Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.25 KB, 24 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lời mở đầu
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước
phát triển vượt bậc cả về kim ngạch xuất khẩu và giá trị sản lượng. Năm
2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 50 của Tổ chức Kinh
tế Thế giới ( WTO ). Việc gia nhập WTO vừa tạo ra nhiều cơ hội cho
Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế toàn cầu nhưng cũng đặt ra
nhiều thử thách cho nền kinh tế Việt Nam.
Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu mạnh của Việt Nam.
Hiện nay, xuất khẩu cà phê chưa tương xứng với tiềm năng của ngành cà
phê Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam là
một cơng việc cần thiết để góp phần nâng cao hơn nữa xuất khẩu của
Việt Nam.
Chuyên đề nghiên cứu xin đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy
xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sau khi nghiên cứu hiện trạng
của ngành cà phê Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, do cịn nhiều hạn chế về con người và
nguồn tài liệu, chun đề khơng tránh khỏi có những thiếu sót, mong thầy
giáo xem xét và chỉ bảo hướng dẫn để em có thể hồn thiện hơn nữa
chun đề nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Đàm Tiến Thành

1


Website: Email : Tel : 0918.775.368

1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt


Nam
1.1 Vị trí của mặt hàng cà phê trong xuất khẩu của Việt Nam và thế giới
Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang nhiều thị trường trên thế
giới đã tăng lên đáng kể. Một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam là cà phê. Hiện nay, cà phê đã là 1 trong 5 mặt hàng thuộc câu lạc
bộ xuất khẩu 1 tỷ USD, theo dự kiến, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong
năm 2007 sẽ đạt 1,5 tỷ USD. Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, cà phê
là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu nông sản. Trong 10 tháng năm 2007,
xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 972,65 nghìn tấn với trị giá 1,467 tỷ USD,
tăng 44,58% về lượng và tăng 86,71% về trị giá so với cùng kỳ năm ngối.
Tính đến thời điểm nói trên, kim ngạch từ xuất khẩu cà phê chiếm tới 13 %
tổng sản lượng xuất khẩu nông sản - đứng đầu trong nhóm các mặt hàng
này, vượt qua mặt hàng gạo (đạt 1,283 tỷ USD), và đứng thứ 6 về kim ngạch
trong số các mặt hàng xuất khẩu của cả nước.
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có sản lượng cà phê Robusta cao nhất
trên thế giới. Về xuất khẩu cà phê nhân, Việt Nam là nước có kim ngạch
xuất khẩu lớn thứ 2 sau Braxil. Sản lượng xuất khẩu niên vụ 06/07 của Việt
Nam là hơn 18 triệu bao so với gần 29 triệu bao cà phê xuất khẩu của Braxil.
Xuất khẩu cà phê hiện chiếm khoảng 13% tổng giá trị xuất khẩu nông sản
Việt Nam, và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới, chiếm
tới 43% thị phần cà phê toàn cầu.

2


Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.2 Tiềm năng của ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam
Trong vài năm trở lại đây, thị trường cà phê được giá trở lại nên bà con

nông dân đã đầu tư và khôi phục trở lại những trang trại cà phê, cà phê sinh
trưởng tốt và đem lại thu hoạch khá cao. Nước ta hiện có 500.000 ha càphê,
năng suất bình qn 17 tạ/ha, sản lượng 836.000 tấn. Diện tích trồng tăng
khơng chỉ ở các tỉnh Tây Nguyên mà còn ở các tỉnh Đông Nam Bộ và vùng
Đông Trường Sơn. Riêng tại Đắc Lắc – địa phương có diện tích và sản
lượng lớn nhất toàn quốc, cà phê chiếm tới 60% GDP của tỉnh và chiếm tới
50% kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước ta.
Trong đó, tỉ lệ cà phê vối ( Robusta) chiếm tới 95%.
Cà phê robusta ở Việt Nam phần lớn được trồng trên đất đỏ bazan có độ
phì nhiêu cao, nhất là có tính vật lý lý tưởng, tại các tỉnh Tây Nguyên có độ
cao 450 - 600 m. Bởi vậy, cà phê robusta Việt Nam vừa có chất lượng cao,
vừa rất phù hợp cho chế biến cà phê pha trộn và cà phê hoà tan.
Chất lượng cà phê Robusta Việt Nam cũng được công nhận là ngon nhất thế
giới. Cà phê Robusta được ưu chuộng trên rất nhiều thị trường các nước
nhập khẩu.
1.3 Những vấn đề được giải quyết khi đẩy mạnh xuất khẩu
1.3.1 Diện tích trồng trọt lớn, đảm bảo đời sống kinh tế và việc làm cho
nông dân.
Với hơn nửa triệu ha cà phê hàng năm tạo việc làm cho hơn 600 nghìn
nơng dân và đảm bảo cuộc sống cho hơn một triệu người dân ở vùng nông
thôn miền núi và Tây Nguyên, cây cà phê có một vị trí quan trọng trong cơ
cấu cây trồng của nước ta.

