Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Quy luật phát triển của trẻ và phương pháp Montessori

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.96 KB, 60 trang )

Phần 1: Lý luận ..................................................................................................... 3
Quy luật phát triển của trẻ và phương pháp Montessori. ................................. 3
1
Phương pháp Montessori bắt nguồn từ đâu? ..................................... 3
2
Trẻ 0-6 có thể học được gì? ............................................................... 3
3
Đặc trưng gì giúp trẻ học được tất cả mọi thứ?.................................. 4
4
Trong hàng nghìn trẻ chỉ có 1 trẻ xuất chúng? ................................... 4
5
Vậy giai đoạn 0-6 tuổi phải nhồi nhét trẻ? .......................................... 5
6
Trong các giai đoạn phát triển của con người thì giai đoạn nào là giai
đoạn quan trọng nhất? ................................................................................ 5
7
Các câu hỏi về giai đoạn mang thai (thai giáo) ................................... 6
8
Môi trường tốt nhất cho trẻ khi trào đời? ............................................ 6
9
Các giai đoạn phát triển Tâm lý .......................................................... 6
10 Trẻ có các giai đoạn mẫn cảm nào? ................................................... 6
11 Tầm quan trọng của việc phát triển giác quan? .................................. 7
12 Tầm quan trọng của vận động ............................................................ 8
13 Quá trình phát triển vận động của trẻ ................................................. 9
14 Các đặc điểm vận động của trẻ ........................................................ 11
15 Vậy cứ cho trẻ vận động là được? ................................................... 12
16 Vậy phát triển vận động cho trẻ như thế nào? ................................. 12
17 Tầm quan trọng của sự phát triển ngôn ngữ? .................................. 14
18 Trẻ học ngôn ngữ như thế nào? ....................................................... 15
19 Văn hóa ............................................................................................. 16


20 Trẻ phát triển tính cách như thế nào?............................................... 16
21 Những trẻ lệch lạc trong giai đoạn 0-3 tuổi có chữa được khơng? .. 17
22 Những tính cách tốt nào của trẻ có thể được xây dựng trong giai
đoạn 0-6 tuổi? ........................................................................................... 17
23 Trẻ trong giai đoạn 0-3 tuổi gặp những lệch lạc gì? ......................... 18
24 Nguyên nhân của những lệch lạc của trẻ? ....................................... 19
25 Giai đoạn cực kỳ quan trọng: 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi ......................... 19
26 Làm thế nào để trẻ được bình thường hóa? .................................... 20
27 Vậy người lớn có thể làm gì để trẻ bình thường hóa? ..................... 21
28 Làm thế nào để trẻ tập trung làm việc? ............................................ 22
29 Làm thế nào để phát triển ý chí của trẻ? .......................................... 24
30 Làm thế nào để trẻ vâng lời? ............................................................ 27
31 Làm thế nào để trẻ có kỷ luật tự giác?.............................................. 27
32 Bài học yên lặng cho trẻ những điều gì? .......................................... 27
33 Làm thế nào để phát triển trí sáng tạo của trẻ? ................................ 28
34 Làm thế nào để phát triển các kỹ năng xã hội của trẻ? .................... 32
Phương pháp Montessori (tổng kết lại) .......................................................... 35
1
Phương pháp Montessori bắt nguồn từ đâu? ................................... 35
2
Triết lý của phương pháp Montessori? ............................................. 35


3
Lợi ích của Phương pháp giáo dục Montessori. ............................... 36
4
Sự khác biệt của PP Montessori với phương pháp giáo dục truyền
thống ......................................................................................................... 36
5
Bố trí mơi trường trong Montessori ................................................... 38

6
Muốn trở thành giáo viên Montessori cần làm gì? ............................ 40
7
Các giai đoạn làm việc của giáo viên Montessori? ........................... 41
8
Giáo cụ .............................................................................................. 44
9
Các yếu tố thành công khi triển khai phương pháp Montessori ....... 44
10 Nguyên tắc ứng xử với trẻ ................................................................ 45
11 Dạy trẻ các hoạt động như thế nào? ................................................ 49
Chương trình đào tạo ..................................................................................... 51
1
Hỗ trợ trẻ trong giai đoạn 0-2 tuổi rưỡi. ............................................ 51
2
Hỗ trợ trẻ trong giai đoạn 2,5 – 6 tuổi ............................................... 53
3
Thực hành cuộc sống ....................................................................... 54
3.1
Sinh hoạt cá nhân ....................................................................... 54
3.2
Lao động ..................................................................................... 57
3.3
Giao tiếp, lễ nghi ......................................................................... 58
4
Giác quan .......................................................................................... 59
4.1
Xúc giác ...................................................................................... 59
4.2
Thị giác ....................................................................................... 59
4.3

Tri giác ........................................................................................ 59
4.4
Vị giác ......................................................................................... 59
4.5
Khứu giác .................................................................................... 59
4.6
Thính giác ................................................................................... 60
4.7
Các trị chơi bổ trợ phát triển giác quan khác ............................ 60
5
Ngôn ngữ .......................................................................................... 60
6
Tốn học ........................................................................................... 60
7
Văn hóa ............................................................................................. 60
Phần 2: các bài tập thực hành ............................................................................ 60


Phần 1: Lý luận
Quy luật phát triển của trẻ và phương pháp Montessori.

