương đều chưa đạt 15% (trừ cấp cơ sở đạt 15,08%). Cấp
Trung ương, tỷ lệ ủy viên Ban Chấp hành Trung Đảng khóa X là 8,13% (giảm
0,53% so với khóa IX), ủy viên dự khuyết đạt 14,28%; tính đến thời điểm hiện tại,
có 2/10 Bí thư Trung ương Đảng là nữ (chiếm 20%) – đạt tỷ lệ cao nhất từ trước tới
nay; cấp trưởng của các ban Đảng và Ủy ban Kiểm tra Trung ương là nữ có 1/6

(chiếm 16/7%); cấp phó có 3/23 là nữ (chiếm 13,04%); 4/6 đơn vị như Tổ chức,
Tuyên giáo, Văn phòng, Đối ngoại không có nữ lãnh đạo. Nhìn chung số phụ nữ giữ
các cương vị lãnh đạo chủ chốt cấp trung ương có xu hướng ngày càng giảm, tuổi
đời cao, báo động về sự hụt hẫng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý. Ở các cấp địa
phương, tỉ lệ ủy viên ban chấp hành đảng bộ nhiệm kỳ 2005 – 2010: cấp tỉnh là
11,75% (tăng 0,43% so với nhiệm kỳ trước), nữ bí thư có 5/63 (chiếm 7,93%), tỷ lệ
nữ phó bí thư là là 7,04%; cấp trưởng các ban Đảng tỉnh, thành ủy là phụ nữ chiếm
tỷ lệ thấp: trưởng ban dân vận là 18%, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra là 22%, ban tuyên
giáo là 6,55%, ban tổ chức là 8% ; cấp huyện, tỷ lệ nữ tham gia ban chấp hành là
14,74% (tăng 1,85% so với nhiệm kỳ trước) và ở cấp xã là 15,08% (tăng 3,2% so
với nhiệm kỳ trước). Đánh giá tổng quát về tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy là: cấp trung
ương giảm, cấp địa phương tăng không đáng kể. Điều đặc biệt là ở những nơi khó
khăn như miền núi thì tỷ lệ cán bộ nữ cao hơn đồng bằng.
Trong cơ quan dân cử, tỷ lệ cán bộ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam được
đánh giá là khá cao so với khu vực và thế giới. Tỷ lệ trung bình trong suốt những
năm 1976-2007 khoảng 23%. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, Việt Nam có tỷ lệ nữ đại
biểu Quốc hội là 27,3%, tính trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam
đứng thứ hai, chỉ sau Niu Dilân (29,2%). Tuy nhiên, trừ Quốc hội khóa V (1975-
1976) đạt 32%, chưa có khóa nào tỷ lệ đại biểu nữ đạt 30%. Nhiệm kỳ khóa XII, tỷ
lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam là 25,76%, mặc dù giảm 1,55% so với khóa
trước song vẫn được xếp vào loại cao trong khu vực châu Á. Hiện nay, ¼ phó chủ
tịch Quốc hội là nữ (chiếm 25%), tỷ lệ phụ nữ là chủ nhiệm các ủy ban của Quốc
hội chiếm 22,22% và phó chủ nhiệm của các ủy ban là 6,45%. Đáng mừng là tất cả
7
các ủy ban của Quốc hội đều có các thành viên là nữ. Trong các cơ quan dân cử ở
địa phương, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia hội đồng nhân các cấp những nhiệm kỳ vừa
qua có xu hướng tăng dần song cũng chưa có nhiệm kỳ nào đạt 25%. Nhiệm kỳ
2004 - 2009, tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh đạt 23,83%, cấp huyện đạt
22,94% và cấp xã đạt 20,10%, tỷ lệ ở cả ba cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước
nhưng càng xuống cấp dưới, tỷ lệ nữ càng giảm. Tính đến đầu năm 2009, chủ tịch

hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố là nữ có 3/63 chiếm (4,76%, tăng 3,2% so với
khóa trước), phó chủ tịch là nữ có 16 chị của 63 tỉnh, thành. So với những nhiệm kỳ
gần đây, tỷ lệ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp có xu hướng tăng, tuy nhiên
còn khiêm tốn, tiếng nói phụ nữ so với nam giới còn hạn chế và chưa đại diện được
cho lực lượng phụ nữ đông đảo trong xã hội. Sự thiếu hụt cán bộ nữ một số lĩnh vực
quan trọng khiến việc hoạch định chính sách thiếu tiếng nói đại diện của phụ nữ,
dẫn đến thực hành bình đẳng giới trên mọi mặt chưa đạt được kết quả như mong
muốn. Tuy nhiên, theo đánh giá của Văn phòng Quốc hội, việc tham gia xây dựng
luật pháp, chính sách và đóng góp ý kiến, tọa đàm với cử tri của các nữ đại biểu
Quốc hội ngày càng có chất lượng.
Trong cơ quan quản lý nhà nước các cấp, hiện nay, nhiều khóa liền đều có nữ
phó chủ tịch nước, nữ bộ trưởng chỉ có 1/22 chiếm 4,55%; nữ thứ trưởng là 4/99
chiếm 4,03%, giảm so với khóa trước; tỷ lệ nữ vụ trưởng, theo số liệu của 33 cơ
quan bộ và ngang bộ, là 9,87% nữ vụ phó là 20,74%. Cán bộ, ban, ngành đông nữ
như Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công
thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ủy
ban Dân tộc… hiện không có nữ lãnh đạo chủ chốt. Đối với các cơ quan thuộc
Chính phủ, 8/8 cấp trưởng đều là nam và chỉ có 1/24 cấp phó là nữ (chiếm 4,17%);
Tòa án nhân dân tối cao không có lãnh đạo chủ chốt là nữ; khối Mặt trận và đoàn
thể, trừ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, 5/5 cấp trưởng của cơ quan trung ương
Mặt trận tổ quốc và đoàn thể chính trị xã hội đều là nam và chỉ có 4/21 cấp phó và 2
bí thư Trung ương Đoàn là nữ. Đối với các cấp địa phương, ở cấp tỉnh, 1/63
tỉnh/thành có nữ chủ tịch ủy ban nhân dân (chiếm 1,59%), 31/36 tỉnh/thành có nữ
phó chủ tịch (riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 2 nữ phó chủ tịch). Lãnh đạo nữ
trưởng ngành cấp tỉnh cũng chỉ đạt 10,54% . Ở cấp huyện, nữ chủ tịch ủy ban nhân
dân là 14,48% (tăng 6,05% so với nhiệm kỳ trước); phó chủ tịch ủy ban nhân dân là
8
14,48% (tăng 6,05% so với nhiệm kỳ trước); lãnh đạo nữ trưởng ngành đạt 13.9%.
Ở cấp xã , tỷ lệ nữ chủ tịch ủy ban nhân dân là 3,42%, phó chủ tịch ủy ban nhân dân