3


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Việc xuất khẩu cà phê khơng chỉ đem lại lợi ích cho Nhà Nước và doanh
nghiệp mà cịn góp phần rất lớn trong việc ổn định kinh tế xã hội và đời

sống nhân dân.
1.3.2 Cà phê đứng vị trí thứ 6 trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
Vượt qua gạo, cà phê chiếm tới 13 % xuất khẩu nông sản và đứng vị trí
thứ 6 trong các mặt hàng của Việt Nam, góp phần khơng nhỏ vào sự phát
triển của nền kinh tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn.
Tình hình và kim ngạch xuất khẩu cà phê có ảnh hưởng lớn tới xuất
khẩu của Việt Nam. Thúc đẩy xuất khẩu cà phê sẽ giúp Việt Nam đạt được
mục tiêu xuất khẩu 58 tỷ USD vào năm 2008 và đạt được những chỉ tiêu
kinh tế xã hội khác.
1.3.3 Việt Nam là nước có sản lượng lớn thứ 2 trên thế giới nhưng mức tiêu
thụ trong nước rất thấp.
Theo ơng Đồn Triệu Nhạn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê- Ca cao Việt
Nam, bình quân các nước thành viên của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) tiêu
thụ nội địa mỗi năm lên đến 25,16% sản lượng, trong khi Việt Nam (là thành
viên của Tổ chức) hiện nay chỉ mới đạt 5% sản lượng thu hoạch. Đây là mức
tiêu thụ quá thấp so với tiềm năng của thị trường trong nước.
Việc tiêu thụ thấp một phần do trước đây, sản lượng cà phê thấp, để đủ
nhu cầu trong nước, các cơ sở chế biến đã pha trộn nhiều tạp chất, hình
thành nên sở thích của người uống. Hiện nay, cà phê nguyên chất không hợp
với khẩu vị của người dùng. Mặt khác, do thói quen và tập quán của dân ta
thường uống nước chè, vối hay nước trắng khi đi làm ruộng, rẫy, cà phê vừa
khó uống và tốn nhiều thời gian, phức tạp trong khâu pha chế. Số lượng
người thường xuyên uống cà phê ít, chủ yếu tập trung ở những khu đô thị,
thành phố.
4


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Vì vậy, khi tiêu thụ trong nước thấp, xuất khẩu là nhu cầu tất yếu để

đảm bảo sản xuất trong nước và đảm bảo việc tiêu thụ cà phê thu được.

2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua
2.1 Sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu
2.1.1 Sản lượng
Hiện nay Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới về kim ngạch xuất khẩu
cà phê. Tính đến đầu tháng 11/2007, sản lượng xuất khẩu cà phê vượt
ngưỡng 1 triệu tấn hàng, đạt giá trị kim ngạch khoảng 1,55 tỷ USD, tăng
43% sản lượng nhưng tăng tới 84 % về giá trị sản lượng so với cùng kì năm
trước. Hiệp hội cà phê ca cao Việt nam dự báo trong năm nay , kim ngạch
xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt mức 1,8 tỷ USD.
Về giá, từ đầu năm đến nay, giá cà phê xuất khẩu Việt Nam tăng khá do
giá cà phê trên thế giới tăng. Hiện nay, giá cà phê xuất khẩu đạt xấp xỉ
1800USD/ tấn, tăng 80-100USD/tấn, và là mức cao nhất trong 9 năm rở lại
đây. Tuy vậy, giá cà phê Việt Nam vẫn còn thấp hơn so với các nước xuất
khẩu cà phê khác vào khoảng 50 – 70 USD/ tấn. Năm 2006, giá cà phê
Robusta của Việt Nam là 1188 USD, trong khi giá thị trường London là
1.317.7 USD, và giá chỉ thị ICO là 1.489,2 USD; gần nhất vào tháng 9/2007,
sự chênh lệch giá tương ứng vẫn là 1.582 USD - 1.835,8 USD - 2045,9
USD.
Trong cơ cấu xuất khẩu thì Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là cà phê
Robusta, giá thường thấp hơn cà phê chè ( Arabica) 30 % và Robusta cũng
chỉ chiếm tới 30% lượng sản phẩm rang xay.