1 Phương pháp Montessori bắt nguồn từ đâu?
-

Là nữ bác sĩ đầu tiên của Ý, ....

-

Bà mở phòng khám cho trẻ chậm phát triển, ...


-

Ngôi trường đầu tiên

-

Ngôi trường thứ hai

-

Từ những kết quả bất ngờ, ngôi trường của Mont đã gây ra tiếng vang
trên toàn thế giới.

-

Hiện nay.

Như vậy, có thể nói, phương pháp Montessori là phương pháp giáo dục
khoa học, dựa trên quan sát quá trình phát triển tự nhiên của trẻ. Montessori nói
rằng giáo dục là sự hỗ trợ cho cuộc sống.

2 Trẻ 0-6 có thể học được gì?
0-6 tuổi là giai đoạn trẻ học tất cả mọi thứ để
Trẻ nhỏ từ một đứa trẻ sơ sinh, yếu ớt, khơng biết làm gì, đến 6 tuổi đã trở
thành 1 người đủ mọi năng lực hành vi và trí tuệ, thích ứng với mơi trường và
điều kiện sống ở bất kỳ đâu trên trái đất này.
Giác quan nhạy bén: phân biệt được 88 âm của đàn Piano, phân biệt
được màu và sắc, ...
Kỹ năng sinh tồn: ăn, ngủ, vệ sinh, thể thao, v...v...
Vận động: từ một trẻ sơ sinh, đến 6 tuổi trẻ đã có thể có đủ tất cả các loại

hình vận động phức tạp nhất, như bơi lội, đánh đàn, xâu kim, v...v...
Ngôn ngữ: trẻ có thể làm chủ (nghe, nói, đọc, viết) được 3 hay 5 hay thậm
chí 10 ngơn ngữ khác nhau.
Tốn học và logic:


Văn hóa: hầu hết các khái niệm của con người về thế giới có thể được học
trong thời kỳ này, trẻ có thể học tất cả các mơn đang dạy ở trường phổ thơng.
Tính cách. Một đứa trẻ được tạo điều kiện phát triển bình thường sẽ hình
thành tính cách tốt: độc lập, tự tin, yêu lao động, tràn đầy tình u thương, tài
năng và trí tuệ. Montessori gọi đó là những đứa trẻ được bình thường hóa.
Ngược lại, nếu bị cản trở, trẻ sẽ phát triển lệch lạc và sẽ trở thành một người tự
ti, yếu đối, sợ sệt, lệ thuộc người lớn, mặc cảm, chứa đầy những rào cản, v...v...
Montessori gọi đó là những đứa trẻ lệch lạc.
Vậy có thể nói, những gì trẻ học từ 0-6 tuổi gần như là khơng giới hạn.

3 Đặc trưng gì giúp trẻ học được tất cả mọi thứ?
Để làm được việc đó, khi sinh ra, trẻ mang trong mình những đặc tính giúp
chúng có năng lực thích nghi vượt trội. Chúng đam mê khám phá, tiếp thu mọi
thứ bằng tất cả giác quan. Chúng hoạt động không ngừng để rèn luyện các kỹ
năng và trưởng thành qua trải nghiệm. Chúng lao động một cách hăng say và
tập trung. Chúng dám mạo hiểm làm tất cả mọi việc, muốn bắt chước làm tất
cả mọi thứ và mang một ý chí sắt đá phải mọi thứ bằng được. Chúng yêu quý
con người, thiên nhiên, mơi trường, v...v... và dần hình thành các đặc tính xã
hội.

4 Trong hàng nghìn trẻ chỉ có 1 trẻ xuất chúng?
Mỗi trẻ sinh ra mang trong mình những đặc tính di truyền của cha mẹ và
dịng tộc, nhưng những đặc trưng chung của lồi người thì ở trẻ nào cũng có,
bất kể trẻ thuộc dân tộc nào, cha mẹ thuộc tầng lớp nào. Sự khác biệt chỉ là môi

trường trẻ lớn lên hỗ trợ gì cho sự phát triển của trẻ. Ví dụ, một trẻ sinh ra và lớn
lên trong mơi trường đa ngơn ngữ (nói chuyện với bố bằng tiếng Hà Lan, với mẹ
bằng tiếng Anh, với ông bà ngoại bằng tiếng Việt, với ông bà nội bằng tiếng
Pháp, đi học ở trường nói tiếng Trung Quốc) thì đương nhiên biết ngần ấy ngôn
ngữ, trẻ nào cũng vậy. Hoặc các trẻ được dạy chữ đúng cách, đúng thời điểm,


thì 100% biết đọc biết viết, biết làm tốn ở 4-5 tuổi. Vậy trẻ như thế nào, chủ yếu
là do mơi trường có hỗ trợ cho trẻ phát triển hay không.

