PHẦN I: MỞ ĐẦU.
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Ngân hàng thương mại(NHTM) là một trong những trung gian tài chính
quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển như
Việt Nam. Thông qua hoạt động của mình, các NHTM đã góp phần huy động
sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất và lưu thông
hàng hóa phát triển, là công cụ để điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu của
nền kinh tế một cách hữu hiệu. Bên cạnh đó, hệ thống NHTM đã trở thành cầu
nối trung gian của ngân hàng Trung ương(NHTƯ) trong việc thực hiện các
chính sách kinh tế quốc gia, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Với thị phần
chiếm hơn 70% cả về huy động vốn và cho vay, các NHTM đang giữ vị trí
thống lĩnh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng của nước ta.
Trong những năm qua, hệ thống NHTM đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ
về quy mô và chất lượng các hoạt động với sự đa dạng về các loại hình dịch vụ
cung cấp, cụ thể như: thiết lập các chi nhánh, các phòng giao dịch, các ngân
hàng bán lẻ trực thuộc từ trung ương đến địa phương… với các dịch vụ như là:
bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh kiều hối, chứng khoán... Tuy nhiên, hoạt động
tín dụng vẫn là hoạt động bao trùm, là dịch vụ sinh lời chủ yếu và là lĩnh vực
chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Quả đúng như vậy, hầu hết các hoạt động của ngân hàng nước ta hiện nay
phụ thuộc phần lớn vào nguồn vốn mà hoạt động tín dụng cung cấp. Cho nên,
nó giữ một vị trí rất quan trọng trong các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động
tín dụng là hoạt động rất nhạy cảm liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế khác
nhau, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: kinh tế,
chính trị, xã hội, sự cạnh tranh găy gắt của các ngân hàng và TCTD khác… nên
chứa đựng rất nhiều rủi ro.
Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho các hoạt
động tín dụng của hệ thống ngân hàng nước ta nói chung và NHTM nói riêng.
Các ngân hàng có điều kiện mở rộng thị trường, tận dụng những kinh nghiệm
quản lý, kế thừa các thành tựu công nghệ, tiếp cận và chuyên môn hóa các
nghiệp vụ ngân hàng hiện đại từ đó cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, phát triển công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh những
điều kiện thuận lợi, cũng đặt ra không ít thách thức, rủi ro đối với hoạt động tín
dụng về áp lực cạnh tranh mở rộng thị trường và cung cấp các loại hình dịch vụ.
Vì vậy, nâng cao chất lượng các hoạt động là mối quan tâm hàng đầu của hệ
thống ngân hàng; và là biện pháp hiệu quả nhất để nâng cao tiềm lực tài chính,
khả năng tự chủ, khả năng cạnh tranh so với các đối thủ trong và ngoài nước.
Trong đó, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là yếu tố quyết định đảm bảo
cho sự phát triển ổn định, bền vững và lành mạnh của hệ thống các ngân hàng
nước ta.
Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo & PTNT) Việt
Nam là NHTM hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn và
phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế.
Là doanh nghiệp nhà nước đặc biệt ngoài chức năng của 1 ngân hàng thương
mại, ngân hàng NN và PTNT được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư, phát triển
đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn
trung và dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất nông - lâm -
thủy hải sản góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
NHNo & PTNT huyện Thanh Trì là 1 chi nhánh của ngân hàng NN và
PTNT Việt Nam. Với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên trong
ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện các hoạt động, không ngừng nâng cao
chất lượng các dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên, ngân hàng cũng không nằm ngoài
những khó khăn như hệ thống ngân hàng nước ta đã và đang gặp phải.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng tại các ngân hàng
vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng và một số giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì”. Qua
đó, nâng cao hiểu biết về hoạt động tín dụng và đưa ra được một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
+ Hệ thống hóa một số cơ sở lí luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
tại các ngân hàng thương mại.
+ Tìm hiểu tổng quan tình hình tín dụng của ngân hàng Việt Nam nói
chung và thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì
nói riêng.
+ Qua dó đưa ra được những đánh giá và một số giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại ngân hàng.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu:
+ Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng tín dụng của hệ
thống ngân hàng thương mại trong và ngoài nước.
+ NHNo & PTNT huyện Thanh Trì.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
tại NHNo và PTNT tại huyện Thanh Trì.
+ Thời gian:
Tài liệu được thu thập từ năm 2005 đến năm 2007.