5


Website: Email : Tel : 0918.775.368

2.1.2 Chất lượng cà phê xuất khẩu

Chất lượng cà phê Robusta Việt Nam được coi là tốt nhất thế giới nhưng
lại không đồng đều, đặc biệt là tỉ lệ bị thải loại là cao nhất thế giới. Từ
tháng 10/2006 – 3/2007 tổng số cà phê bị loại của Việt Nam chiếm 88%
tổng số cà phê bị thải loại trên thế giới.
Do thói quen lâu nay, nông dân Việt Nam đã để lẫn cà phê quả xanh với
quả chín, cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phơi khô cà phê. Mặt
khác, do 2 bên người mua và người bán cà phê ở Việt Nam đều thoả thuận
áp dụng tiêu chuẩn cũ TCVN 4193:93, chỉ chú ý tỉ lệ phần trăm hạt đen, vỡ,
do đó người ta khơng thể tính số lỗi như hạt mốc, hạt chưa chín và mẩu cây
vụn, sạn nhỏ...
Để đảm bảo chất lượng, cà phê xuất khẩu phải được phân loại theo
phương pháp tính số lỗi, có như thế Việt Nam mới có cơ sở ghi chứng chỉ
xuất xứ đầy đủ (hiện nay, Việt Nam vẫn nằm ngoài danh sách 28 nước xuất
khẩu cà phê đã báo cáo chất lượng cho Tổ chức Cà phê Quốc tế).
2.2 Thị trường xuất khẩu
Hiện nay, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang gần 70 nước và vùng lãnh
thổ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng đầu cà phê Việt Nam
gồm: Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Hàn Quốc, Anh,
Nhật Bản. Nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất lớn tới ¾ khối lượng cà
phê xuất khẩu của Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn ổn định, trong đó Đức
tiếp tục giữ vị trí số 1 về nhập khẩu cà phê của Việt Nam với thị phần
khoảng 14%. Tiếp theo là các nước như Mỹ, Italia, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ.

6


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng mở rộng, ngoài các

nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam cịn xuất khẩu sang vùng
Trung Cận Đơng, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội ASEAN và vùng
Trung Mỹ.
2.3 Các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu cà phê thứ 2 thế giới, đứng đầu là Braxil,
sau Việt Nam là các nước Colombia, Indonesia, Guatemala, Honduras,
Costa Rica…
2.3.1 Xuất khẩu cà phê của Brazil :
Brazil là nước có sản lượng thu hoạch và kim ngạch cà phê xuất khẩu
lớn nhất thế giới. Theo thông báo của Hội đồng xuất khẩu cà phê nhân
Brazil hôm 05/11, Brazil đã xuất khẩu 2,51 triệu bao cà phê nhân loại 60kg
trong tháng 10, giảm 2% so với 2,56 triệu bao xuất khẩu 1 năm trước đó.
Khối lượng xuất khẩu tháng 10 bao gồm 2,27 triệu bao cà phê nhân arabica,
giảm 2,1% so với 2,32 triệu bao cùng kỳ năm trước. Cà phê robusta xuất
khẩu cũng giảm 1,4% từ 222.967 bao của tháng 10/06 xuống cịn 238.309
bao.
Tính chung cho ngành xuất khẩu cà phê của Brazil, tổng khối lượng
xuất ra trong tháng 10/07 đã tăng 0,3% lên 2,79 triệu bao, với kim ngạch
tăng tới 26,6% lên 423,2 triệu USD so với cùng kỳ năm trước.

7


Website: Email : Tel : 0918.775.368

2.3.2 Xuất khẩu cà phê của Guatemala:
Xuất khẩu cà phê của Guatemala trong tháng 10 – tháng đầu tiên của
niên vụ 2007/08 đạt 111.146 bao loại 60kg, tăng 14,15% so với cùng kỳ năm
ngoái. Anacafe cho biết trong tháng 10 năm 2006, xuất khẩu của Central
American Arabica là 97.369 bao.

2.3.3 Xuất khẩu cà phê của Costa Rica:
Theo tổ chức cà phê Costa Rican, xuất khẩu cà phê trong tháng 10 của nước
này đạt 34.018 bao loại 60 kg, giảm 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

2.3.4 Xuất khẩu cà phê của Honduras:
Tổ chức cà phê Honduras cho biết xuất khẩu cà phê của nước này trong
tháng 10 đạt 47.488 bao loại 60kg, tăng 88%.
Nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 Trung Mỹ này đang có kế hoạch tăng gấp
đơi sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm lên khoảng 7,7 triệu bao loại 60kg
vào năm 2010/2011 nhờ giá sản xuất thấp và nguồn đất trồng rộng.

