1
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam là chương trình hợp tác giữa giữa Cộng
đồng Châu Âu và Chính phủ Việt Nam với mục tiêu tổng thể là cải thiện chất lượng quy hoạch
đô thị góp phần cải thiện điều kiện môi trường ở các đô thị cấp tỉnh tại Việt Nam. Chương trình
được thực hiện qua 4 năm (2005-2009) ở ba hợp phần chính là Hợp phần Dự án tài trợ nhỏ
(DATTN), Hợp phần Nâng cao năng lực và Đào tạo (NCNL&ĐT), và Hợp phần Kết nối đô thị và
Tăng cường thể chế (KNĐT&TCTC).
Hợp phần DATTN nhằm tạo cơ hội nâng cao nhận thức và năng lực quy hoạch địa phương cho
các thành phố và đô thị cấp tỉnh ở Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long để tìm các giải pháp bền
vững cho các vấn đề môi trường đô thị nhằm mang lợi trực tiếp cho các cộng đồng địa phương,
đặc biệt là các nhóm hộ nghèo. Khoản tài trợ 2,9 triệu ơ-rô dành cho các dự án địa phương dựa
trên những sáng kiến, mô hình triển vọng và sự đa dạng về môi trường. Các Ban liên hiệp (gồm
các đơn vị chính quyền đô thị, các cơ quan ban ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp)
đề xuất tài trợ các DATTN thông qua quá trình Kêu gọi đề xuất và hai vòng lựa chọn cạnh tranh.
Sau chuyến đi giới thiệu việc Kêu gọi đề xuất DATTN dành cho các đơn vị hợp lệ ở tất cả các
tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong khoảng thời gian từ tháng 10/2005 – 02/2006, Vòng
1 Kêu gọi đề xuất được khởi động qua Hội thảo đối tác quốc gia vào ngày 25/12/2006 tại Cần
Thơ để kêu gọi các tỉnh nộp đăng ký tóm tắt. Đến tháng 5/2006 có 32 dự án tóm tắt gửi tới Văn
phòng Dự án (VPDA) và Ban thẩm định đã lựa chọn 16 dự án vào vòng 2 để đề xuất dự án chi
tiết trong khoảng thời gian từ tháng 6-8/2006.
Vào tháng 11/2006, 10 dự án tốt nhất được chọn dựa trên các tiêu chí lựa chọn và được Ban chỉ
đạo Bộ Xây dựng và Phái đoàn Ủy ban Châu Âu phê duyệt tài trợ. Sau khi ký kết các hợp đồng
tài trợ này, các Ban liên hiệp địa phương đã chịu trách nhiệm triển khai các DATTN trong giai
đoạn từ tháng 12/2006 đến tháng 3/2009 theo cơ chế phân quyền hậu kiểm. Văn phòng Dự án
đóng vai trò là cơ quan chủ hợp đồng và hỗ trợ quá trình triển khai các DATTN.
Mặc dù hầu hết các DATTN mang các chủ đề hỗn hợp nhưng có thể phân theo 3 loại chủ đề
chính. Bốn DATTN (Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Cà Mau) tập trung vào nâng cấp đô thị
(đường, thoát nước, vệ sinh, và nhà ở). Ba dự án khác (Kiên Giang, Long An và Cao Lãnh) về
quản lý chất thải rắn. Hai dự án Cần Thơ và An Giang là về quản lý chất thải và cây xanh đô
thị. DATTN Trà Vinh chỉ tập trung vào phủ xanh đô thị.
Trên cơ sở mục tiêu của Chương trình, đặc trưng của các DATTN (xét về tính chất, nội dung
và bối cảnh) và hiện trạng quy hoạch môi trường đô thị ban đầu ở Hợp đồng tài trợ, VPDA đã
chuẩn bị và tổ chức các đợt đào tạo cho các thành viên Ban liên hiệp để họ giải quyết các vấn
đề chung (quy hoạch và quản lý dự án, sự tham gia của cộng đồng, tài chính và hành chính),
và các chủ đề kỹ thuật (thoát nước và vệ sinh, quản lý chất thải rắn, và phủ xanh đô thị) trong
các Kế hoạch hoạt động năm. Sau đó, tất cả các chuyến công tác tư vấn và các ghi chép kỹ
thuật được ghi lại thành cuốn sổ tay thực hiện DATTN để hỗ trợ các Ban liên hiệp DATTN trong
công tác vận hành hàng ngày.
Giai đoạn từ 10/2005 đến tháng 3/2009 là cả một giai đoạn thực sự sôi động từ lúc khởi đầu,
xây dựng cho đến khi thực hiện các DATTN nhằm cải thiện hiện trạng môi trường ở các thành
phố thuộc tỉnh. Nắm bắt cơ hội từ các chuyến đi hướng dẫn lộ trình và Kêu gọi đề xuất, các
Ban liên hiệp DATTN gồm các tổ chức địa phương đã tích cực tham gia và gửi đề xuất tới VPDA.
Trong giai đoạn nộp đề xuất từ tháng 2/2006 đến tháng 12/2006, từ tổng số 32 đăng ký tóm
tắt đã có 10 DATTN tốt nhất được chọn cấp tài trợ (khoảng 300.000 ơ rô cho một dự án) và đã
đi vào thực hiện đến cuối tháng 3/2009.