Thời gian thực hiện đề tài: từ ngày 12/01/2008 đến ngày 12/05/2008
+Không gian: NHNo & PTNT huyện Thanh Trì
PHẦN II:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
2.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN:
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tín dụng ngân hàng:
2.1.1.1 Khái niệm:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ vay mượn giữa các
chủ thể trong nền kinh tế theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời
hạn, có mục đích và bảo đảm tiền vay. Theo nghĩa nguyên thủy, tín dụng
( credit) là sự tin tưởng, tín nhiệm mà cho vay mượn các loại vật tư, hàng hóa,
tiền tệ. Như vậy, tín dụng không chỉ là sự vay mượn thông thường mà là sự vay
mượn với một mức tín nhiệm nhất định; tức là khi thực hiện quyền cho vay,
người cho vay tin vào khả năng trả nợ của người đi vay. Hiểu theo nghĩa rộng,
tín dụng là một loại quan hệ xã hội biểu hiện mối liên hệ kinh tế, trước hết là
dựa trên cơ sở niềm tin. Đặc điểm cơ bản của hoạt động tín dụng thể hiện ở sự
vận động mang tính hoàn trả của lượng vốn tín dụng, có nghĩa là sau một thời
gian cho vay nhất định người đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho
vay. Nói cách khác, hoạt động tín dụng chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn mà
không làm thay đổi quyền sở hữu vốn của người cho vay. Ngày nay, hoạt động
tín dụng không chỉ dựa vào cơ sở niềm tin mà còn được pháp luật bảo vệ nhằm
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của các quan hệ tín dụng.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, các hình thức tín dụng ngày càng đa
dạng và phong phú. Trong đó, tín dụng ngân hàng (TDNH) được xem là hình
thức tín dụng cao nhất của nền kinh tế hàng hóa và giữ vị trí chủ đạo trong hệ
thống tín dụng. TDNH biểu hiện mối quan hệ bằng tiền và được thực hiện trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi giữa một bên là ngân hàng với một
bên là phần còn lại của nền kinh tế. Khái niệm về TDNH ngày càng được mở
rộng dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng có thể định nghĩa một cách tổng quát
như sau: “ TDNH là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa ngân hàng
với các chủ thể khác trong nền kinh tế, theo nguyên tắc tín dụng”.
Xét về bản chất, TDNH chính là các quan hệ tín dụng được thực hiện bởi
chủ thể là hệ thống các ngân hàng do vậy TDNH mang đầy đủ đặc trưng cơ bản
của hoạt động tín dụng. Các quan hệ TDNH được biểu hiện trên bề mặt là sự
chuyển nhượng lượng vốn tín dụng qua các giai đoạn như: phân phối, sử dụng
và hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng giá trị vốn tín dụng khi quay
về điểm xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng thêm, dưới hình thức
lợi tức, thông qua cơ chế điều tiết lãi suất.
Xét về hoạt động của TDNH là một hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trong
đó, đối tượng của TDNH là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân
hàng thực hiện nhiệm vụ đi vay vốn của những người có vốn để cho vay những
người cần vốn, được hưởng lợi nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và
được pháp luật bảo vệ. Với các chức năng và vị trí quan trọng của công cụ tiền
tệ đã góp phần đưa TDNH trở thành hình thức tín dụng phổ biến nhất trong nền
kinh tế.
2.1.1.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình
thức tiền tệ.
Như chúng ta đã biết, tín dụng hình thành và phát triển gắn liền với quá
trình hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa(SXHH). SXHH càng
phát triển thì nhu cầu đầu tư và mở rộng cho sản xuất càng gia tăng. Trong khi
các hình thức tín dụng khác chỉ đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong một giới
hạn nào đó (VD như: tín dụng thương mại chỉ áp dụng với đối tượng cho vay là
hàng hóa bán chịu hay tín dụng nhà nước đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của
Chính phủ, các NHTƯ) thì TDNH lại có khả năng đáp ứng phần lớn cho nhu
cầu về vốn của các hoạt động kinh tế, xã hội cả trong ngắn hạn và dài hạn. Xuất
phát từ đối tượng kinh doanh của ngân hàng chính là tiền tệ cho nên hầu hết các
hoạt động của ngân hàng đều liên quan đến tiền và hoạt động tín dụng cũng như
vậy. Tiền là một công cụ có khả năng lưu thông rất nhanh chóng, thuận lợi
trong dữ trữ, thanh toán, và dễ dàng chuyển đổi thành các hình thức khác như là
hàng hóa hay là các công cụ tương đương tiền. Với các chức năng đặc biệt như
vậy, tiền và các công cụ tương đương tiền đã góp phần đưa TDNH tham gia vào
rất nhiều lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Bằng cơ chế lãi suất thích hợp và
mạng lưới chi nhánh rộng khắp, các ngân hàng có khả năng thu hút tối đa
nguồn lực tài chính và phân phối chúng để đáp ứng cho nhu cầu vay vốn của
toàn xã hội.
Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung
gian tài chính trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn.
Ngân hàng hoạt động chủ yếu là dựa vào nguồn vốn huy động được từ
nền kinh tế. Để hoạt động kinh doanh của ngân hàng thực hiện hiệu quả thì cần
phải thực hiện tốt cả 2 hoạt động: huy động vốn và cho vay. Khi huy động vốn
ngân hàng thực hiện vai trò là người đi vay, còn khi ngân hàng thực hiện cấp tín
dụng thì ngân hàng thực hiện vai trò là người cho vay. Ngân hàng đứng ở vị trí
trung gian trong việc phân phối lại nguồn tài chính nhàn rỗi của những người
thừa vốn( không biết đầu tư vào đâu nên nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân
hàng với một mức lãi suất nhất định), đến những người có nhu cầu vay vốn. Và
người vay vốn cũng phải trả một mức phí sử dụng vốn để cho ngân hàng trang
trải các chi phí huy động vốn và các chi phí khác. TDNH đã trở thành một cầu
nối thuận lợi trong giải quyết nhu cầu đầu tư của người cho vay và nhu cầu về
vốn của người đi vay. Nhờ có TDNH mà nguồn vốn của nền kinh tế được phân
bố lại một cách có hiệu quả; hạn chế được sự lãng phí các nguồn lực, nạn đầu
cơ và sự phát triển của hình thức tín dụng nặng lãi.