8


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3. Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong
thời gian tới
3.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam khơng có tính đồng đều, đây
là một điểm yếu lớn của cà phê Việt Nam. Để nâng cao chất lượng sản
phẩm, chúng ta có thể thực hiện một số cơng việc như sau:
3.1.1 Áp dụng tích cực các hệ thống quản lý chất lượng
Các cơ sở doanh nghiệp trồng và chế biến cà phê hiện nay gần như
không tuân theo một tiêu chuẩn nào cả. Trước đây có áp dụng tiêu chuẩn cũ
TCVN 4193:93, nay khơng cịn phù hợp với tình hình mới, khơng kiểm sốt
được chất lượng cà phê. Đến năm 2005, Việt Nam đã ban hành Tiêu chuẩn
cà phê xuất khẩu TCVN 4193:2005, áp dụng phân loại theo cách tính lỗi để
phù hợp với cách phân loại của Hội đồng Cà phê Thế giới. Tuy nhiên đây là
một tiêu chuẩn mang tính tự nguyện, khơng bắt buộc nên khơng được nhiều

cơ sở thực hiện. Hiện nay mới chỉ có 10% các doanh nghiệp áp dụng tiêu
chuẩn này, tương đương 1 – 1,5 % lượng xuất khẩu.
Ngày 1/10/2007, Bộ Công Thương đã ra văn bản yêu cầu thực hiện theo
tiêu chuẩn mới này. Vì phải trang bị máy móc và thay đổi quy trình thu mua
chế biến nên các cơ sở đã phản ứng với quyết định trên. Nhưng đây là một
biện pháp cần được áp dụng triệt để nhằm nâng cao chất lượng của cà phê
xuất khẩu.

9


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Với việc áp dụng này, có thể sẽ giảm lượng xuất khẩu do phải loại bỏ
nhiều cà phê kém hơn, nhưng về lâu dài, điều này sẽ có lợi cho các doanh
nghiệp trong việc khẳng định chất lượng cà phê Việt Nam.
Ngành cà phê Việt Nam cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn kĩ thuật khác,
xây dựng lộ trình và cách thức tiến hành áp dụng để có thể có tác dụng tốt
nhất trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ngoài tiêu chuẩn trong nước, các cơ sở và doanh nghiệp thu hái, chế
biến cà phê cũng cần phải nghiên cứu và áp dụng các hệ thống quản lý chất
lượng quốc tế như các quy định của Hội đồng Cà phê Thế giới ( ICO).
3.1.2 Tuyên truyền và thay đổi thói quen trong trồng trọt, thu hoạch và chế
biến
Hiện nay, đa phần các cơ sở trồng trọt, chế biến và xuất khẩu đều không
tuân thủ các quy định, điều kiện về thu hái, chế biến và bảo quản cà phê.
Theo tập quán cũ của người trồng trọt, cà phê tới mùa thu hoạch đều được
thu hái rất đại trà, cả hạt xanh hạt chín, khơng có sự chọn lọc. Khâu phơi và
bảo quản theo cách thức ủ đống, phơi trên sân đất làm cho cà phê bị giảm
chất lượng đáng kể. Bên cạnh đó, cơ chế thu mua cũng làm cho người dân

khơng chú trọng đến chất lượng cà phê trong thu hoạc, phơi sấy và phân
loại.
Ngoài ra, việc trồng cây cà phê cịn sử dụng nhiều phân hóa học và
thuốc trừ sâu, ảnh hưởng đến chất lượng thu hoạch. Ngành cà phê khuyến
cáo các nhà sản xuất nên sử dụng phân hữu cơ thay cho phân hóa học, đây
cũng là một hướng mới tiến bộ trong kĩ thuật trồng cây cà phê.

10


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Vì vậy, để có thể nâng cao chất lượng cà phê, các cơ quan và doanh
nghiệp cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và hướng dẫn các kĩ thuật tiêu chuẩn
trong trồng trọt và thu hái, dần từng bước thay đổi những thói quen không
tốt này.
3.1.3 Đổi mới công nghệ và áp dụng các kĩ thuật tiên tiến trong khâu chế
biến sau thu hoạch
Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà phê ở Việt Nam đã có
nhiều tiến bộ. Người ta đã trang bị thêm nhiều thiết bị mới chất lượng tốt
trong chế biến. Tuy nhiên với cà phê Arabica thì chế biến vẫn cịn là một
việc làm có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch
nhớt. Nhiều nơi có khó khăn vì lượng nước sạch dùng cho chế biến quá lớn
và nó cũng dẫn đến khó khăn về xử lý nước thải khơng gây ô nhiễm môi
trường. Các chuyên gia nước ngoài trong chương trình GTZ của Đức và dự
án ba bên của các tập đồn nước ngồi thực hiện ở Cơng ty hồ tiêu Tân Lâm
- Quảng Trị đã đạt kết quả tốt trong khâu xử lý nước thải. Và việc nghiên
cưu khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp EakMat ở ĐakLak đang nghiên cứu
sử dụng máy làm sạch nhớt kiểu Penagos rất tiết kiệm nước của Colombia
cũng hứa hẹn nhiều triển vọng.