GIỚI THIỆU
2
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
Cho đến nay, tất cả các Ban liên hiệp đã hoàn thành các mục tiêu dự án và đảm bảo đóng góp
nhiều tiền mặt và vật chất. Ban liên hiệp An Giang đã lắp đặt hệ thống thu gom rác 10 tấn/ngày,
cùng với các cây xanh được chăm tưới và 12.000 cây trồng mới trong khu vực du lịch núi Sam ở
thị xã Châu Đốc. Ban liên hiệp Cà Mau đã thiết kế dự án, huy động cư dân địa phương và phục
hồi lại khu phố và khu ven sông của 128 hộ gia đình, trở thành mô hình cho thành phố đi vào
nâng cấp tất cả các khúc sông trong thành phố. Ban liên hiệp Cần Thơ vận động quần chúng,
cung cấp các công cụ truyền thông và sách báo, trồng mới cây xanh các khu chợ, trường học,
khu dân cư tại 13 phường thuộc huyện Ninh Kiều, cùng với mô hình nhỏ về quản lý chất thải rắn
cho 400 hộ gia đình khu vực 8, phường An Bình. Ban liên hiệp Đồng Tháp đã huy động 2.200 hộ
gia đình thuộc phường 2 phân loại đúng 65% lượng rác, ủ phân vi sinh 5 tấn rác và hỗ trợ 75
hộ gia đình xây dựng nhà vệ sinh. Ban liên hiệp tỉnh Hậu Giang thành công khắc phục các kênh
ô nhiễm, xây dựng nhà vệ sinh trường học cho các khu 4 và 5, phường 4, thị xã Vị Thanh. Ban
liên hiệp Kiên Giang đã xây dựng mô hình quản lý chất thải rắn tại phường Vĩnh Bảo với việc
phân loại đúng 45% lượng rác và ủ 8 tấn phân vi sinh/ngày. Ban liên hiệp Long An đã xây dựng
mô hình nhỏ về quản lý chất thải rắn cho các hộ gia đình ở phường 1 để thực hiện phân loại,
thu gom và ủ 3 tấn rác/ngày tại xưởng ủ phân được xây khá tốt. Ban liên hiệp Sóc Trăng khắc
phục được 648 m kênh rạch ô nhiễm cho 489 hộ gia đình và xây dựng nhà vệ sinh cho 58 hộ gia
đình thuộc Khóm 2, phường 3. Ban liên hiệp Trà Vinh bảo dưỡng trên 1.000 cây cổ thụ và trồng
mới 10.000 cây dọc các tuyến phố và khu công nghiệp. Ban liên hiệp tỉnh Vĩnh Long cải thiện
được khu chợ Phước Thọ không còn đọng nước, vệ sinh ô nhiễm và thu gom rác kém hiệu quả
để phục vụ cho 200 hộ kinh doanh và 2.000 người đi chợ. Qua những quá trình này, còn có các
hoạt động hỗ trợ nâng cao nhận thức, nâng cao năng lực và hành động hiệu quả. Những khía
cạnh chính từ các thành tích nêu trên có thể được tổng kết dưới đây:
Hình thành và thực hiện thể thức Ban liên hiệp: Đây là lần đầu tiên một Chương trình ở Việt
Nam áp dụng rộng thể thức đối tác địa phương này, song hành với mô hình chung là Ban quản
lý dự án. Các thành viên Ban liên hiệp (ít nhất là 3 thành viên và trong đó có một thành thành
viên là tổ chức đoàn thể như trường hợp Cà Mau) cùng làm việc theo trách nhiệm và quyền lực
nêu rõ trong Thỏa thuận cộng tác. Hầu hết các Ban liên hiệp áp dụng tốt mô hình này cho hoạt
động kết nối ở các đô thị địa phương, ở cấp vùng và quốc gia. Các đối tác chính quyền và doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành và đóng góp kinh phí cho các DATTN. Tuy
nhiên, một số Ban liên hiệp cũng gặp một số khó khăn như các thành viên chưa thực sự tích cực
tham gia, thiếu thành viên cần thiết để phối hợp các bên liên quan, hoặc thiếu cán bộ chuyên
trách, vv.
Điều hành DATTN trong bối cảnh địa phương: Việc điều hành các quy chế dự án và hệ thống tài
chính kép là những cách làm phức tạp nhất. Việc tuân thủ các Hướng dẫn thủ tục của EC, các
quy định địa phương, các yêu cầu và phê duyệt kiểm toán là rất phức tạp và chiếm nhiều thời
gian trong quá trình thực hiện vốn đã rất ngắn ngủi của VPDA và các DATTN. Trong bối cảnh
những văn bản thông thường ở cấp địa phương chỉ là tiếng Việt, việc áp dụng ngôn ngữ tiếng
Anh là chính cũng làm mất nhiều thời gian và không mang tính linh hoạt. Tuy nhiên, VPDA đã
làm việc cùng với các DATTN dần xây dựng được nền tảng phối kết hợp, các thủ tục hành chính
và tài chính để có thể vận hành được.