Qúa trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn
phù hợp với quy mô phát triển sản xuất hàng hóa.
Vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa.
Nhưng trong nhiều trường hợp vốn tín dụng ngân hàng không tham gia vào quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hóa mà chỉ tham gia vào những hoạt động phi
sản xuất vật chất như: cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cầm cố các loại
công trái quốc gia, các loại trái khoán của chính phủ. Những trường hợp trên tín
dụng ngân hàng có gia tăng nhưng quy mô sản xuất hàng hóa không tăng.
Trường hợp khác sản xuất hàng hóa tăng nhưng vốn tín dụng không đáp ứng
kịp, mâu thuẫn này diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế thị trường. Những
trường hợp trên chứng tỏ vận động tín dụng ngân hàng có sự độc lập tương đối
với sự vận động của quá trình tái sản xuất xã hội.
2.1.1.3 Phân loại tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng có nhiều loại hay nhiều hình thức khác nhau. Nền
kinh tế càng phát triển các hình thức tín dụng càng phong phú. Việc phân loại
tín dụng nhằm hiểu rõ thêm sự khác biệt của từng loại tín dụng và qua đó ta có
thể sử dụng hoặc hiểu được tín dụng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tùy theo đối
tượng và mục đích ngiên cứu ta có thể phân loại tín dụng theo các hình thức
như sau:
Phân loại theo mục đích:
+Cho vay bất động sản.
+Cho vay công nghiệp.
+Cho vay nông nghiệp.
+Cho vay các định chế tài chính.
+Cho vay cá nhân.
+Cho thuê.
Phân loại theo thời hạn cho vay:
+Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của
cá nhân.
+Cho vay trung hạn: là là khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm
được dung vào đầu tư TSCĐ và còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là ngững doanh nghiệp mới thành lập.
+Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn
tối đa có thể lên đến 20 đến 30 năm. Được dùng đáp ứng cá nhu cầu dài hạn.
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, câm
cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
khách hàng.
+Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên các cơ sở đảm bảo như
thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Phân loại theo phương pháp hoàn trả:
+Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng.
+Cho vay không có thời hạn cụ thể: với hình thức này ngân hàng có thể
yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ vào bất kì lúc nào, nhưng phải báo
trước 1 thời hạn hợp lí, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng:
+Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: là các khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh
toán.
Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
- Chiết khấu thương phiếu: người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu
còn trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp
cho khách hàng 1 khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng.
Khi chứng từ đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành
lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng.
- Mua các phiếu bán hàng trả góp: Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh
nghiệp thực hiện bán hàng hóa theo hình thức trả góp. Tuy nhiên nguồn vốn có
hạn nên cần có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua việc nhượng lại các
phiếu bán hàng trả góp. Định kì người mua sẽ thanh toán tiền cho ngân hàng.
- Nghiệp vụ thanh tín (nghiệp cụ factoring) là nghiệp vụ mua các khoản
nợ thương mại(các khoản phải thu), trong đó bên mua(factor) nhận việc thu nợ
và chấp nhận rủi ro tín dụng.
2.1.1.4 Ưu , nhược điểm của tín dụng ngân hàng:
+ Ưu điểm:
- Về khối lượng tín dụng: tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng
những khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng.
- Về thời hạn tín dụng: thông thường người có vốn muốn cho vay ngằn
hạn hơn là cho vay dài hạn bởi vì thời hạn ngắn thì đồng tiền ít rủi ro hơn và ít
tổn thất về khả năng thanh khoản, nhưng người đi vay thường có nhu cầu vay
dài hạn. Còn ngân hàng có thể “đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn”. Chính
nhờ, khả năng chuyển hóa thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều kiện cho
nhu cầu người tích lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp.
- Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn
cũng như cho vay rất lớn, liên quan đến rất nhiều chủ thể và các lĩnh vực khác
nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, nó thích hợp với nhiều đối tượng xin vay cũng
như cho vay.
+ Nhược điểm:
Hạn chế cơ bản của TDNH là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền với
chính những ưu điểm của TDNH, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn
hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng
rất rộng.
2.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ và điều hòa vốn
giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Việc tập trung và tích lũy vốn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh
tế đang phát triển như nước ta. Đứng trước các yêu cầu cấp bách cho sự phát
triển kinh tế đòi hỏi 1 lượng vốn lớn tập trung cho việc phát triển các ngành và
các vùng kinh tế. Hiện nay, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được nắm giữ ở các
chủ thể khác nhau trong nền kinh tế là rất lớn. Nhưng nhiều người tích lũy
không muốn đầu tư bởi vì họ bị hạn chế về khả năng và kiến thức tài chính.