là 8,84%. Với tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan quản lý nhà nước như trên, có thể
thấy vai trò ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của phụ nữ ở các cơ quan hành pháp
các cấp còn hạn chế.
Những con số thống kê trên cho thấy tỷ lệ cán bộ nữ không ổn định lúc tăng,
giảm, tăng không đáng kể, chủ yếu ở cấp phó, song nhìn chung thường là giảm; còn
rất nhiều vị trí ở các ngành, các cấp không có nữ đảm nhận nên việc ra quyết định
thiếu tiếng nói của cả hai giới. Điều đó giải thích vì sao việc lồng ghép giới trong
các lĩnh vực có nhiều có khăn.
Mặc dù tỉ lệ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị hiện nay còn hạn chế song nhìn
chung, sự gia tăng số lượng cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước và các hoạt động
chính trị trong những năm qua chứng tỏ năng lực của cán bộ nữ ngày càng được
nâng cao. Nhìn lại chặng đường đã qua, phụ nữ Việt Nam đã không ngừng phấn đấu
nỗ lực vươn lên; mặt khác, sự quan tâm, tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước đã tạo
môi trường thuận lợi để chị em có cơ hội phát triển toàn diện và tham gia hầu hết
trên các lĩnh vực xã hội. Những đóng góp tích cực và cụ thể của phụ nữ và thành
quả của công cuộc đổi mới đã dần làm thay đổi những định kiến về vai trò phụ nữ
trong xã hội, khiến xã hội phải thừa nhận phụ nữ có khả năng tham gia lĩnh vực
chính trị không thua kém nam giới và nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò, vị trí
của cán bộ nữ. [5, trang 630-634]
1.3 Về chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
của Đảng và Nhà nước
Đảng ta luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nữ là nhiệm vụ có tính chiến
lược trong công tác cán bộ. Trong nhiều hoạt động thực tế và các văn bản của Đảng
được ban hành đã thể hiện rõ việc phát huy, nâng cao vai trò địa vị của người phụ
nữ trong xã hội. Nghị quyết số 152, 153 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
III đã nhấn mạnh đến một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận và công tác
cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý…
Chỉ thị số 44/CT-TW ngày 7-6-1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một
số vấn đề cấp bách trong tác cán bộ nữ nêu rõ, vấn đề cán bộ nữ cần phải đặt trong
việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước ta.

Cần phải tuyển chọn cán bộ nữ từ những người ưu tú trong giai cấp công nhân,
nông dân, trí thức cách mạng, nhất là những người đã trải qua rèn luyện từ thực tiễn
9
phong trào cách mạng. Phải quyết tâm và có kế hoạch cụ thể trong việc đào tạo, bồi
dưỡng để người cán bộ nữ có đủ năng lực, phẩm chất đảm nhiệm những nhiệm vụ,
chức trách mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Nghị quyết số 04/NQ-TW, ngày 12-7-1993, của Bộ Chính trị về đổi mới và
tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Đảng ta đề ra ba quan
điểm và sáu công tác lớn nhằm tăng cường việc chăm lo, bồi dưỡng, vận động phụ
nữ trong tình hình mới.
Chỉ thị số 37/CT-TW, ngày 16-5-1994, của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về
một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”, đã đánh giá việc thực hiện
Chỉ thị 44, đồng thời nêu lên một số nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác phát triển
cán bộ nữ trong tình hình tỉ lệ cán bộ nữ đang giảm. Chỉ thị nhấm mạnh vấn đề quy
hoạch tạo nguồn cán bộ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ có thể làm việc phát triển tài
năng và đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên nữ.
Chỉ thị nêu rõ: “Việc nâng cao tỉ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực sự thực hiện quyền bình đẳng, dân
chủ của phụ nữ, là điều kiện phát huy tài năng trí tuệ nâng cao địa vị xã hội của phụ
nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong
đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”. Có thể nói chỉ thị số 37/CT-TW đã thể hiện sâu sắc
quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ nữ, là căn cứ để các cấp, các ngành thực
hiện công tác cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán bộ nữ ngày càng tiến bộ.
Đánh giá công tác cán bộ nữ thời kỳ đổi mới, Hội nghị toàn quốc tổng kết 10
năm thực hiện Chỉ thị 37, đã nghiêm túc kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện Chỉ
thị 37, đồng thời đã thảo luận, xây dựng thống nhất các nội dung, mục tiêu của công
tác cán bộ nữ trong thời gian tới.
Cũng trong hội nghị này, đồng chí Phan Diễn, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường
trực Ban Bí thư Trung ương đã nêu rõ: “Cần nhận thức nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ
tham gia vào các lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội, đặc biệt là vào các chức