Phát triển cộng đồng: Đây thực là những kinh nghiệm năng động và ý nghĩa về những hỗ trợ
của VPDA và những nỗ lực của các DATTN trong các hoạt động huy động con người. Có được
nhận thức cao, sự tham gia tích cực và tinh thần làm chủ địa phương, tất cả những điều này
đều là do sự quan tâm và những giải pháp chu đáo đối với lợi ích của cộng đồng sở tại, thông
qua các đối tác phù hợp (Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, và các nhóm cộng tác viên liên quan).
Quy chế cộng đồng được xây dựng và nhất trí nhằm đảm bảo các thành tích thu được. Những
bài học chính có được là các Ban liên hiệp phải hành động như người làm dâu trăm họ để thông
báo, giải thích và vận động sự tham gia của cư dân địa phương vào tất cả các giai đoạn dự án.
Giải pháp kỹ thuật: Hầu hết các DATTN đã kết hợp điều kiện tài trợ (thời gian ngắn, ngân sách
ít) và yêu cầu (mô hình có thể nhân rộng) với tính phù hợp với bối cảnh địa phương (chi phí
thấp cho các khu vực nghèo, dọn dẹp khu thực địa, thiết kế theo tập quán của địa phương, vv).
Các DATTN về nâng cấp đô thị (như Cà Mau, Sóc Trăng và Hậu Giang) chủ yếu áp dụng các ống
cống có nắp (cấu trúc gạch bê tông) để thay thế các cống đất, rạch ứ đọng nước. Các dự án này
3
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
cũng thiết kế hệ thống thu gom rác thường xuyên để rác không làm tắc nghẽn hệ thống cống
vào mùa mưa bão. Các bên liên quan và sự tham gia từ cộng đồng trong quá trình quy hoạch
và xây dựng đã giúp họ khắc phục nhiệm vụ khó khăn nhất, nhất là khâu giải phóng mặt bằng.
Các nhóm tư vấn địa phương cũng có ý kiến phản hồi trong quá trình thực hiện. Bài học chính
thu được là thiết kế thi công dự án (ví dụ Cà Mau và Châu Đốc) cần phải đầy đủ.
Trong tất cả các trường hợp, quá trình thiết kế-thầu- phê duyệt các công trình thi công theo yêu
cầu của chính quyền địa phương thường rất lâu.
Về quản lý chất thải rắn: Hầu hết các Ban liên hiệp thực hiện các hoạt động quản lý chất thải
rắn theo các dạng khác nhau. Nhóm thứ nhất gồm Cần Thơ, Cao Lãnh, Kiên Giang và Long An,
đã hoàn thành hầu hết quy trình, từ phân loại rác tại hộ gia đình, thu gom và xử lý rác vô cơ
và hữu cơ bằng kỹ thuật than thiện môi trường. Các Ban liên hiệp An Giang, Sóc Trăng, và Hậu
Giang thiết lập hệ thống thu gom rác mới nhằm ngăn ô nhiễm ở các khu trọng điểm (khu du
lịch, khu dân cư nghèo). Vĩnh Long và Cà Mau cải thiện các dịch vụ thu gom cho các khu chợ và
dân cư ven sông. Các hoạt động theo hình thức trình diễn cho thấy các giải pháp cho các vấn đề
chất thải đô thị là có thể. Nhưng để đảm bảo tính bền vững cần có những nỗ lực thường xuyên,
quy hoạch đúng và cơ chế tài chính phù hợp đối với toàn bộ hệ thống quản lý chất thải rắn.
Cây xanh đô thị: Phủ xanh đô thị là yếu tố quan trọng trong môi trường thị xã vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Các DATTN đã thực hiện một số hoạt động can thiệp điển hình. Ban liên hiệp
Trà Vinh tập trung gìn giữ hệ thống cây xanh đô thị trong toàn bộ khu vực thị xã Trà Vinh. Ban
liên hiệp tỉnh An Giang thực hiện nâng chất cây xanh ở khu vực du lịch nổi tiếng Núi Sam. Ban
liên hiệp Cần Thơ thiết kế và trồng mới các các loại cây xanh cho quận trung tâm Ninh Kiều.
Những DATTN này cho thấy việc trồng mới cây xanh và bảo dưỡng cây lâu năm phục vụ cộng
đồng đô thị là có thể ở tất cả các thành phố (chi phí thấp, các kỹ thuật trồng và chăm sóc đơn
giản), nhưng chúng cần những nỗ lực và sự quan tâm thường xuyên của thành phố trong việc
quy hoạch, sự tham gia của quần chúng, việc trồng và bảo dưỡng cây xanh.