Trong khi đó, hệ thống tín dụng ngân hàng có đủ độ tin cậy do tính chuyên môn
hóa cao và làm giảm bớt rủi ro các cá nhân của những người tích lũy. Do đó,
TDNH làm cho quá trình tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu
quả, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài
hạn.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng
đầu và việc tính toán sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với chi phí bỏ ra bao
gồm cả chi phí cơ hội. Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ
lãng phí và tốn kém chi phi cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu sinh
lợi. Khi ấy, vốn cần được đem cho vay hay phân phối lại từ nơi tạm thời nhàn
rỗi sang nơi thiếu hụt vốn. Ngược lại, khi thiếu hụt vốn cần có sự bổ sung kịp
thời nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục
hoặc tăng trưởng như hoạch định. Nhờ có TDNH, việc điều hòa hay phân phối
lại nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu có thể được thực hiện 1 cách nhanh
chóng kịp thời, tránh hiện tượng tồn đọng nguồn vốn gây lãng phí cho nền kinh
tế.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa
phát triển.
Bất kì 1 doanh nghiệp SXKD nào cũng có nhu cầu về vốn đầu tư cho quá
trình sản xuất và tái sản xuất phát triển. Chính vì vậy, hiện tượng thừa thiếu vốn
tạm thời là hiện tượng diễn ra thường xuyên tại các doanh nghiệp. Điều đó ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất; và nếu không chủ động được nguồn vốn
kịp thời sẽ gây mất khả năng thanh toán có thể dẫn tới phá sản đối với từng
doanh nghiệp. TDNH với việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp thời, đã giúp
các doanh nghiệp thỏa mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi, đảm bảo tính liên tục
của quá trình sản xuất kinh doanh, không để tồn đọng vốn trong quá trình luân
chuyển. Bên cạnh đó, vốn tín dụng tạo điều kiện những người muốn đầu tư có
được khả năng vay vốn để đầu tư vào quá trình SXKD tạo thêm sản phẩm, hàng
hóa cho nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay. các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất
cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải cải tiến cơ sở vật chất, mở rộng sản xuất, ứng
dụng công nghệ hiện đại và nâng cao năng lực của máy móc tiến tới giảm giá
thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. TDNH góp phần tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có thể thực hiện được các dự án đầu tư lớn, tạo ra những bước
nhảy vọt về năng lực do được tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại, từ đó thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh, ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Xu hướng của các nhà đầu tư hiện nay là đầu tư vào những ngành, lĩnh
vực thu lại lợi nhuận cao đặc biệt là 1 số ngành như công nghệ thông tin, hay
chứng khoán… trong khi đó nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối,
đồng bộ giữa các ngành và các vùng, cần phải có những ngành then chốt, mũi
nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển. TDNH đã cung cấp nguồn vốn cho tất
cả các thành phần, các ngành kinh tế và bên cạnh đó còn tham gia vào các
chương trình dự án lớn phát triển kinh tế đất nước. Qua đó nâng cao cơ sở hạ
tầng, hình thành các ngành then chốt và các ngành kinh tế trọng điểm, góp phần
hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu.
Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện các chính sách tiền tệ
thích hợp để ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn. Với
các công cụ trực tiếp như: hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá đồng thời thiết lâp
và bước đàu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn,
nghiệp vụ thị trường mở… đã góp phần giúp nhà nước tăng cường phạm vi và
hiệu quả điều tiết kiểm soát tiền tệ. góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống
tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo
điều kiện phát triển thị trường tiền tệ.
Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các
chính sách xã hội của nhà nước.
Với hệ thống ngân hàng rộng khắp, TDNH giúp cho mọi người dân có
thể tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ đó có điều kiện nâng cao thu nhập
và chất lượng cuộc sống. Gắn trách nhiệm của người dân đối với nguồn vốn
vay, tạo sức ép buộc chủ thể kinh doanh phải thiết lập và phát triển các dự án
kinh doanh có hiệu quả để vừa có thể trả lãi ngân hàng đồng thời kinh doanh có
lãi, tái sản xuất sức lao động, làm giàu cho mình và cho xã hội.
Nhà nước sử dụng TDNH không chỉ là 1 công cụ thực hiện các chính
sách điều tiết kinh tế mà còn hướng tới các mục tiêu xã hội nhằm giải quyết các
vấn đề cấp bách đang diễn ra hiện nay là xóa đói giảm nghèo, dân số, việc
làm…Với việc áp dụng các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay
cho các đối tượng chính sách và các hộ nghèo, TDNH đã đóng vai trò rất quan
trọng trong thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giải quyết công ăn
việc làm, xây dựng đội ngũ cán bộ cho địa phương giảm dần khoảng cách
chênh lệch giữa nông thôn và thành thị.
Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Trong nền kinh tế mở, nhu cầù vay vốn nước ngoài trở thành nhu cầu bức
thiết đối với nhiều quốc gia. Việt Nam là một đất nước đang phát triển cho nên
nguồn vốn vay từ nước ngoài là một nguồn lực rất quan trọng trong thúc đẩy
phát triển kinh tế. Tận dụng được nguồn vốn vay từ nước ngoài nước ta có điều
kiện nâng cao năng lực sản xuất, tiếp cận trình độ công nghệ hiện đại và kinh
nghiệm quản lí của các nước trên thế giới. Đồng thời mở rộng các quan hệ hợp
tác và khẳng định được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bởi vì, khi
thực hiện cho vay đặc biệt là cho vay xuyên quốc gia thì cần phải căn cứ vào
khả năng trả nợ của mỗi đất nước do vậy một đất nước có tài chính kém phát
triển thì rất khó trong thực hiện vay vốn nước ngoài.