Nước ta cũng có kế hoạch triển khai dự án nâng cao chất lượng thông qua
việc ngăn ngừa nấm mốc trong khâu bảo quản.
Ngoài ra cũng cần đổi mới trang thiết bị tiên tiến, phù hợp cho việc thực
hiện các quy định và tiêu chuẩn của Nhà nước như TCVN 4193: 2005, và
các quy định của Ủy ban chất lượng cà phê , thuộc ICO.

11


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Hiện tại Việt Nam có khoảng 150 doanh nghiệp chuyên chế biến cà phê
xuất khẩu, nhưng số doanh nghiệp có cơng nghệ chế biến hiện đại chỉ đếm
trên đầu ngón tay. Bởi để có được nhà máy chế biến cà phê với cơng nghệ
hiện đại, số vốn đầu tư không dưới 7 tỉ đồng, chỉ có những doanh nghiệp có
diện tích trồng tập trung mới hy vọng làm được điều này.
3.2 Đổi mới cơ cấu cây trồng và đa dạng hóa sản phẩm
3.2.1 Đổi mới cơ cấu giống cà phê
Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất cà
phê theo hai hướng :
- Giảm bớt diện tích cà phê Robusta. Chuyển các diện tích cà phê phát
triển kém, khơng có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao
su, hồ tiêu, hạt điều, cây ăn quả và cả cây hàng năm như bông, ngô lai...
- Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện khí hậu đất
đai thật thích hợp.
Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê
không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng từ 450.000
ha đến 500.000 ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi thay đổi,
trong đó:
+ Cà phê Robusta 350.000 ha - 400.000 ha (giảm 100.000 - 150.000 ha)

+

Cà phê Arabica (100.000 ha tăng 60.000 ha so với kế hoạch cũ trồng
40.000 ha bằng vốn vay của cơ quan phát triển Pháp)

12


Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600.000 tấn tương đương 10 triệu
bao so với hiện nay giảm 5 triệu bao và đó là 5 triệu bao cà phê Robusta.
Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch
cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt nam cũng như với thị trường
cà phê quốc tế.
Mấy năm nay sản lượng cà phê Robusta trên thế giới tăng lên nhanh
chóng, vụ 2000/01 đạt tới 44,8 triệu bao tăng tới 12,2 triệu bao so với vụ
trước và chiếm tới 38% tổng sản lượng cà phê. Đó là một tỷ lệ hồn tồn
khơng thích hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng cà phê thế giới. Việt nam
dự kiến giảm 5 triệu bao cà phê Robusta là một con số rất có ý nghĩa. Chúng
ta cũng biết rằng trong thời điểm này sản lượng cà phê Robusta của Braxin
vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng. Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh
hay chậm cũng cịn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của nhà nước
cho nơng dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển
giao kỹ thuật đầy đủ, chu đáo. Ngoài ra vấn đề đổi giống mới tốt hơn cho
các vườn cà phê cũng là một khâu quan trọng cần được đầu tư và cũng cần
thời gian. Theo chúng tôi đây cũng là một chương trình trung hạn của ngành
cà phê Việt nam.
Bên cạnh đó, cần tiến hành nghiên cứu giống và trồng những giống có
hiệu quả cao. Viện Khoa học Kỹ thuật nơng- lâm nghiệp Tây Nguyên đã lai

tạo, tuyển chọn 19 giống cà phê mới, trong đó có 9 giống cà phê vối, 10
giống cà phê chè có năng suất, chất lượng hạt cà phê thương phẩm cao,
kháng bệnh đưa vào sản xuất đại trà, góp phần tăng sức cạnh tranh đối với
cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.