Tính bền vững: Những kinh nghiệm thu được cho thấy sự quan tâm và nỗ lực duy trì các DATTN
và nhân rộng/áp dụng trên diện rộng tới các thành phố/khu vực khác. Đối với hoạt động nâng
cấp và phủ xanh đô thị, những kinh nghiệm gồm việc thiết kế, thực hiện, kế hoạch vận hành
và bảo dưỡng, chuyển giao và giám sát các kết quả dự án. Với hệ thống đường nước hiện tại,
việc chăm tưới cây xanh ở khu vực núi Sam tỉnh An Giang mang tính bền vững hơn việc tưới
nước bằng xe tưới. Dự án Cà Mau đưa ra được kế hoạch và những kinh nghiệm hữu ích đối với
thị xã để tiếp tục phục hồi khu ven sông ở các đoạn sông khác. Đối với các dự án quản lý chất
thải rắn, việc tiếp tục sau dự án gặp nhiều thách thức hơn, vì cách tiếp cận và hoạt động can
thiệp tài trợ rất khác với các điều kiện thông thường. Tuy nhiên, một số hoạt động nhân rộng và
áp dụng trên diện rộng cũng đang được tìm kiếm ở các DATTN. Dự án Long An đã chuyển giao
xưởng ủ phân vi sinh cho một đơn vị tư nhân và nhân rộng mô hình sang 6 thị trấn khác bằng
việc sử dụng ngân sách môi trường tỉnh. Dự án Kiên Giang chuyển giao hệ thống sang huyện
Châu Thành. Cao Lãnh và Cần Thơ chuyển giao hệ thống ủ phân vi sinh cho các công ty công
trình công cộng tỉnh, và cam kết áp dụng sang các khu vực khác ở đô thị.
Bên cạnh những đánh giá giữa kỳ, những đánh giá nội bộ của những bên liên quan (lãnh đạo
thành phố, cá cơ quan ngành dọc, hội phụ nữ), tình hình thực tế và nhận xét của các thành viên
DATTN cho thấy đã có những thay đổi đáng kể về nhận thức, năng lực nâng cao và cải thiện về
môi trường mang lại từ quá trình thực hiện các DATTN. Mặc dù những kết quả thu được từ các
DATTN vẫn tùy thuộc vào đánh giá cuối cùng của địa phương cũng như đoàn đánh giá EC, song
Văn phòng Dự án và các Ban liên hiệp tin tưởng rằng các DATTN sẽ là các tài liệu tham khảo hữu
ích để các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long và nơi khác cải thiện môi trường của họ.
4
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI VÀ NÂNG CHẤT CÂY XANH
Ở KHU DU LỊCH NÚI SAM, TỈNH AN GIANG 5
DỰ ÁN THIẾT KẾ, CHỈNH TRANG TUYẾN DÂN CƯ VEN SÔNG RẠCH
TRUNG TÂM THÀNH PHỐ CÀ MAU 7
CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TẠI KHU VỰC QUẬN NINH KIỀU,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ 9
DỰ ÁN THÍ ĐIỂM PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN VÀ HỖ TRỢ VỆ SINH
Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP 11
XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỞNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
Ở THỊ XÃ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG 13
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
Ở THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ 15
PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN, CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI BÃI RÁC
HIỆN HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ TÂN AN, TỈNH LONG AN 17
CẢI THIỆN HẠ TẦNG VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Ở KHÓM 2,
PHƯỜNG 3 THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG 19
BẢO DƯỠNG CÂY CỔ THỤ VÀ TRỒNG MỚI CÂY XANH ĐƯỜNG PHỐ
VÀ TRONG CÔNG VIÊN THỊ XÃ TRÀ VINH 21
QUY HOẠCH VÀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG CHỢ PHƯỚC THỌ
TẠI THÀNH PHỐ VĨNH LONG 23
MỤC LỤC
5
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án An Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Núi Sam, theo như lời ông Lê Lộc - nguyên
Phó Trưởng Ban liên hiệp dự án “Thu gom, vận
chuyển, xử lý rác và nâng chất cây xanh khu
du lịch Núi Sam” - hàng năm thu hút khoảng
2 triệu lượt người hành hương và khách du lịch
đến viếng đền chùa và tham gia lễ hội vía Bà.
Và các nhu cầu khác nhau về dịch vụ du lịch
đã tạo ra công ăn việc làm cho hơn hai phần
ba trong số 4.600 hộ sinh sống trên khu vực
núi thuộc phường Núi Sam.
Nhưng theo thời gian môi trường lại trở thành
nạn nhân của phát triển du lịch. Khách du lịch
xả rác và rác bị gom thành đống không được
thu gom, nhà vệ sinh công cộng không có đủ
số lượng và chất lượng và cây xanh chết khô
dần. Vì vậy vào tháng 12/2006 UBND thị xã
đã thiết kế và bắt đầu một dự án nhằm cải
thiện điều kiện sống của người dân và gìn giữ
Núi Sam xanh tươi quanh năm.
Quá trình thực hiện
Điều đầu tiên chúng tôi làm là thành lập một
Ban liên hiệp quản lý dự án với các thành viên
là đại diện của các tổ chức liên quan nhiều
nhất đến dự án. Tiếp theo chúng tôi tiến hành
thông tin cho tất cả các ban ngành liên quan
và người dân địa phương về dự án và các hợp
phần của dự án. Sau đó chúng tôi đã chuẩn
bị, thẩm tra và chỉnh sửa thiết kế ban đầu cho
đến khi tất cả các thành phần liên quan đồng
ý rằng nó có thể tạo ra được sự cải thiện bền
vững của khu vực.
Trong hợp phần cây xanh, chúng tôi phân phát
6.000 cây con cho các hộ dân tình nguyện
đảm bảo trồng và chăm sóc cây trên Núi Sam.