vụ lãnh đạo, quản lý là một tiêu chí quan trọng về thực hiện bình đẳng nam nữ, một
tiêu chí của xã hội công bằng dân chủ, tiến bộ, văn minh là nhu cầu của sự nghiệp
cách mạng, là đòi hỏi của lợi ích công nghiệp, chị em phụ nữ hoàn toàn có khả năng
vươn lên đảm nhận những trách nhiệm lãnh đạo trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội”. Đồng chí kết luận: “Sau hội nghị tổng kết này, ban chỉ đạo tổng kết Chỉ thị
37/CT-TW phối hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan chuẩn bị đề án trình Bộ
10
Chính trị ra nghị quyết về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác vận
động phụ nữ và cán bộ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nghị quyết số 11/NQ/TW, ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đánh giá tình hình phụ
nữ và công tác phụ nữ thời gian qua, đồng thời nêu lên nhiệm vụ và giải pháp về
công tác phụ nữ trong thời gian tới. Trong đó nêu rõ nhiệm vụ về quy hoạch, đào
tạo cán bộ nữ, phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt
từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến
40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo,
chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính
phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
Xuyên suốt từ Đại hội I đến nay, Đảng ta đã đề cập đến nhiệm vụ xây dựng và
thực hiện chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt, Nghị
quyết IX của Đảng (2001) đã xác định rõ hơn về cơ chế, chính sách để tăng cường
sự tham gia của phụ nữ vào bộ máy quản lí, lãnh đạo có cơ chế, chính sách để tham
gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo, quản lí các cấp, các ngành”.
Những năm gần đây, Đảng đã ban hành một số chính sách về tiền lương, tuổi
bổ nhiệm, tuổi nghĩ hưu, đề bạt, luân chuyển…thể hiện sự quan tâm sâu sắc của
Đảng đối với cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý và cán bộ nữ nói chung: Quy định 51,
ngày 3-5-1999, về tuổi bổ nhiệm: “Cán bộ các cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 50 tuổi đối với nữ” và
“Cán bộ các cơ quan huyện, quận và tương đương tuổi bổ nhiệm không quá 45 tuổi
với cả nam lẫn nữ”; Chỉ thị 46, ngày 6-12-2004, của Bộ Chính trị quy định tỉ lệ nữ

tham gia cấp ủy viên các cấp không dưới 15% và về tuổi tham gia cán bộ chủ chốt
nữ (Bí thư, Phó Bí thư) ở cấp tỉnh và Trung ương thực hiện như nam giới. Hướng
dẫn số 07/HD-TC của Ban Tổ chức Trung ương về công tác nhân sự Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 1999-2004: “về nhân sự đại biểu Hội đồng nhân dân là nữ
tăng 10% so với hiện nay và đạt ít nhất không dưới 20%, ở các thành phố, tỷ lệ này
không dưới 25%”…Nhìn chung, thông qua các quan điểm, đường lối và chính sách
của Đảng và Nhà ta về vấn đề phụ nữ nói chung, phụ nữ làm lãnh đạo nói riêng, vị
thế của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị không ngừng nâng cao.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: Đối với phụ
nữ có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh
đạo và quản lý ở các cấp, làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý
11
cán bộ nữ. Sự quan tâm của Đảng về công tác cán bộ nữ được thể hiện rõ trong Báo
cáo Chính trị Đại hội IX: “thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ” và “thực hiện tốt luật pháp
và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn, có
cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo,
quản lý các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều
kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” và “thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ
của phụ nữ”. Quan điểm này tiếp tục khẳng định trong Đại hội X: “Đối với phụ nữ,
nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới.
Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người
mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày
càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp”.
Trong Báo cáo về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010, do Phó
Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa
XI, một trong tám nhiệm vụ trong phát triển kinh tế, xã hội 5 năm 2006-2010 đó là:
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bình đẳng giới, giải quyết việc làm,

khuyến khích làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh;
đẩy lùi các tệ nạn xã hội. [6, trang 59-67]

12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ NỮ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ
2.1 Những thành tựu về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý ở thành phố Cần Thơ thời gian vừa qua và nguyên nhân của những
thành tựu đó
2.2.1 Những thành tựu về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý ở Thành phố Cần Thơ thời gian vừa qua
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, giữa một
mạng lưới sông ngòi, kênh rạch có diện tích: 1.401,6 km², dân số (2012): 1.214.100
người. Hiện nay, trên toàn hệ thống chính trị Thành phố Cần Thơ có 5 quận và 4
huyện, trong đó số thị trấn, xã, phường là 68, và trong số đó có 4 thị trấn, 30
phường và 34 xã. (Tính tới trước thời điểm ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP)
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở Thành phố Cần
Thơ được các cấp ủy Đảng thường xuyên quan tâm chỉ đạo và xem là nhiệm vụ
trọng tâm của Thành phố. Việc xây dựng và phát triển đội ngũ các bộ nữ lãnh đạo,
quản lý trong thời gian vừa của Thành phố Cần Thơ đã đạt được một số kết quả khả
quan.
Về xác định cơ cấu và công tác bố trí, sử dụng và đề bạt cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý
Để cụ thể hóa Chiến lược và Chương trình quốc gia Bình đẳng giới, Uỷ ban
nhân dân Thành phố Cần Thơ đã ban hành và triển khai Kế hoạch số 14/KH-UBND
ngày 7-3-2011 thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới Thành phố Cần Thơ
giai đoạn 2011-2020, với 7 mục tiêu và 21 chỉ tiêu nhằm tăng cường vai trò của phụ
nữ trong đời sống xã hội. Trong đó, mục tiêu tăng cường sự tham gia của phụ nữ
13
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong

lĩnh vực chính trị được đưa lên hàng đầu.
Vận dụng linh hoạt chủ trương của Trung ương về cơ cấu cán bộ nữ trong đội
ngũ cán bộ nữ công chức hệ thống chính trị, các cấp ủy Thành phố Cần Thơ đã nhận
thức và thực hiện quan điểm: không nhất thiết đặt ra tỉ lệ cứng nhắc về cơ cấu cán
bộ nữ trong đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý, nhất là các chức danh đứng đầu
cấp ủy, chính quyền mà xuất phát từ tình hình cụ thể nguồn cán bộ nữ trong quy
hoạch. Thành ủy và các quận ủy, huyện ủy chuẩn bị tốt nguồn cán bộ có chất lượng,
đảm bảo tỉ lệ cán bộ nữ trong đảng ủy, Hội đồng nhân dân theo quy định. Thành ủy
và các quận ủy đã tích cực lãnh đạo công tác nhân sự trước Đại hội Đảng bộ cấp
Thành phố nhằm đảm bảo tỉ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy để phân công phụ trách
Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Cần Thơ một số chức danh lãnh đạo, quản lý trong
hệ thống chính trị Thành phố.
Các cấp ủy Thành phố Cần Thơ đã tổ chức quán triệt những nội dung cơ bản
trong các văn bản của Đảng, Nhà nước liên quan đến cơ cấu cán bộ nữ của đảng ủy,
Hội đồng nhân dân Thành phố Cần Thơ, các tổ chức đảng, các tổ chức của hệ thống
chính trị, đội ngũ, cán bộ, đảng viên, nhất là chỉ thị số 37/CT-TW của Đảng và
Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 16-12-2011 của Thủ tướng Chính phủ về hướng
dẫn cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2011-2016.
Thực hiện Chỉ thị số 37/CT-TW nêu của Bộ Chính trị, Thành ủy Thành phố
Cần Thơ đã chỉ đạo các cấp ủy thực hiện đúng quy chế, quy trình cơ cấu cán bộ nữ
trong đảng ủy. Đồng thời coi trọng chỉ đạo và tăng cường kiểm tra về quán triệt các
quan điểm chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ theo kết luận tổng kết
10 năm thực hiện xây dựng Chiến lược cán bộ trong xây dựng và đảm bảo cơ cấu
cán bộ nữ.
Trong xác định cơ cấu cán bộ nữ của Đảng ủy Thành phố Cần Thơ và hệ
thống chính trị Thành phố các cấp ủy đã thống nhất nhận thức và thực hiện quan
điểm, trên cơ sở tiêu chuẩn để xác định cơ cấu cán bộ nữ, nhằm tạo nên chất lượng
tổng hợp của đội ngũ cán bộ; không vì cơ cấu cán bộ nữ mà xem nhẹ tiêu chuẩn cán
14

bộ. Từ đó, các cấp ủy Thành phố Cần Thơ đã đặt lên hành đầu yêu cầu của Đảng ủy
Thành phố Cần Thơ nhiệm kỳ 2010 – 2015 là đảm bảo chất lượng, số lượng cơ cấu
hợp lý, trong đó có cơ cấu cán bộ nữ; có tính kế thừa và phát triển; gồm những đồng
chí tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và có đủ sức khỏe, đảm bảo thực hiện thắng lợi
toàn diện nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố và nghị quyết Đại hội XI của
Đảng.
Về cơ cấu giới tính, các cấp ủy Thành phố Cần Thơ đề ra chỉ tiêu cao hơn quy
định của Trung ương về cơ cấu cán bộ nữ trong đảng ủy và Ban Thường vụ đảng ủy
Thành phố Cần Thơ: phấn đấu đảm bảo tỷ lệ đảng ủy viên nữ không dưới 15%.
Sau đại hội đảng bộ cấp Thành phố nhiệm kỳ 2010-2015, Thành ủy Thành phố
Cần Thơ tiếp tục lãnh đạo xây dựng cơ cấu của của cán bộ chính quyền phục vụ bầu
cử Hội đồng nhân dân Thành phố nhiệm kỳ 2011-2016 theo đúng nghị quyết của
Quốc hội, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, Chỉ thị của Bộ Chính trị và các văn bản
khác của Trung ương. Trong đó, coi trọng thực hiện Quyết định số 215/QĐ-TTg
ngày 16-2-2011 của Thủ tướng Chính phủ về hướng dẫn cơ cấu, thành phần và số
lượng đại biểu Hội đồng nhân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.
Những năm qua, nhờ quan tâm thực hiện có hiệu quả chỉ tiêu giới nữ tham gia
quản lý, lãnh đạo được cải thiện rõ rệt. Ngày càng có nhiều vị trí quan trọng trong
các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác do
cán bộ, công chức nữ đảm nhiệm. Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ
chính trị (khóa X) về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” trong các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Cần Thơ, Ban
Thường vụ Thành ủy đã bổ nhiệm 44 cán bộ nữ, tỉ lệ 16,89%; giới thiệu 39 cán bộ
nữ ứng cử để bầu giữa các chức danh lãnh đạo chủ chốt, tỉ lệ 16,88%.
Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều sự
thay đổi so với nhiệm kỳ trước. Trong đó, tỷ lệ nữ đại biểu tham gia cấp ủy nhiệm
kỳ 2010-2015: Cấp thành phố là 6/55 đạt tỷ lệ 10,9% (tăng 2,9% so với nhiệm kỳ
trước) (có 1 đồng chí nữ được bổ sung vào Ban Thường vụ Thành ủy); cấp quận,
huyện là 66/462 đạt tỷ lệ 14,28%; xã, phường, thị trấn là 575/2.796 đạt tỷ lệ

15
20,56%. Tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng nhân dân cấp thành phố là 18/54 đạt tỷ lệ
33,33% (tăng 10,26%), cấp quận, huyện là 88/309 đạt tỷ lệ 24,48% (tăng 8,88%),
cấp xã, phường, thị trấn là 498/2.356 đạt tỷ lệ 21,14%. Cán bộ nữ lãnh đạo sở,
ngành, cơ quan cấp thành phố là 48 đồng chí; trưởng phó phòng và tương đương
182 đồng chí. Cấp quận, huyện là 216 đồng chí (chiếm tỷ lệ 25,29%); cấp xã,
phường 175 đồng chí (chiếm tỷ lệ 18,36%). Thành phố có 2 cán bộ nữ là đại biểu
Quốc hội khóa XIII, đạt tỷ lệ 28,57% (tăng 14,29% so với nhiệm kỳ trước). [7,
trang 2]
Về công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
Đảng bộ Thành phố Cần Thơ luôn nỗ lực, chủ động thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp nhằm quy hoạch, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ nữ có năng lực, trí
tuệ, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày
càng cao của Thành phố trở thành đô thị loại I trực thuộc Trung ương.
Hằng năm, các cấp ủy Đảng, chính quyền đều đưa công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý vào Nghị quyết gắn với đẩy mạnh việc
thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Chiến lược quốc gia về Bình
đẳng giới, Quán triệt Nghị quyết 04/NQ-TW của Bộ Chính trị về tăng cường và
đổi mới công tác vận động phụ nữ và Chỉ thị số 37/CT-TW của Ban Bí thư về một
số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới, Ban Tổ chức Thành ủy đã
tham mưu cho Ban Thường vụ Thành ủy tăng cường chỉ đạo thực hiện công tác xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ, từ khâu phát triển đảng, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng , tạo mọi điều kiện để cán bộ nữ được học tập, phấn đấu và phát huy hết
năng lực.
Thực hiện Kết luận số 55/KL-TW của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa X “Về công tác phụ nữ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Thành ủy Cần Thơ đã ban
hành Kế hoạch số 49/KH-TU để thực hiện kết luận trên, với nhiều nhiệm vụ và giải
pháp quan trọng, như: nâng cao nhận thức và trách nhiệm của hệ thống chính trị và