13


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Đối với 9 giống cà phê vối gồm TR4, TR5, TR6, TR7, TR8 sau 3 năm
thực hiện ghép cải tạo thay các giống cà phê cũ ở các vườn cà phê tại các xã
Ea Kpam, huyện Cư M'Gar, Đồn Kết, huyện Krơng Búk (tỉnh Đắc Lắc),
Công ty cà phê Ia Sao (Gia Lai), Nông trường cà phê Đắc Uy 4 (Kon Tum),
Trạm nghiên cứu thực nghiệm Đơn Dương (Lâm Đồng) đều cho năng suất
từ 2,7 đến 7,3 tấn cà phê nhân/ha. Đặc biệt, các giống cà phê này sinh trưởng
khoẻ, cây cao trung bình, phân cành nhiều, quả chín màu đỏ cam, hoặc huyết
dụ, vàng cam, đều có hạt cỡ lớn, đạt loại I trên 65%, kháng cao đối với bệnh
gỉ sắt.
Đối với cà phê chè, Viện đã tiến hành lai tạo nhiều cặp lai giữa các giống
cà phê chè Catimor và các giống cà phê hoang dại có nguồn gốc từ Ethiopia,
kết quả đã chọn được 10 giống lai gồm TN1, TN2...đến TN10, trong đó, hai
giống lai TN1, TN2 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho
phép khu vực hoá. Các giống cà phê chè lai mới được tuyển chọn này cây
sinh trưởng khoẻ, phân cành nhiều, đạt năng suất từ 4 đến 5 tấn cà phê nhân/
ha, kích cỡ hạt lớn, trọng lượng 100 nhân trên 15 - 17gram, kháng cao đối
với bệnh gỉ sắt...
Hiện nay, các giống cà phê lai tạo, mới tuyển chọn này đang được Viện
Khoa học Kỹ thuật nông- lâm nghiệp Tây Nguyên sản xuất đáp ứng nhu cầu
về phát triển cũng như cải tạo, thay thế giống mới trong các vườn cà phê già

cỗi, hoặc cà phê giống cũ trồng thực sinh năng suất thấp tại các tỉnh Tây
Nguyên.

14


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.2.2 Tăng cường các hoạt động chế biến sau thu hái
Hầu hết cà phê xuất khẩu của nước ta hiện nay là nguyên liệu thô. Tỉ lệ
xuất khẩu nguyên liệu thô quá cao trong khi công nghiệp chế biến trong
nước chưa phát triển sẽ khiến ngành cà phê lao đao khi thị trường thế giới có
biến động .Thêm nữa, việc xuất khẩu thơ làm giảm giá trị của sản phẩm cà
phê, không tương xứng với chất lượng sản phẩm. Nếu chúng ta đẩy mạnh
công tác chế biến sau thu hái, cà phê xuất khẩu không những sẽ bớt chịu sự
tác động quá mạnh của tình hình thị trường thế giới, mà cịn nâng cao giá trị
của sản phẩm, giúp tăng giá bán và tính cạnh tranh. Giống như những mặt
hàng khác, sản phẩm cà phê sau khi được chế biến sẽ có giá trị gia tăng lớn
hơn nhiều so với sản phẩm nguyên liệu thơ.
Chúng ta có nhiều cà phê xấu, kém bị thải loại ở các cảng châu Âu, là do
bán cà phê ở dạng “xô” phân loại theo tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93. Bản
tiêu chuẩn này chỉ đánh giá cà phê xuất khẩu rất đơn giản theo 3 chỉ tiêu về
phần trăm lượng ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất, mà không xếp hạng theo số lỗi
trong cà phê. Bởi thế, khách hàng mua cà phê xô với giá thấp, sau đó chọn
lọc cà phê tốt (khá nhiều) rồi bán giá cao, thu lợi nhuận cao hơn so với mua
cà phê đã phân loại. Việc tăng cường khâu chế biến và phân loại sẽ đem lại
hiệu quả kinh doanh cao hơn việc xuất khẩu “xơ” như hiện nay.
Vì thế, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê, nâng cao giá trị kim
ngạch xuất khẩu, các doanh nghiệp và cơ sở cần đẩy mạnh thực hiện các
công tác chế biến sau thu hái với những kĩ thuật tiên tiến, đáp ứng nhu cầu

sản phẩm cà phê qua chế biến của thị trường.