Và để giữ cho cây luôn xanh, chúng tôi đã một
lần nữa thay đổi thiết kế hệ thống tưới nước,
thay vì dùng các xe chở nước, chúng tôi đã thi
công một hệ thống tưới cố định với các máy
bơm, các bể chứa nước, và hệ thống ống phân
phối nước.
Trong hợp phần rác thải, chúng tôi tiến hành
khảo sát theo hệ thống hiện trạng khu vực và
lập kế hoạch quản lý rác thải. Chúng tôi đặt
220 thùng rác mới gần các đống rác tự phát và
ở những nơi cần đặt thùng rác công cộng như
là các điểm du lịch, khu dân cư và khách sạn.
Sau đó chúng tôi vận động cộng đồng tham
gia tổng vệ sinh rác ứ đọng trên Núi Sam. Và
chúng tôi cũng đã thành lập đội thu gom và
vận chuyển rác được trang bị trang phục bảo
hộ và xe đẩy tay. Sau cùng, thông qua hình
thức tờ rơi và pano, chúng tôi cũng khuyến
khích người dân và khách du lịch không xả
rác bừa bãi. Từ khởi điểm không có gì, hiện
có khoảng 10 tấn rác thải đã được thu gom và
đưa ra khỏi địa bàn.
Trong hợp phần hệ thống vệ sinh, chúng tôi đã
thiết lập hai nhà vệ sinh công cộng lưu động
và thi công 4 nhà vệ sinh công cộng cố định.
Nước từ hệ thống tưới mới được dùng trong
nhà vệ sinh.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Chúng tôi đã đối mặt với nhiều khó khăn và
rút được nhiều bài học kinh nghiệm trong quá
trình thực hiện.
Đầu tiên, chúng tôi cho rằng để đạt được
những gì mà chúng ta chưa có là khó khăn,
nhưng để giữ vững được những gì mà chúng
ta đang có cũng khó khăn không kém. Do đó,
duy trì nhận thức cao và dịch vụ thu gom rác
tốt ở Núi Sam yêu cầu phải có những nỗ lực
không ngừng từ người dân địa phương sau khi
dự án kết thúc.
Thứ hai, chúng tôi nhận thấy rằng rất khó để
thực hiện các sự thay đổi về thiết kế của dự
án. Các qui định của Việt Nam và Ủy ban Châu
Âu yêu cầu phải chuẩn bị rất nhiều giấy tờ,
văn bản liên quan. Và sau này chúng tôi phát
hiện ra là các trạm bơm cần phải có hệ thống
cung cấp điện riêng, mà dự án đã không thể
hỗ trợ được.
Thứ ba, chi phí cho việc xây dựng các trạm
trung chuyển rác đã tăng lên đáng kể do sự
chậm trễ trong quá trình đấu thầu. Điều này
cũng đã đòi hỏi chúng tôi phải tìm kiếm các
nguồn kinh phí khác để xây dựng các trạm
trung chuyển rác.
Thứ tư, sau khi nhiều cây bị chết do thiếu
nước, chúng tôi đã nhận ra rằng cần phải hoãn
lại việc trồng cây đến khi hệ thống tưới được
đưa vào vận hành hoặc trồng mẫu vào mùa
mưa.
THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI VÀ NÂNG CHẤT
CÂY XANH Ở KHU DU LỊCH NÚI SAM, TỈNH AN GIANG
Cây chết khô và rác năm 2007
6
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án An Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Thu gom rác trên núi Sam
Thứ năm, mặc dù đã có biển hiệu và thùng
rác mới nhưng nhiều du khách vẫn tiếp tục xả
rác. Và cho dù có những can thiệp của chúng
tôi nhưng dịch vụ thu gom rác vẫn bị quá tải
trong mùa lễ hội cao điểm.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi rất tự hào về các kinh nghiệm tốt đã
có được trong dự án.
Đầu tiên là Ban quản lý dự án của chúng tôi
là một Ban liên hiệp bao gồm các cơ quan
chuyên môn, tổ chức đoàn thể và cộng đồng.
Chúng tôi nhận thấy rằng mô hình Ban liên
hiệp khuyến khích sự tham gia đa dạng, tăng
cường mối quan hệ và sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các thành viên, điều này dẫn tới việc có
được quyết định và thông tin tốt hơn, cân
bằng giữa điểm mạnh và yếu của các thành
viên và giúp tiếp cận được nhiều thành phần
cán bộ trong các tổ chức thành viên. Do đó,
sự tham gia của cộng động địa phương là rất
chủ động.
Thứ hai, chúng tôi bảo đảm sự đóng góp hiệu
quả bằng hiện vật từ nhiều nguồn khác nhau
như UBND Thị xã Châu Đốc, Chùa Bà. Họ đã
đóng góp 2 nhà vệ sinh lưu động và xây 4 nhà
vệ sinh cố định, đất làm trạm trung chuyển
rác, một trạm cấp điện 3 pha và cây con với
tổng giá trị 1,555 tỷ đồng.
Thứ ba, chúng tôi cũng đã được các hộ kinh
doanh buôn bán đóng góp vào hoạt động nâng
cao nhận thức cộng đồng bằng cách sản xuất
tài liệu truyền thông như là panô, áp phích,
bảng nhắc nhở khách du lịch “bỏ rác vào
thùng”.