toàn xã hội về công tác phụ nữ và bình đẳng giới; xây dựng, hoàn thiện và thực hiện
16
tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển
của phụ nữ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, xây dựng
người phụ nữ Việt Nam “Có sức khỏe, có tri thức, có kỹ năng nghề nghiệp, năng
động, sáng tạo, có lối sống văn hóa và lòng nhân hậu”; xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
khoa học có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng, củng cố Hội Liên hiệp Phụ nữ
các cấp thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận
động phụ nữ.
Nhờ đó, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và quy hoạch
đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý nói riêng ngày càng đi vào nền nếp và đạt kết
quả, chủ động xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, đại hội Đảng bộ Thành phố
Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Cần Thơ phối hợp với sở Nội vụ, sở Tài chính,
Trường Chính trị… để triển khai bồi dưỡng kiến thức cho những cán bộ lần đầu
tham gia cấp ủy hoặc giữ các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ của Thành phố nói chung và đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản
lý ở Thành phố Cần Thơ nói riêng
Sau khi có Nghị quyết số 42/NQ-TW của Bộ Chính trị, Thành ủy đã ban hành
Kế hoạch số 10/KH-TU “về quy hoạch và đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Mỗi năm, các cấp ủy đánh giá
lại cán bộ trong diện quy hoạch, từ đó điều chỉnh, đưa ra khỏi quy hoạch những
người không còn đủ tiêu chuẩn, bổ sung những nhân tố mới. Đến nay Thành phố đã
hoàn thành rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2013-
2015 và rà soát, bổ sung (lần thứ nhất) quy hoạch nhiệm kỳ 2015-2020. Kết quả rà
soát, bổ sung (lần thứ nhất) quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố nhiệm
kỳ 2015-2020 gồm 126 đồng chí (bằng 2, 3 lần so với số lượng ủy viên Ban Chấp
hành đương nhiệm). Trong đó, nữ chiếm 19,1% (cao hơn nhiệm kỳ trước 5,8%), số

cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý có trình độ đại học và trên đại học chiếm 90%, cử nhân
và cao cấp lý luận chính trị chiếm trên 90%. Bên cạnh đó tỷ lệ cán bộ nữ bổ sung,
quy hoạch cấp quận giai đoạn 2013-2015 đạt 34,29%, cấp phường đạt 54,83%,
17
ngành đạt 37,5%; riêng nhiệm kỳ 2015-2020, cấp quận đạt 39,68%, cấp phường đạt
55,24%, ngành đạt 35,55%.
Thành ủy đã chỉ đạo xây dựng Kế hoạch về quy hoạch và đào tạo cán bộ thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (giai đoạn 2006-2020); Chương trình đào tạo phát
triển nguồn nhân lực đến năm 2010 và tầm nhìn 2020; Đề án đào tạo 150 thạc sỹ,
tiến sỹ ở nước ngoài (Đề án Cần Thơ - 150); Đề án nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức khối Đảng, Mặt trận, đoàn thể Thành phố Cần Thơ từ năm 2010 đến
2020; Nghị quyết số 10/NQ-TU về đào tạo cán bộ cơ sở, quận, huyện và thành phố
đạt chuẩn… Từ năm 2006 đến nay, Thành phố Cần Thơ đã chọn được 745 cán bộ
nữ tham gia trong số 4.000 đồng chí tham gia học lý luận chính trị - hành chính;
355 cán bộ nữ học đại học chuyên môn trong 1.800 cán bộ; và có 96 cán bộ nữ học
sau đại học trong 745 đồng chí. Có 5.475 cán bộ nữ bồi dưỡng trong 17.500 lượt
cán bộ, đảng viên tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác đảng, đoàn thể,
quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ, quốc phòng - an ninh Bên cạnh cử cán bộ
nữ tham gia học tập theo chỉ tiêu được phân bổ, thành phố còn tăng cường quan hệ
với Học viện Chính trị - Hành chính khu vực II mở thêm các lớp ngoài chỉ tiêu kế
hoạch (thành phố chi trả toàn bộ học phí), gửi cán bộ tham gia học tập tại các lớp do
Học viện khu vực IV mở riêng cho Quân khu 9 và Trường Đại học Cần Thơ; đồng
thời chỉ đạo Trường Chính trị Thành phố Cần Thơ tăng cường mở các lớp đào tạo
tại các quận, huyện.
Cùng với việc chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thành phố đã ban
hành chính sách khuyến khích, hỗ trợ nguồn nhân lực. Ngoài ra, hầu hết các quận,
huyện chủ động đề ra nhiều mô hình, cách làm hay góp phần chuẩn hóa, nâng cao
chất lượng cán bộ. Điển hình như quận Thốt Nốt đã xây dựng Đề án đào tạo nguồn
nhân lực và sử dụng nhân tài giai đoạn 2010 - 2015. Theo đó, ngoài chính sách hỗ
trợ đào tạo và thu hút nhân tài của thành phố, quận Thốt Nốt hỗ trợ từ 4 đến 6 triệu