15


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.2.3 Đa dạng hóa các sản phẩm cà phê xuất khẩu
Ngồi việc xuất khẩu đơn thuần cà phê nguyên liệu thô Robusta, Việt
Nam cần thực hiện việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu nhằm đảm bảo
thị trường và sản lượng xuất khẩu được nâng cao.
Hiện có hai nhà máy sản xuất cà phê hoà tan đang hoạt động, một là
Nhà máy cà phê Biên Hoà thuộc VINACAFE, một là của Nestle Thái
Lan.Vấn đề là tìm thị trường mở rộng thị trường tiêu thụ để tạo điều kiện mở
rộng sản xuất. Vấn đề cà phê dạng lỏng đóng hộp cũng đang được xem xét.
Sản xuất cà phê hữu cơ là một phương hướng của ngành cà phê Việt
nam, cần được quan tâm. Tiềm năng để sản xuất cà phê hữu cơ lớn vì phía
Bắc Việt nam có một vùng núi rộng lớn điều kiện khí hậu thích hợp cho cà
phê Arabica sinh trưởng phát triển. Đồng bào dân tộc thiểu số ở đây ít sử
dụng phân hố học và thuốc trừ sâu. Đó là điều kiện thuận tiện để phát triển
sản xuất cà phê hữu cơ. Thu nhập từ cà phê hữu cơ cao hơn sẽ khuyến khích
nơng dân tham gia sản xuất mặt hàng này. Vấn đề ở đây lại là việc cấp
chứng chỉ cà phê hữu cơ và thị trường tiêu thụ làm sao cho thuận tiện và có
hiệu quả cho nơng dân.
Việt nam cũng có nhiều vùng có khả năng sản xuất cà phê thơm ngon.
Nếu có chủ trương tổ chức sản xuất tốt cộng với chế biến tốt hồn tồn có
thể đưa ra thị trường những mặt hàng cà phê hảo hạng như cà phê Bn Ma
Thuột.
Ngồi cà phê nhân là mặt hàng chính , ngành cà phê Việt Nam nên định
hướng đầu tư đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu :cà phê bột ,cà phê đắc sản ,

cà phê hoà tan , …
16


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.3 Hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt nam tương đối thấp so
với nhiều nơi khác vì GDP bình quân trên đầu người cũng thấp, và năng suất
cà phê Việt nam cũng vào loại cao trên thế giới nhưng giá thành cà phê Việt
nam vẫn chưa thấp đến mức có thể cạnh tranh được. Nguyên nhân chủ yếu
là do nông dân Việt nam với mong muốn đạt năng suất cao nhất đã tăng đầu
tư phân bón, nước tưới lên mức rất cao đã làm giảm hiệu quả của đầu tư và
nâng cao giá thành sản xuất.
Việc cần phải làm là tìm cơng thức đầu tư cho hiệu quả kinh tế cao nhất
trong đó giảm thiểu đầu tư vào phân hoá học, thuốc trừ sâu, lượng nước tưới
để đạt một năng suất không phải là cao nhất nhưng có mức lợi nhuận tốt
nhất. Ngành cà phê Việt nam cũng quan tâm khuyến cáo các nhà sản xuất sử
dụng nhiều phân hữu cơ thay cho việc dùng nhiều phân hố học lâu nay coi
đó là một phương hướng tiến bộ trong kỹ thuật.
Việc sử dụng quá mức lượng phân bón tại các vùng chuyên canh cà phê
thường cao hơn từ 10 – 23% so với yêu cầu dinh dưỡng của cây trồng, dẫn
tới chi phí sản xuất cao, vì vậy, việc giảm bớt lượng phân bón tiêu thụ sẽ
giúp giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh. Biện pháp loại bỏ cây che bóng
cũng được xem như là một tiến bộ kỹ thuật quan trọng trong nghề trồng cà
phê ở Việt Nam và không thể phủ nhận tác dụng tăng năng suất của biện
pháp này.
Với một số biện pháp đó, giá thành sản phẩm cà phê giảm sẽ giúp nâng
cao tính cạnh tranh của cà phê Việt Nam so với sản phẩm của các quốc gia
khác.


17


Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.4 Tăng cường xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu cho cà phê
Việt Nam và mở rộng thị trường xuất khẩu
3.4.1 Tăng cường xúc tiến thương mại
Các doanh nghiệp đã từng sử dụng dịch vụ xúc tiến thương mại đều cho
rằng, chất lượng dịch vụ cịn ở mức trung bình và tính chuyên nghiệp chưa
cao.
Theo các DN, hầu hết các hoạt động XÚC TIếN THƯƠNG MạI thường
tập trung vào việc duy trì, tìm kiếm và mở rộng khách hàng/thị trường để
bán hàng hố mà doanh nghiệp có chứ chưa gắn liền với hoạt động phân
phối sản phẩm để tạo ra những sản phẩm độc đáo của riêng mình.
Hiện nay cả nước mới có 50 địa phương thành lập được Trung tâm xúc
tiến thương mại, 14 địa phương cịn lại chưa có Trung tâm xúc tiến thương
mại mà chỉ có bộ phận chuyên trách cấp phịng đảm nhiệm cơng tác này tại
các Sở Thương mại hoặc Sở Thương mại du lịch.
Các hoạt động xúc tiến thương mại nhất là xuất khẩu của Việt Nam chủ
yếu vẫn bao gồm các hoạt động tình thế tập trung như hội chợ triển lãm, các
đoàn khảo sát thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, đại đa số các tổ chức
thương mại cũng như các doanh nghiệp khơng có chiến lược hoặc kế hoạch
xúc tiến thương mại cụ thể. Nếu có thì những chiến lược và kế hoạch này
cũng không được thực hiện một cách đầy đủ. Do vậy, khơng ít hoạt động
xúc tiến thương mại khơng có mục tiêu cụ thể, tiến hành một cách bị động,
không được chuẩn bị rõ ràng, khơng có trọng tâm và trọng điểm hoặc chưa
gắn với những mặt hàng. Yếu kém này đã làm cho công tác xúc tiến thương
mại không hiệu quả.