Cuối cùng, chúng tôi đã khuyến khích người
dân địa phương nhận cây con miễn phí nếu họ
cam kết trồng cây đúng cách và bảo đảm cây
trồng không chết.
Tính bền vững và kế hoạch tương lai.
Trồng mới cây xanh
UBND thị xã đã cấp ngân sách để xây dựng
hệ thống điện và sẽ tài trợ xây dựng trạm
trung chuyển rác và dịch vụ thu gom rác bằng
nguồn thu từ hoạt động du lịch. Đồng thời,
chính quyền địa phương sẽ thực hiện giám
sát tình hình vệ sinh môi trường tại các điểm
du lịch. UBND Phường Núi Sam và Ban Công
trình công cộng sẽ tiếp tục duy trì các hoạt
động dự án, nâng cấp dịch vụ thu gom rác và
đầu tư thêm vào trang thiết bị chuyên dùng
trong quản lý và xử lý rác thải. Hội Phụ nữ và
Phòng Tài nguyên Môi trường sẽ tiếp tục vận
động các hộ kinh doanh buôn bán gìn giữ môi
trường sạch đẹp và nhắc nhở du khách bỏ rác
vào thùng và lập quy định bảo vệ môi trường
tại khu du lịch.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€350.204 (80% tài trợ của Ủy
ban Châu Âu; 20% đối ứng địa
phương)
Số người
hưởng lợi:
23.000 người trong 4.600 hộ trên
Núi Sam
Ban quản lý
dự án
UBND thị xã Châu Đốc (lãnh đạo
Ban liên hiệp), Ban Công trình
công cộng, Phòng Tài nguyên Môi
trường, Phòng Quản lý Đô thị,
Mặt trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh
niên, Hội Phụ nữ và Đài phát
thanh thị xã.
Liên hệ: Ông Phan Hồng Vân –
Trưởng ban Liên hiệp
Ủy Ban Nhân Dân Thị xã Châu Đốc
76 Lê Lợi, Thị xã Châu Đốc, An Giang
Tel: 0780.3866211
7
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cà Mau là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Khởi động từ tháng 12 năm 2006 và hoàn tất
vào tháng 03/2009, Dự án “Thiết kế, chỉnh
trang tuyến dân cư ven sông rạch trung tâm
thành phố Cà Mau (sông Tắc Thủ, từ cầu Gành
Hào đến kênh 16)” đã hỗ trợ cải thiện môi
trường và sức khỏe của cư dân địa phương
sinh sống dọc đoạn sông Tắc Thủ, trung tâm
thành phố Cà Mau. Tại địa bàn trình diễn, Dự
án đã thực hiện hoạt động nâng cấp vỉa hè và
hệ thống thoát nước, điều chỉnh chỉ giới xây
dựng đường sông cho các hộ dân, xây dựng
hành lang ven sông và một bể tự hoại chung,
đồng thời triển khai hoạt động thu gom rác
ven sông.
Nằm ở trung tâm khu vực 1-3, thuộc phường 2
và khu vực 1 thuộc phường 9, khu dân cư ven
sông thuộc địa bàn trình diễn có 125 hộ với
khoảng 700 người. Kết quả dự kiến đạt được
từ địa bàn trình diễn của dự án là quy hoạch
chi tiết mô hình nâng cấp đô thị làm cơ sở phát
triển cho khoảng khu dân cư dọc 13,5km bờ
sông trung tâm thành phố Cà Mau.
Địa bàn trước khi có dự án – rất nhiều rác thải và các hộ gia
đình lấn chiếm hành lang sông
“Ý tưởng dự án xuất phát từ một nhận thức
là đường thủy đã đóng vai trò rất quan trọng,
nhưng đang dần bị ô nhiễm bởi cư dân đã xả
rác và nước bẩn xuống sông”, ông Nguyễn Hữu
Đô – Trưởng ban Liên hiệp, PGĐ Sở Xây Dựng
phát biểu. Trưởng ban nói thêm, có khoảng
85% hộ không có trang bị bể tự hoại. Đồng
thời, ông cũng cho biết, trong hoàn cảnh còn
thiếu các quy định quy hoạch và việc thực hiện
luật chưa nghiêm, rất nhiều người dân đã xây
dựng lấn chiếm đường sông và vi phạm hành
lang an toàn. Cuối cùng, ông nhấn mạnh, Dự
án này rất phù hợp đối với những khu vực nhà
ven sông đô thị, chiếm gần 14% tổng số hộ
trong đô thị tỉnh.