đồng/năm cho sinh viên đang học tại các trường đại học ký hợp đồng cam kết làm
việc tại quận sau khi tốt nghiệp. Đặc biệt, nguồn quỹ hỗ trợ này được vận động từ
các mạnh thường quân. Sau gần 2 năm thực hiện, đã có 48 sinh viên trong đó có 21
nữ ký hợp đồng cam kết làm việc tại quận và quận cũng đã tiếp nhận, phân công 32
trường hợp làm việc phù hợp với ngành nghề được đào tạo.
18
Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo chất lượng đào tạo phát huy kiến
thức đã học phục vụ công việc trước mắt và lâu dài; phân định rõ tiêu chuẩn, đối
tượng, hình thức đào tạo cán bộ có điều kiện vừa học tập nâng cao trình độ, vừa
thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chọn số sinh viên tốt nghiệp ở các trường đại học, cao
đẳng đang chờ có nhu cầu công tác làm nguồn cho cán bộ.
Các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Cần Thơ cũng đã làm tốt công tác
tham mưu cho Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ thực hiện kế hoạch hành động vì sự tiến bộ
phụ nữ giai đoạn 2006 – 2010 với hai mục tiêu: Thực hiện các quyền bình đẳng của
phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm và nâng cao chất lượng và hoạt động của
phụ nữ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để tăng tỷ lệ cán bộ nữ
tham gia lãnh đạo, quản lý. [7, trang 7]
Đi đôi với việc quán triệt nghiêm túc tinh thần Kế hoạch số 49/KH-TU của
Thành ủy Cần Thơ, Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố đã tích cực phát động phong
trào thi đua “Phụ nữ tích học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”,
xây dựng nhiều kế hoạch, đề án về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp
giai đoạn 2013-2017, sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TU của Thành
ủy Thành phố Cần Thơ về đào tạo cán bộ cơ sở, quận, huyện và thành phố đạt
chuẩn. Qua đó góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ Hội các
cấp, bổ sung nguồn cán bộ nữ cho các ngành, các cấp…
Cùng với đó Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Cần Thơ đã tham mưu giới
thiệu nguồn cán bộ nữ đạt tiêu chuẩn, phẩm chất cho cấp ủy quy hoạch các chức
danh lãnh đạo, quản lý. Trong Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số
11/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa X) về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố

Cần Thơ, Ban Thường vụ Hội Phụ nữ Thành phố Cần Thơ đã phối hợp Ban Vì sự
tiến bộ phụ nữ, Ủy Ban nhân dân Thành phố Cần Thơ mở lớp tập huấn bồi dưỡng
cho 47 ứng cử viên nữ Đại biểu Quốc hội khóa XII của khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long, 39 nữ lần đầu ứng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp cơ sở xã, phường,
thị trấn. Qua lớp tập huấn đã giúp ứng cử viên nâng cao năng lực, kỹ năng xây dựng
chương trình, kế hoạch khi tiếp xúc cử tri và vững vàng, tự tin khi ứng cử. Bên cạnh
đó, thực hiện Hướng dẫn số 02/HD-TU ngày 12/4/2012 của Ban Thường vụ Thành
19
ủy Thành phố Cần Thơ về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
Thành phố Cần Thơ¸ giai đoạn 2015 – 2020, Đảng đoàn Hội Liên Hiệp Phụ nữ
Thành phố Cần Thơ đã giới thiệu cho Thành ủy quy hoạch các chức danh lãnh đạo
diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý với số lượng cán bộ nữ có triển vọng là 19.
Tính đến cuối năm 2011, cán bộ nữ là trưởng, phó sở, ban, ngành, các cơ quan trung
ương đóng trên đại bàn thành phố là 60 đồng chí, chếm tỉ lệ 15,22% trong tổng số
cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý. [1, trang 8] Riêng
tỉ lệ nữ được rà soát, bổ sung, quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý giai đoạn
2011-2015: quy hoạch Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố và các chức danh lãnh
đạo, quản lý Thành phố tỉ lệ 19,14% (yêu cầu 15%); các chức danh lãnh đạo chủ
chốt quận, huyện và đảng ủy trực thuộc tỷ lệ 17,69%; các chức danh lãnh đạo các
sở, ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể thành phố tỉ lệ 24,37%. Trong thời kỳ đổi mới,
nhiều cán bộ nữ được cân nhắc, đề bạt vào những vị trí chủ chốt từ cơ sở phường xã
rồi lên quận, huyện, sở ngành Tỷ lệ cán bộ nữ được đề bạt, bổ nhiệm vào vị trí
lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành tăng cao hơn so với trước, kể cả một số lĩnh
vực trước đây cán bộ nữ ít được bố trí như Tòa án, Viện kiểm sát, Sở Tư pháp, Sở
Tài chính, Cục Thuế.v.v [1, trang 8]
Công tác phát triển đảng viên nói chung và đảng viên nữ nói riêng đã được
các cấp uỷ quan tâm, đến 2013 toàn Thành phố Cần Thơ hiện có 13.400 đảng viên
nữ/38.240 đảng viên mới (tỷ lệ 35,07%). Nhiều đơn vị có tỷ lệ phát triển đảng viên
nữ khá cao (từ 30% đến 50% trong tổng số đảng viên mới) như các quận Ninh Kiều,
Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, góp phần nâng cao tỷ lệ đảng viên nữ toàn Thành

phố từ 29% (2008) lên 32,6% (2013). [13, trang 10]
Trên cơ sở đánh giá cán bộ, lựa chọn trong số những cán bộ nữ tiêu biểu hình
thành “quỹ cán bộ nữ” sắp xếp theo quy hoạch, tổ chức bồi dưỡng, rèn luyện thử
thách, qua đó lựa chọn cán bộ chủ trì các cấp, tăng cường luân chuyển cán bộ theo
chiều dọc lẫn chiều ngang, tạo động lực mới cho cán bộ hoàn thành nhiệm vụ. Giám
sát kiểm tra thường xuyên công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng.
Tạo nguồn cán bộ nữ lãnh đạo và quản lý thông qua việc kết nạp đảng viên nữ
trong thời gian được các cấp ủy đảng thành phố quan tâm, tạo điều kiện. Những địa
phương có số đảng viên nữ khá cao như Quận Ninh Kiều có số đảng viên nữ là
20
2.846/6.534 đồng chí, chiếm tỷ lệ 43,55%, 9 tháng đầu năm 2014, toàn quận đã kết
nạp 173 đảng viên, trong đó có 87 đảng viên nữ, chiếm tỷ lệ 50,3% tổng số đảng
viên mới được kết nạp. Quận Cái Răng có số đảng viên nữ là 1.921/5.265 đồng chí,
toàn quận kết nap được 138 đảng viên trong đó có 64 đảng viên nữ chiếm tỷ lệ
46%, quận Bình Thủy có số đảng viên nữ là 1.978/5.392 đồng chí, toàn quận kết
nạp được 146 đảng viên, trong đó có 72 đảng viên nữ chiếm tỷ lệ 49%
Thành ủy thành phố Cần Thơ đã tích cực triển khai đào tạo bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý của Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Cần Thơ. Cán bộ Hội được
từng bước chuẩn hóa. Đội ngũ cán bộ trưởng thành để cung cấp bổ sung nguồn cho
đảng, chính quyền các ngành, đoàn thể, đảm bảo tiêu chuẩn, chức danh, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Xác định và cử đúng đối tượng đi đào tạo, bồi
dưỡng, chưa đạt chuẩn về chuyên môn.
Chủ động liên kết các ngành liên quan để đưa cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Hội cơ sở, có kế hoạch đưa cán bộ Hội
đào tạo Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương II, các lớp trung cấp nghiệp vụ chính trị.
Công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ Hội tiếp tục được quan
tâm chỉ đạo, đặc biệt chú ý đến cán bộ Hội phụ nữ cơ sở và cán bộ mới được kiện
toàn sau Đại hội phụ nữ các cấp.Tiến hành đổi mới nội dung chương trình phương
thức đào tạo.
Đánh giá chất lượng ngũ cán bộ Hội lãnh đạo, quản lý các cấp, đến nay có