Xu thế hiện nay là mở rộng quan hệ hợp tác xuyên quốc gia về mọi mặt
trong đó chú trọng về hợp tác về kinh tế và tài chính. Bởi vậy, sự giao lưu hợp
tác quốc tế giữa các ngân hàng là hoạt động không thể thiếu của mỗi quốc gia.
Thông qua hoạt động của các ngân hàng, TDNH thúc đẩy quan hệ hợp tác giao
lưu, trao đổi hàng hóa giữa các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ ngoại
thương và thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cho quá trình phát triển
kinh tế của đất nước.
2.1.3 Lãi suất tín dụng:
2.1.3.1 Khái niệm và ý nghĩa của lãi suất tín dụng:
Lãi suất tín dụng (LSTD) là một chỉ tiêu gắn liền với hoạt động của ngân
hàng, của thị trường tài chính và toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, LSTD được hình
thành dựa trên nền tảng cơ bản là lợi tức tín dụng và các cơ sở của nền kinh tế
hàng hóa. Về thực chất, LSTD là sự cụ thể hóa lợi tức tín dụng (LTTD) dưới
hình thức giá trị tương đối; được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa LTTD thu
được với tổng số vốn cho vay của ngân hàng trong một khoảng thời gian xác
định. Trong đó, LTTD là chi phí cơ hội mà người cho vay có được do chuyển
nhượng quyền sử dụng vốn cho người đi vay. Nhìn nhận theo góc độ của ngân
hàng thì LTTD là phần chênh lệch giữa thu nhập đạt được và chi phí mà ngân
hàng bỏ ra trong hoạt động tÝn dông. Do vậy, LSTD hay LTTD đều là một hình
thái biểu hiện giá trị sản phẩm thặng dư của tín dụng. Hơn thế nữa, LSTD còn
là công cụ tác động trực tiếp đến lợi tức tín dụng mà ngân hàng thu được trong
tương lai và quyết định của các nhà đầu tư trong nền kinh tế, vì vậy một sự thay
đổi của LSTD có thể gây biến động lớn tới toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.
Qua đó, LSTD không những là thước đo hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
mà còn là một công cụ đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Bên cạnh đó, LSTD
cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong thực hiện các điều chỉnh của NHTƯ
đối với nền kinh tế vĩ mô và vi mô khi cần thiết góp phần ổn định tiền tệ, bình
ổn giá và thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước.
Công thức tính của LSTD được xác định như sau:
Lãi suất tín dụng
=
Tổng lợi tức tín dụng thu được trong kỳ
Tổng doanh số cho vay trong kỳ
Mặc dù, LSTDNH giữ một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhưng
nó là một biến số rất nhạy cảm và chịu nhiều tác động từ các yếu tố khác nhau
bao gồm cả yếu tố kinh tế và phi kinh tế. Xét về mặt lý thuyết, LSTDNH cũng
là một loại giá của tiền tệ vì nó là cái giá phải trả để có được quyền sử dụng vốn
vay. Đã là giá cả của hàng hóa thì luôn luôn phải chịu sự tác động của các quy
luật cung cầu trên thị trường. Khi nhu cầu vốn thị trường tăng lên mà khả năng
cung cấp vốn không thể đáp ứng được thì lãi suất cho vay có xu hướng tăng lên
và ngược lại. Đây là vấn đề mang tính quy luật trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, LSTDNH là một loại hàng hóa đặc biệt. Đặc điểm làm nên sự khác
biệt của LSTDNH so với các loại giá cả thông thường khác ở chỗ, giá cả của
các hàng hóa thông thường được hình thành trên cơ sở giá thành là chủ yếu; các
yếu tố về quan hệ cung cầu trên thị trường có ảnh hưởng nhất định đến sự tăng
giảm giá của giá cả trên thị trường nhưng không phải là quyết định; thường có
tính chất tạm thời và phạm vi ảnh hưởng, tác động của nó là không lớn. Trong
khi đó, LSTDNH thường được xác định bằng “giá mua vào” tức là “giá vốn”
trên thị trường và chi phí sử dụng vốn. Giá vốn và chi phí sử dụng vốn thì luôn
luôn chịu sự chi phối của các quy luật cung cầu về vốn, mà các quan hệ cung
cầu trên thị trường vốn thì thường xuyên có sự biến động và gắn liền với đặc
điểm kinh tế - xã hội nơi các ngân hàng hoạt động. Vì vậy, các quy luật cung
cầu trên thị trường vốn là yếu tố tác động mang tính chất quyết định đối với sự
biến động của LSTDNH. Ngoài ra, LSTD còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố
khác như: tỷ lệ lạm phát hàng năm, kỳ hạn ngân hàng hay các chính sách tài
khóa và tiền tệ của Nhà nước.
2.1.3.2. Các loại lãi suất tín dụng:
Nếu căn cứ vào tính chất chỉ đạo của Nhà Nước, lãi suất tín dụng được
chia thành:
+ Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng nhà nươc trung ương công bố
dưới các dạng như lãi suất chiết khấu, lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ
bản…làm cơ sở để ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ấn định lãi
suất cho vay.