Quy trình thực hiện
Ông Hồ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân Thành phố Cà Mau nói, Ban Liên hiệp đã có
biện pháp quản lý dự án, quản lý môi trường,
quy hoạch và nâng cao nhận thức cộng đồng
về môi trường. “Trước hết, chúng tôi khảo sát
tất cả hộ gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh và
điều kiện vật chất. Sau đó chúng tôi tổ chức
tập huấn cho hơn 100 cộng tác viên đều sinh
sống trong khu vực dự án về sự tham gia của
cộng đồng, nhận thức về môi trường và hoạt
động nhóm. Sau đó, các cộng tác viên tổ chức
những buổi họp nhóm nhỏ, hoặc tham gia vào
các buổi họp thường xuyên của các tổ chức
cộng đồng và giới thiệu mục tiêu của dự án,
lợi ích và nhiệm vụ của người dân”.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Dự án đã gặp phải một số vướng mắc. Ví dụ,
ngay sau khi khởi công xây dựng hành lang,
Ban liên hiệp gặp phải quy định của Bộ Giao
thông về chỉ giới đường sông yêu cầu phải duy
trì luồng rộng 50m, mặc dù luồng rộng hiện
hữu cho khu vực chỉ có 30m. Vì vậy trước khi
thực hiện tiếp Ban liên hiệp phải được sự chấp
thuận điều chỉnh quy định cho luồng rộng tại
khu vực là 30m. Tương tự, Ban liên hiệp không
lường trước được quy định phải có phương án
đảm bảo an toàn giao thông thủy trong quá
trình xây dựng.
Và bài học quan trọng nhất là nhu cầu để có
kế hoạch phân bổ nguồn đóng góp từ phía
cộng đồng. “Chúng tôi dự kiến mỗi hộ sẽ đóng
góp khoảng 2,000 Euro”, ông Đô nói, “nhưng
chúng tôi chưa làm rõ và yêu cầu cam kết
bằng văn bản”. Và các hộ dân đã không góp
đủ số tiền này vì họ cho rằng: những đóng góp
dưới nhiều hình thức khác nhau của họ - bao
gồm phần đất đai bị mất đi vì giải tỏa mặt
bằng, các công trình trên đất đó cũng bị hủy,
và chi phí để xây lại mặt tiền ngôi nhà – tất cả
đã nhiều hơn mức đóng góp cần thiết.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi đã rút ra được một số bài học kinh
nghiệm, ông Hồ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch UBND
TP. Cà Mau, nói, “một là đảm bảo nguồn đóng
góp của cộng đồng cho hoạt động nâng cấp.
Chúng tôi thấy rằng yếu tố quyết định là phải
có sự tham gia của bên thụ huởng mới đánh
giá được trọn vẹn lợi ích của dự án. Chúng tôi
DỰ ÁN THIẾT KẾ, CHỈNH TRANG TUYẾN DÂN CƯ VEN SÔNG RẠCH
TRUNG TÂM THÀNH PHỐ CÀ MAU
8
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cà Mau là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
đã giới thiệu dự án một cách cẩn trọng, lắng
nghe nguyện vọng của cộng đồng và nhận
được sự tin tưởng của người dân. Sau đó để
đổi lấy một hành lang mới và chứng nhận sử
dụng đất, các hộ dân đã đồng ý tháo dỡ phần
cấu trúc lấn sông và dời đến chỉ giới quy định,
hoàn thiện lại kiến trúc mặt tiền sông và đóng
góp tổng cộng 1,638 tỉ đồng, tương đương
500 Euro mỗi hộ”
Hành lang ven sông mới
Một số kinh nghiệm khác liên quan đến cải tiến
hạng mục vệ sinh và quản lý chất thải rắn. Ví
dụ, một là bể tự hoại chung tiết kiệm diện tích
xây dựng để cho khoảng 12 hộ dân cùng chia
sẻ sử dụng; cấp chứng nhận sử dụng đất cho
12 hộ nghèo để có thể thế chấp vay vốn ngân
hàng để xây dựng bể tự hoại; và một xuồng
mới để thu gom rác nổi dọc theo bờ sông.
“Một kinh nghiệm khác”, Ông Đô nói, “là các
hướng dẫn mới của chúng tôi để giúp các hộ
gia đình tự bố trí lại mặt bằng nhà của họ”.
“Và một kinh nghiệm cuối cùng”, Ông Đô nói
thêm, “là thuyết phục người dân ký vào một
văn bản cam kết hợp tác với chính quyền địa
phương. Hơn nữa, UBND tỉnh Cà Mau cũng đã
ban hành quy định về quản lý xây dựng, phát
triển và sử dụng các công trình, phong cảnh
và môi trường dọc theo các tuyến sông, kênh
rạch trên địa bàn Cà Mau trong năm 2008’”
Xuồng thu gom rác trên sông
Tính bền vững và Các kế hoạch trong
tương lai
Ông Đô nói: “Sau khi dự án thí điểm này
được hoàn tất, chúng tôi sẽ chuyển giao trách
nhiệm vận hành và duy tu cho các đối tượng
hưởng lợi.” Trong khi đó, UBND tỉnh đã có kế
hoạch mở rộng dự án, bao gồm việc nâng cấp
các con đường và bờ kè sông ở các địa bàn
thuộc các phường khác, đem lại lợi ích cho
khoảng 3,600 hộ dân với hơn 15.000 người.
Nguồn vốn cho hoạt động này có thể được lấy
từ “Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia” –
một chương trình sẽ được thực hiện từ 2009
đến 2015 thông qua vốn tín dụng của Ngân
hàng Thế giới.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€ 664,391(59.95% từ Ủy ban
Châu Âu; 40.05% từ các nguồn
vốn địa phương và các bên hưởng
lợi.)
Số người
hưởng lợi:
114 hộ (khoảng 700 người)
Ban quản lý
dự án
Sở Xây dựng Cà Mau (lãnh đạo);
UBND thành phố; Hội Phụ nữ.