100% cán bộ cấp Thành phố đạt chuẩn chức danh; cấp quận, huyện đạt 85% (so với
tiêu chí chỉ thấp hơn 5%), cấp cơ sở đạt 93% (vượt chỉ tiêu 3%).
Công tác phát triển đảng viên nữ: qua các phong trào tại địa phương các cấp
Hội đã giới thiệu 1.242 cán bộ, hội viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng, xem xét, kết
nạp 680 chị; cán bộ Hội chủ chốt ở cơ sở là Đảng viên đạt 98% (83/85) và 166/ 630
Chi hội trưởng là đảng viên đạt 23,35%.
Ban chấp hành thực hiện tốt công tác rà soát, bổ sung, quy hoạch chức danh
lãnh đạo, quản lý của Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Cần Thơ từng giai đoạn theo
hướng dẫn của Ban Tổ chức Thành ủy, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của cán bộ trước
mắt và lâu dài. Thường xuyên rà soát tiêu chuẩn cán bộ, nắm nhu cầu đào tạo cán
21
bộ, đảng viên xây dựng kế hoạch và đào tạo kịp thời, đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn của
cán bộ, công chức và từng chức danh. Đội ngũ Ban chấp hành ngày càng được đào
tạo, rèn luyện năng lực phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong tình
hình mới; Trong nữa nhiệm kỳ 2011-2016, có 8 ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên
hiệp Phụ nữ Thành phố được đảng điều động, luân chuyển đảm nhiệm vị trí cao
hơn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước trong đó đồng chí Chủ tịch Hội Phụ nữ
Thành phố được bầu bổ sung Ủy ban Thường vụ Thành ủy, giữ chức vụ Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Thành phố, 01 Phó Chủ tịch được luân chuyển nhận chức vụ Phó
Bí thư huyện ủy Phong Điền, 06 đồng chí Chủ tịch Hội Phụ nữ quận, huyện luân
chuyển đảm nhiệm chức vụ Bí thư và chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn.
Nữa nhiệm kỳ 2011-2016 qua, có 13 đồng chí trong Ban chấp hành được đào
tạo trình độ lý luận hành chính, trong đó cán bộ chuyên trách Hội Liên hiệp Phụ nữ
thành phố 04 đồng chí học Cao cấp chính trị, 03 đồng chí học Trung cấp chính trị;
04 đồng chí học bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên,
thi chuyên chính 02 đồng chí.
Xây dựng kế hoạch đề án 1891 “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội Liên hiệp Phụ
nữ các cấp giai đoạn 2013-2017” với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
Hội các cấp, nâng cao năng lực về công tác phụ nữ, đáp ứng yêu cầu công tác Hội

và phong trào phụ nữ trong tình hình mới, đã cử 73 lượt cán bộ Hội dự lớp tập huấn,
bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội và các chuyên đề do Trung ương Hội, các ban,
ngành, đoàn thể tổ chức.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố mở 08 lớp bồi dưỡng công tác Hội với 1.002
lượt cán bộ Hội phụ nữ cơ sở dự trong đó, mở 03 lớp cho cán bộ Hội Phụ nữ xã,
phường, thị trấn; 03 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho chi Hội trưởng; 02 lớp cho hội
viên phụ nữ dân tộc Khmer về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi để nâng cao năng xuất
góp phần phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo.
Các cấp Hội tập trung kiện toàn bộ máy cơ sở Hội, đầu tư nâng cao chất lượng
cán bộ, hội viên. Thành phố và các quận, huyện mở trên 20 lớp đào tạo bồi dưỡng
ngắn hạn về những chính sách pháp luật mới được ban hành, tập huấn về kỹ năng
22
điều hành sinh hoạt chi, tổ, hội cho Ban chấp hành chi, tổ, hội. Cung cấp tài liệu
sinh hoạt hoạt hội viên tới 100% chi, tổ và cơ sở Hội; tham gia góp ý kiến đề xuất
chính sách cho chi hội trưởng… từ đó, hoạt động của tổ chức Hội cơ sở trong nhiệm
kỳ qua đã đạt được kết quả rõ nét.
Nhiều cán bộ nữ đã phát huy tốt vai trò và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trên các mặt trận được phân công. Điều đó, tạo
điều kiện thuận lợi cho cán bộ vừa chuyên sâu vừa hiểu rộng được tình hình địa
phương. Vì vậy, nhân sự cấp ủy nhiệm kỳ 2010-2015 và cán bộ lãnh đạo, quản lý
của Thành phố Cần Thơ đã đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ.[2, trang 2,3]
Những việc làm trên đã thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo các cấp vì sự tiến bộ
và phát triển của phụ nữ thành phố nhằm tạo thuận lợi cho cán bộ nữ có điều kiện
tham gia có hiệu quả vào các lĩnh vực quản lý Nhà nước, khẳng định sự phấn đấu,
rèn luyện và trưởng thành không ngừng của cán bộ nữ thành phố đang góp phần
tích cực trong xu thế hội nhập và phát triển chung của đất nước.
Bên cạnh đó, cán bộ nữ còn được chăm sóc chu đáo về mặt tinh thần, được tạo
nhiều điều kiện để giao lưu, trao đổi, học tập, chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng lãnh
đạo, quản lý, đặc biệt trong các dịp Lễ hội của giới 8/3 và 20/10 hàng năm, cán bộ
nữ chủ chốt diện Thành ủy quản lý thường được Thành ủy và Ủy ban nhân dân