18


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Vậy, điều mà các doanh nghiệp mong chờ nhất hiện nay là một hệ thống
chuyên nghiệp, mạnh từ trung ương tới địa phương, trong đó lấy đối tượng
khách hàng của mình là các doanh nghiệp làm trung tâm, phải hướng vào thị
trường và sản phẩm cụ thể, phương thức triển khai phải chuyên nghiệp, sáng
tạo.
Cục xúc tiến thương mại đã đưa ra 7 giải pháp để nâng cao hiệu quả của
hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ DN tăng cường sức cạnh tranh trong
điều kiện hội nhập sâu rộng vào WTO như hiện nay. Trong đó, cơ chế chính
sách được đặc biệt nhấn mạnh, Chính phủ đang có chủ trương thành lập
Quỹ xúc tiến thương mại - Đầu tư – Du lịch thay thế cho Quỹ hỗ trợ xuất
khẩu. Các khoản chi cho chương xúc tiến thương mại quốc gia sẽ lấy từ Quỹ
này. Hệ thống tổ chức theo hướng chuyên nghiệp – năng động - hiệu quả
cũng sẽ đặc biệt được chú trọng.
Hơn nữa, để tận dụng tối đa các cơ hội tham gia xúc tiến thương mại cho
doanh nghiệp, đồng thời tránh tổ chức trùng lặp các hoạt động, các cơ quan
xúc tiến thương mại địa phương cần gửi danh mục kế hoạch hoạt động hằng
năm và dài hạn về Cục xúc tiến thương mại để tổng hợp thành danh sách các
hoạt động xúc tiến thương mại trên cả nước. Danh mục này được đăng trên
website của Cục xúc tiến thương mại để các cơ quan và doanh nghiệp cùng
tham khảo.
Bên cạnh đó, một giải pháp khơng kém phần quan trọng được Cục xúc
tiến thương mại đặt ra là tiến hành khảo sát, quy hoạch nhằm đánh giá thực
trạng hệ thống hạ tầng kỹ thuật xúc tiến thương mại trên cả nước, sớm chỉ ra
cần phải đầu tư những cơ sở hạ tầng nào, ở đâu, quy mô và mức độ đầu tư

đến đâu, khi nào cần đầu tư….

19


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ngoài ra, việc tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ
làm công tác xúc tiến thương mại; tăng cường liên kết lẫn phối hợp giữa các
cơ quan xúc tiến thương mại, hiệp hội, doanh nghiệp; chú trọng công tác
hoạch định, xây dựng chiến lược dài hạn về công tác xúc tiến thương mại ;
phát triển ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động xúc tiến
thương mại …
Mới đây, tỉnh Đắc Lắc đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm đẩy mạnh việc
xúc tiến thương mại như tổ chức Tuần lễ cà phê thường niên tại Đắc Lắc,
ngoài ra, cịn tổ chức Tuần lễ văn hóa cà phê ở hai thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
Tuần lễ văn hoá cà phê này là hoạt động quảng bá, gắn kết kinh tế với
văn hoá, đưa kinh tế cà phê vượt qua giới hạn của hoạt động sản xuất, làm
thăng hoa giá trị của cây cà phê để xúc tiến thương mại, quảng bá thương
hiệu nhằm tăng tiêu thụ cà phê nội địa, vừa đẩy mạnh tiêu thụ cà phê ở nước
ngoài, tăng thu nhập cho người trực tiếp sản xuất cà phê.
3.4.2 Xây dựng thương hiệu vững mạnh
Để thành công trên thương trường, một doanh nghiệp cà phê phải hội đủ
3 yếu tố: chất lượng sản phẩm, thương hiệu mạnh và hệ thống phân phối
hoàn hảo, trong đó, thương hiệu là yếu tố được xác định là quan trọng nhất.
Hiện nay cà phê Việt Nam đã có một số thương hiệu trên thị trường quốc
tế như Trung Nguyên, Victoria, Inexim, Simexco, Rossi, Vica... Ngày 2-12,
Bộ Khoa học Cơng nghệ đã chính thức cơng bố thương hiệu cà phê Buôn
Ma Thuột, công nhận là tài sản quốc gia và được Nhà nước bảo hộ vô thời

hạn.
20



×