Liên hệ: Ông Nguyễn Hữu Đô
Trưởng Ban Liên hiệp – Sở Xây dựng Cà Mau
3 An Dương Vương, P. 7,
TP. Cà Mau, Tỉnh Cà Mau
Tel: 0780.3830884 – Fax: 0780.3830834
9
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cần Thơ là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Đây là câu chuyện về một trong 10 DATTN
của Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị
Việt Nam. Ông Lê Hồng Phát, nguyên Trưởng
BLH dự án “Cải thiện chất lượng môi trường
tại khu vực quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ”, mô
tả quá trình thực hiện dự án theo cách nói của
riêng mình.
Cho tới năm 2006, nhiều người dân ở đây
nhận thấy rằng việc thu gom rác vẫn chưa
được thực hiện một cách có hiệu quả. Không
những rác chưa được thu gom hết, mà việc xử
lý rác vẫn còn rất tốn kém. Vì vậy, chúng tôi
đã quyết định làm một điều gì đó để cải thiện
tình hình.
Sau nhiều vòng đề xuất cạnh tranh và có được
nguồn tài trợ từ Chương trình UEPP-VN, chúng
tôi đã thiết kế một dự án với ba hợp phần: (i)
nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề
rác thải, cây xanh và bảo vệ môi trường; (ii)
cải thiện hoạt động thu gom rác, bao gồm cả
việc nâng cấp các thiết bị thu gom; và (iii)
xanh hóa các khu vực dự án.
Hiện trạng quản lý rác đô thị
Quá trình thực hiện
Cho đến nay, chúng tôi đã tiến hành nhiều
hoạt động đặt ra cho dự án. Đầu tiên chúng
tôi tiến hành công tác tuyên truyền nâng cao
nhận thức nhân dân về quản lý rác thải và
trồng cây xanh tại các điểm dự án.
Việc hỗ trợ giáo dục môi trường cũng được tiến
hành tại 13 trường tiểu học, bao gồm việc tập
huấn giáo viên, cung cấp tủ sách môi trường,
thi văn nghệ vẽ tranh, thi phân loại rác trong
nhà trường, phát động học sinh tham gia
trồng và chăm sóc cây. Đồng thời, 13 tủ sách
(mỗi tủ 500 đầu sách) môi trường đã được bố
trí tại các phòng thông tin cấp phường và đã
tiến hành thiết kế và phân phát các sổ tay bảo
vệ môi trường đến các thành phần tham gia
liên quan.
Thứ hai, chúng tôi đã tăng cường dịch vụ thu
gom rác thải ở Quận Ninh kiều bằng cách đặt
thêm các thùng rác công cộng ở các khu vực
dân cư, chợ và trường học.
Thứ ba, ở vùng dân cư nhỏ tại khu vực ngoại
ô thành phố, chúng tôi đã giới thiệu một mô
hình phân loại rác tại hộ gia đình và đã xây
dựng một xưởng ủ phân vi sinh cho rác thải
hữu cơ.
Thứ tư, chúng tôi đã trồng được hơn 1.450 cây
xanh, 2.887 m2 cỏ, và 117 cụm hoa sen. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng đã xây đựng được
khoảng 76 bồn hoa, 402 m2 thảm cỏ, và lát
được 139 m2 vỉa hè ở 13 địa điểm.
Cuối cùng, chúng tôi đã thiết lập quy định về
bảo vệ và chăm sóc cây xanh cho toàn thành
phố.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Trong quá trình thực hiện dự án, chúng tôi
gặp một số khó khăn chính: tìm một địa điểm
thích hợp cho xưởng ủ phân và xác định một
khu dân cư làm thí điểm việc thu gom rác.
Lúc đầu, chúng tôi chọn quận Ninh Kiều vì đó
là một khu vực trung tâm của Cần Thơ. Nhưng
không may là chúng tôi không tìm được một
bãi đất công cộng còn trống, phù hợp với việc
xây dựng và vận hành một xưởng ủ phân vi
sinh.
Sau nhiều nỗ lực, UBND Thành phố đã cấp
cho một mặt bằng làm xưởng ủ phân tại Khu
vực 7, phường Cái Khế. Nhưng khu đất này
lại nằm giữa ngay một khu dân cư đông đúc,
và người dân ở đây phản đối việc xây xưởng
ủ phân tại đây vì có thể gây ra mùi khó chịu,
ruồi nhặng và làm giảm giá trị khu đất. Để
khắc phục điều này, chúng tôi đã tổ chức một
chuyến đi tham quan cho các đại diện của
cộng đồng đến xưởng ủ phân vận hành rất tốt
và đảm bảo vệ sinh tại Ninh Thuận. Tuy vậy,
trong khi chờ phê duyệt cuối cùng cho việc sử
dụng khu đất, chúng tôi đã quyết định chọn
một địa điểm khác vì khu đất này quá nhỏ.
Chúng tôi đã tìm và được Thành phố cấp cho
địa điểm thứ ba tại Khu vực 4, phường An
Bình. Khu đất này nằm cạnh đường và có rất
ít nhà dân xung quanh. Nhưng một lần nữa,
CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TẠI KHU VỰC QUẬN
NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