- Lãi suất sàn, lãi suất trần là mức lãi suất thấp nhất hoặc cao nhất trong 1
khung lãi suất nào đó, mà ngân hàng trung ương quy định để can thiệp vào hoạt
động tín dụng nhằm bảo vệ quyền lợi của người cho vay hoặc người đi vay.
- Lãi suất cơ bản bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất
liên ngân hàng.
● Lãi suất tiền gửi là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi
trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
● Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi theo tính
chất của khoản vay và thời gian vay vốn.
● Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho
nhau vay nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
+ Lãi suất kinh doanh: là lãi suất do từng hệ thống nâng hàng thương mại
và các tổ chức tín dụng xác định trên cơ sở lãi suất chỉ đạo của ngân hàng nhà
nước.
Nêu căn cứ vào thời gian vay mượn:
+ Lãi suất ngắn hạn.
+ Lãi suất trung hạn.
+ Lãi suất dài hạn.
Nếu căn cứ vào giá trị của tiền tệ:
+ Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được xác định cho 1 kì hạn gửi hoặc vay
chưa tính đến sự giảm giá trị của tiền khi có lạm phát.
+ Lãi suất thực là lãi suất được xác định giá trị thực của khoản lãi có tính
đến sự giảm giá trị của tiền.
Nếu phân loại theo tiền vay:
+ Lãi suất nội tệ là lãi suất để huy động vốn hoặc cho vay bằng đồng nội
tệ trên thị trường vốn trong nước.
+ Lãi suất ngoại tệ là lãi suất dung để huy động vốn hoặc cho vay bằng
dồng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
2.1.4 Chất lượng tín dụng:
2.1.4.1 Khái niệm:
Trong bất kì một hoạt động kinh doanh nào chất lượng hoạt động, chất
lượng sản phẩm luôn là yếu tố quyết định tới sự thành công của mỗi doanh
nghiệp, đối với ngân hàng cũng như vậy.
Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
tín dụng là sản phẩm đặc biệt và chiếm vị trí chủ yếu trong mọi hoạt động của
ngân hàng. Chính vì vậy chất lượng hoạt động ngân hàng được thể hiện rõ nét
nhất qua chất lượng của hoạt động tín dụng.
Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng bao hàm nhiều
nội dung về khả năng tài chính ngân hàng, mức độ thích nghi với sự thay đổi
môi trường, khả năng thu hút khách hàng, tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ quá hạn,
trình độ quản lí, trình độ cán bộ CNV …Chất lượng tín dụng thể hiện ở khả
năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể như sau:
Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ thỏa mãn của
khách hàng qua các hình thức tín dụng và dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Xét
về góc độ huy động vốn và cho vay thì ngân hàng cần phải có quy trình thủ tục
hồ sơ đơn giản, thực hiện nhanh chóng, lãi suất đầu vào cao, lãi suất đầu ra
thấp, đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn và không gây phiền hà cho khách hàng.
Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ ngân hàng có
hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ an toàn vốn
có phù hợp với các tiêu chuẩn của nhà nước nước quy định và các chuẩn mực
thông lệ quốc tế. Tốc độ phát triển nguồn vốn và dư nợ có đảm bảo với khả
năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính hay không?...
Đối với góc độ kinh tế xã hội: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ hoạt
động đó đem lại bao nhiêu lợi ích cho xã hội, có phù hợp với định hướng chung
phát triển kinh tế, có tuân thủ luật pháp và đóng góp bao nhiêu phần trăm tăng
trưởng.
Qua đó có thể rút ra:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn) vừa trìu tượng ( thể
hiện khả năng thu hút khách hàng tác động đến nền kinh tế). Chất lượng tín
dụng chịu ảnh hưởng của, nhân tố chủ quan ( khả năng quản lý, trình độ cán
bộ), và các nhân tố khách quan( sự thay đổi của môi trường bên ngoài).
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp. Nó không tự nhiên sinh ra
mà là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ
chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung. Vì vậy, để có chất lượng tín
dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được
thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Nói cách khác chất
lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.
Đánh giá đúng chất lượng tín dụng và hiểu được các nguyên nhân tác
động giúp các ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để hạn chế các
tác động khách quan, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo cho ngân hàng tồn
tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
2.1.4.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng:
Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, các hoạt động của ngân hàng
có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với khách hàng và nền kinh tế thông qua quá
trình thực hiện hoạt động kinh doanh, các dịch vụ ngân hàng khác như: huy
động vốn; cho vay vốn; thanh toán và các hoạt động dịch vụ khác. Chính vì lẽ
đó rủi ro đối với hoạt động ngân hàng rất đa dạng, tiềm ẩn và xuất hiện gắn liền
với mỗi hoạt động dịch vụ tác động rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại
và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao hơn nó tác động ảnh hưởng đến toàn
bộ hệ thống ngân hàng bởi chính đặc thù trong hoạt động tín dụng, hoạt động
kinh doanh ngân hàng.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần nâng cao lợi nhận cho chính
ngân hàng, đảm bảo cho tăng cường CSVC – KT, đào tạo và nâng cao trình độ
cho cán bộ CNV. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tín dụng cũng góp phần
nâng cao khả năng đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng, thúc đẩy quá trình
phát triển KT –XH của địa phương và đất nước.