thành phố hỗ trợ kinh phí, thời gian đi thăm các địa danh lịch sử và giao lưu, chia sẻ
kinh nghiệm với cán bộ nữ các Tỉnh, Thành bạn.
Công tác điều động, luân chuyển cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
Những năm qua, các sở, ban, ngành ở Thành phố Cần Thơ đã thực hiện tương
đối tốt công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Sau tổng kết Nghị quyết số
11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Ban Thường vụ Thành
ủy Cần Thơ đã ban hành kế hoạch số 08 về công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý Thành phố Cần Thơ giai đoạn 2011-2015 nhằm đào tạo, thử thách cán bộ
qua thực tiễn, chuẩn bị nhân sự cho nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng thời qua đó tăng
cường cán bộ cho những nơi còn khó khăn, khắc phục một bước xu hướng cục bộ,
khép kín trì trệ của đội ngũ cán bộ. Từ năm 2004 đến nay, thành phố thực hiện song
23
song cả 2 hình thức luân chuyển dọc và luân chuyển ngang. Cần Thơ đã luân
chuyển 1.030 cán bộ. Trong đó luân chuyển từ trên xuống 237 đồng chí trong đó có
63 cán bộ nữ (thành phố về quận, huyện 52 trong đó 19 cán bộ nữ; quận, huyện về
xã, phường, thị trấn có 44 cán bộ nữ trong số 185); từ dưới lên 436 đồng chí trong
đó có 97 cán bộ nữ (quận, huyện lên thành phố 104 trong đó có 25 cán bộ nữ; xã,
phường lên quận, huyện 332 trong đó có 72 cán bộ nữ). Luân chuyển giữa các
ngành trong quận, huyện có 85 cán bộ nữ trong 317 đồng chí trong đó; giữa các
ngành thành phố có 9 cán bộ nữ trong 30 đồng chí; giữa các quận, huyện có 4 cán
bộ nữ trong 10 đồng chí. [14, trang 8]
Hầu hết cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý qua luân chuyển đều trong quy hoạch,
được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị phù hợp với vị trí được luân
chuyển và hoàn thành tốt nhiệm vụ, có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh
nghiệm thực tiễn, có quan điểm và phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và sát
thực tế hơn; được quần chúng nhân dân tín nhiệm và được bố trí vào các chức vụ
cao hơn.
Nhìn chung, việc bố trí, sử dụng cán bộ nữ đã đảm bảo theo quy trình và trên
cơ sở quy hoạch cán bộ, trình độ đào tạo và đặc biệt là năng lực tổ chức thực tiễn.

Các cấp ủy đảng tiến hành xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong đó chú ý đến cán bộ nữ và tạo điều kiện thuận lợi để bố trí cán bộ nữ đảm
nhiệm chức vụ theo quy hoạch, theo đúng nguyên tắc, quy trình vào thời điểm thích
hợp. Các cấp ủy Thành phố đã luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Về tự học tập, rèn luyện của cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
Nhiều cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị Thành phố Cần Thơ
đã cán bộ đảm đương chức vụ trong diện quy hoạch đã khắc phục khó khăn, tự học
tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt. Nhiều cán bộ nữ đã chủ động đăng ký các
lớp không tập trung do Trường chính trị Thành phố Cần Thơ và các trung tâm giáo
dục thường xuyên mở tại địa phương để đạt chuẩn về trình độ học vấn chuyên môn,
nghiệp vụ, tin học… Các cấp ủy Thành phố đã quan và tạo điều kiện thuận lợi về
thời gian và hỗ trợ kinh phí để cán bộ tham gia học tập đạt kết quả.
24
Thành phố đã xuất hiện nhiều gương cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý học tập vươn
lên trong học tập phấn đấu đạt trình độ đại học, thạc sĩ, trung cấp lý luận chính trị
… Từ sự rèn luyện phẩm chất đạo đức, nỗ lực học tập nâng cao trình độ, nhiều cán
bộ nữ đã nhận được sự tín nhiệm cao, giữ vị trí quan trọng trên các lĩnh vực đặc biệt
là ở các quận Ninh Kiều, Cái Răng.

Về thực hiện chính sách cán bộ
Các cấp ủy Thành phố Cần Thơ đã chỉ đạo thực hiện chính sách cán bộ đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý nói riêng trên ba
phương diện chính: chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và
quản lý cán bộ; chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh thần cán bộ đã
đạt kết quả quan trọng. Các cấp ủy đã coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ đảm
bảo đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Các cấp ủy đã đã sử dụng hợp lý
cán bộ nữ trên thế mạnh của từng cán bộ. Đặc biệt, các cấp ủy đã quan tâm thực
hiện chính sách đãi ngộ cán bộ nữ, thực hiện tốt chính sách lương, phụ cấp, hỗ trợ
kinh phí khen thưởng, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ những cán bộ gia đình khó khăn

và gia đình gặp rủi ro, góp phần quan trọng động viên cán bộ nữ công tác, học tập
đạt kết quả.
Đối với cán bộ nữ ở cơ sở, các cấp ủy chính quyền Thành phố Cần Thơ đã chỉ
đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10-
10-2003 và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21-10-2003 của Chính phủ về
chuyển sang chế độ sinh hoạt phí một số chức danh cán bộ xã sang chế độ lương;
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
chế độ đãi ngộ đối với cán bộ cơ sở. Điều này đã cổ vũ động viên cán bộ nói chung
và cán bộ nữ nói riêng an tâm công tác, phấn khởi thực hiện nhiệm vụ được giao.
2.1.2 Nguyên nhân của những thành tựu đó
Một là, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế Đảng, Nhà nước về cán bộ
và công tác cán bộ, nhất là những chỉ thị, nghị quyết về công tác cán bộ nữ được
ban hành kịp thời cụ thể.
25

×