2.1.4.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
a) Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ:
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng
của NHTM. Bởi vì chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi
tỷ lệ này vượt mức giới hạn cho phép nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín
dụng. Chính vì vậy, tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng hoạt động tín dụng của
ngân hàng càng cao. Theo chuẩn mực quốc tế chỉ tiêu này nằm trong khoảng từ
2% - 5% là có thể chấp nhân được.
Theo quy định số 493/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 về việc ban hành
quy định phân loại nợ, trích lập và dử dụng dự phòng để xử lí rủi ro và quyết
định số 18/2007/QĐ- NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
bổ sung sửa đổi một số điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được phân
thành 5 nhóm bao gồm:
+ Nợ nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn.
+ Nợ nhóm 2: Nợ cần chú ý.
Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn 90 ngày và các khoản cơ cấu lại thời
hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nợ nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
Là các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày hoặc là cá khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nợ nhóm 4: Nợ nghi ngờ.
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nợ nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn.
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lí.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Việc phân loại các nhóm nợ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
trong quản lý các khoản nợ đến hạn. Góp phần đánh giá mức độ ảnh hưởng của
nợ quá hạn, các khoản nợ không có khả năng thu hồi dẫn đến suy giảm vốn tự
có để có các biện pháp tích cực trong việc xử lí các khoản nợ trong từng nhóm
cụ thể.
Nợ xấu là các loại nợ thuộc nhóm 3 đến nhóm 5. Nhóm nợ xấu là nhóm
nợ quá hạn có mức độ rủi ro cao cho nên đây cũng là một chỉ tiêu cần xem xét
khi đánh giá chất lượng tín dụng. Công thức:
Đối với các khoản nợ này thể hiện chất lượng tín dụng của khoản vay
kém và năng lực tài chính cũng như khả năng trả nợ của khách hàng thấp.
Chính vì vậy chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng cao thể hiện chất lượng
tín dụng của ngân hàng yếu kém. Tình trạng này kéo dài làm gia tăng chi phí
đòi nợ, gia tăng các chi phí khác liên quan đến xử lí các khoản nợ khó đòi, ảnh
hưởng tới thu nhập của ngân hàng, khả năng sinh lời của đồng vốn huy động và
tác động tiêu cực tới khả năng thanh toán.
b) Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng:
Chất lượng tín dụng được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Chỉ
tính đến kết quả thu được từ hoạt động tín dụng thì chưa phản ánh đầy đủ về
chất lượng hoạt động tín dụng. Nhưng hiệu quả của hoạt động tín dụng thì nhất
định phải thể hiện ở kết quả thu được từ hoạt động tín dụng mang lại cho nên
lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng là một chỉ tiêu rất quan trọng trong
đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Công thức tính cụ thể như sau:
- Xét về mặt tuyệt đối:
Lợi nhuận từ
hoạt động tín dụng
=
Doanh thu từ
hoạt động tín dụng
-
Chi phí hoạt động
tín dụng
- Xét về mặt tương đối:
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
=
Lãi thu từ hoạt động tín dụng
x 100
Doanh thu từ hoạt động tín dụng
Đối với chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng cho ta biết mức
tăng tuyệt đối của doanh thu so với chi phí phát sinh từ hoạt động tín dụng.
Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ tính toán mức được tăng, giảm lợi nhuận qua các
năm, mức tăng giảm lợi nhuận bình quân từ đó thể hiện mức độ phát triển lợi
nhuận mà ngân hàng đạt được.
Đối với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cho biết một đồng doanh
thu từ hoạt động tín dụng tạo ra được bao nhiều đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu
trên cho ta thấy sự tăng giảm về mặt lượng của lợi nhuận thu được từ hoạt động
tín dụng, thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thể hiện sự tăng giảm về
chất của lợi tức tín dụng. Từ chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ta có thể
đánh giá chính xác hiệu quả của lợi nhuận tín dụng ngân hàng. Vì vậy, tỷ lệ này
càng cao lợi nhuận đạt được càng cao chứng tỏ chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng càng cao.
c)Vòng quay vốn tín dụng:
Vòng quay vốn tín dụng là một chỉ tiêu tài chính rất quan trọng trong
đánh giá chất lượng tín dụng của Chi nhánh. Chỉ tiêu này phản ánh 2 vấn đề
chính đó là hoạt động quản lý nợ của ngân hàng và quy mô tín dụng hàng năm
mà Chi nhánh đạt được. Ý nghĩa của chỉ tiêu này là đánh giá khả năng thu hồi
vốn của ngân hàng nhanh hay chậm sau khi đưa lượng vốn huy động vào lưu
thông. Chỉ tiêu này càng cao tức là tốc độ luân chuyển dòng vốn của ngân hàng
càng nhanh, mức sinh lời của 1 đồng vốn bỏ ra càng cao. Phản ánh khả năng
của ngân hàng trong chủ động nguồn vốn tín dụng đồng thời hạn chế được các
rủi ro của nguồn vốn trong quá trình lưu thông. Chỉ tiêu này được xác định bằng
công thức sau:
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ/ năm
Dư nợ bình quân/ năm
d) Hiệu suất sử dụng vốn vay:
Hiệu suất sử dụng vốn vay là chỉ tiêu so sách giữa khả năng cho vay so
với khả năng huy động vốn của ngân hàng.Qua đó, phản ánh hiệu quả cho vay
của nguồn vốn huy động. Bởi vậy, hệ số này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn
của ngân hàng càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá lớn (>1) thì
nó phản ánh mức tăng trưởng tín dụng quá nóng có nghĩa là hoạt động huy
động vốn của ngân hàng không đáp ứng đủ đối với nhu cầu cho vay. Điều này
ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng đồng nghĩa tác động làm
giảm chất lượng của hoạt động tín dụng.
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng dư nợ
Tổng nguồn vốn huy động được
e) Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích:
Công thức:
Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích cho phép ngân hàng đánh giá được trong
tổng dư nợ có bao nhiêu phần trăm vốn sử dụng sai mục đích. Nếu tỷ lệ này
càng cao càng chứng tỏ ngân hàng đã chủ quan trong việc kiểm tra, giám sát
Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích =
Dư nợ sử dụng sai mụch đích
Tổng dư nợ
các khoản vay. Thông qua tính toán chỉ tiêu này góp phần cho biết khả năng của
ngân hàng trong quản lý việc sử dụng vốn của khách hàng đồng thời đánh giá
chất lượng của các khoản vay để có thể thực hiện việc trích lập và xử lý các
khoản nợ rủi ro. Chính vì vậy, chỉ tiêu này càng thấp thì chất lượng tín dụng
càng đạt hiệu quả cao và ngược lại.
2.1.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng:
a) Nhân tố khách quan:
Nhân tố khách quan tác động đến chất lượng tín dụng (CLTD) bao gồm 3
nhân tố chính: tự nhiên - kinh tế, xã hội và pháp lý.
+ Nhân tố tự nhiên, kinh tế:
Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế
luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô hoặc chịu sự chi phối của
các quy luật cung cầu, quy luật giá trị…. Hoạt động TD ngân hàng cũng chịu sự
tác động rất lớn của môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô. Quả vậy, trong điều
kiện nền kinh tế bình thường, tạo điều kiện các loại hình doanh nghiệp thực
hiện SXKD thuận lợi không gây biến động lớn tới khả năng trả nợ của khách
hàng, ngân hàng có điều kiện thực hiện nhiều biện pháp mở rộng và nâng cao
chất lượng hoạt động của mình. Ngược lại, khi nền kinh tế bất ổn, lạm phát gia
tăng, hoạt động SXKD bị ngừng trệ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách
hàng, thì ngân hàng là đối tượng chịu rủi ro lớn nhất. Bởi vì nguồn vốn cho vay
của ngân hàng là do ngân hàng huy động nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân
trong nền kinh tế. Khi lạm phát gia tăng tác động tới tâm lý khách hàng là
không muốn gửi tiền tiết kiệm mà chuyển sang đầu tư lĩnh vực khác có hiệu quả
hơn, gây áp lực lên chính hoạt động huy động vốn và cho vay của ngân hàng
dẫn tới làm suy giảm chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Ngoài ra các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà Nước ưu tiên phát triển
một số ngành nghề cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của ngân
hàng. Nhất là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chịu nhiều sự tác
động của môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế rất dễ phát sinh nhiều rủi
ro tác động xấu tới CLTD của ngân hàng.
+ Nhân tố pháp lý:
Môi trường pháp lý là một trong những yếu tố tác động rất lớn đến CLTD
của ngân hàng. Hoạt động của ngành ngân hàng là rất phức tạp và chứa đựng
nhiều rủi ro chính vì vậy nó phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp lý và các
quy định của NHNN. Sự tác động của các chính sách luôn có tác động 2 chiều
hoặc là tạo điều kiện thuận lợi hoặc là hạn chế sự phát triển của các ngân hàng.
Vì vậy, tác động tích cực hay tiêu cực đến CLTD là phụ thuộc rất nhiều vào sự
chính xác của các quy định mà hệ thống pháp lý ban hành. Cụ thể như theo
quyết định 127/2005/QĐ – NHNN ngày 3/2/2005 đã quy định toàn bộ số dư
gốc của khách hàng có khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ sẽ bị coi là quá hạn
trả nợ, phải phân vào nhóm nợ không đủ tiêu chuẩn và thực hiện việc trích lập
dự phòng rủi ro. Điều này đã dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên
rất nhiều so với thời gian trước đây khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị giảm
sút rất lớn nhưng Quyết định 127 không phải là nguyên nhân khiến cho năng
lực tài chính của các ngân hàng giảm đi, mà thực thi nghị định này thực trạng
của các TCTD được đánh giá đúng mức độ nguy hiểm để có biện pháp xử lý
kịp thời. Mặc dù, CLTD của các ngân hàng theo đánh giá là bị giảm sút rất
nhiều( phản ánh đúng thực tế hơn) nhưng đây là công tác rất cần thiết nâng cao
chất lượng của ngành ngân hàng nước ta.
+ Nhân tố chính trị - xã hội:
Sự ổn định của môi trường chính trị xã hôi có tác động rất lớn đến nhu
cầu đầu tư và các hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện bất ổn về chính trị
sẽ kéo theo sự bất ổn về kinh tế tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động của của