5 Vậy giai đoạn 0-6 tuổi phải nhồi nhét trẻ?
Trẻ có một lộ trình đã được định sẵn, trong đó có các giai đoạn mẫn cảm
để tương tác với mơi trường và hình thành các năng lực. Vai trị của mơi trường
(trong đó có người lớn) sẽ chỉ là sự hỗ trợ cho trẻ phát triển đầy đủ năng lực của
mình một cách tự nhiên. Vì thế, khơng phải cứ nhồi nhét là được mà phải dựa
vào quy luật phát triển của trẻ, dựa vào tính cách của từng trẻ và hứng thú của
trẻ trong từng giai đoạn để tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách tự nhiên.

6 Trong các giai đoạn phát triển của con người thì giai
đoạn nào là giai đoạn quan trọng nhất?
Trong quá trình phát triển của con người, có thể nói càng sớm thì càng
quan trọng.
-

Quan trọng nhất là giai đoạn người mẹ đang mang thai. Trạng thái
thoải mái, được chăm sóc đầy đủ về mặt thể chất (dinh dưỡng, sức
khỏe, khí hậu, vận động, ...) và tinh thần (thư thái, hưng phấn, thú vị,
v...v...) đều quyết định rất lớn đến tố chất của trẻ khi trào đời.

-


Quan trọng thứ nhì là thời điểm trẻ trào đời và 1 tháng đầu sau khi sinh.
Thời điểm trào đời, trẻ phải trải qua một sự biến đối ghê gớm, từ trạng
thái mọi thứ đều được mẹ cung cấp, tất cả các bộ phận đều ở trạng
thái nghỉ ngơi bỗng chuyển sang trạng thái phải tự mình làm mọi việc:
mắt, phổi, tai, v...v... Điều đó đem lại sự thương tổn ghê gớm đối với
trẻ. Chuẩn bị một môi trường phù hợp cho sự ra đời của trẻ là điều cực
kỳ quan trọng.

-

Quan trọng thứ ba là 3 năm đầu đời: các kỹ năng sinh tồn cơ bản được
hình thành và luyện tập: đi lại, ngơn ngữ, ăn, ngủ, vận động, v...v...


-

Quan trọng thứ tư là 3-6 tuổi: các kỹ năng được hồn thiện, trẻ học một
cách chủ động, có ý thức, tính cách định hình rõ ràng và ổn định đến
khi trưởng thành.

7 Các câu hỏi về giai đoạn mang thai (thai giáo)
8 Môi trường tốt nhất cho trẻ khi trào đời?
-

Môi trường tốt nhất cho trẻ khi trào đời: yên lặng, tối tăm, ở trần không
quần áo, được sưởi ấm bằng khơng khí ấm và hơi ấm của người mẹ,
nệm trải được làm ấm, thấm nước, khi bẩn thì vứt đi, nâng bế nhẹ
nhàng, ... trong 1 tháng đầu, chỉ nên để mẹ tiếp xúc với trẻ, mọi sự giao
tiếp, thăm viếng đều hạn chế tối đa.


9 Các giai đoạn phát triển Tâm lý
Ba giai đoạn tâm lý lớn của con người:
0-6 tuổi: hình thành tâm lý và tính cách
− 0-3 tiếp thu một cách thụ động, vô thức, phát triển đời sống tâm lý
− 3-6 tiếp thu một cách có ý thức, có tư duy và hình thành tính cách, hồn
thiện hoặc cố định đời sống tâm lý, khơng chỉ hấp thụ mơi trường mà cịn
nhận thức bản thân, tiếp nhận văn hóa bằng những hoạt động.
6-12: tâm lý tương đối ổn định
12-18 tuổi: có những thay đổi lớn và từng bước trưởng thành

10Trẻ có các giai đoạn mẫn cảm nào?
Trong quá trình phát triển, mọi sinh vật đều có giai đoạn nhạy cảm với 1
yếu tố nào đó của mơi trường, khi được kích thích bởi mơi trường, nó hình thành
đặc điểm mới. Trẻ em trải qua những giai đoạn mẫn cảm liên tiếp, khi nhạy cảm
với thứ gì, chúng quan tâm đặc biệt đến thứ đó và thờ ơ với những thứ khác. Sự


phát triển tâm lý được chỉ đạo bởi các giai đoạn nhạy cảm này, thế giới bên
ngồi chỉ đóng vai trị là phương tiện hỗ trợ chứ khơng phải là yếu tố dẫn dắt.
Trong năm đầu tiên, trẻ tiếp thu những ấn tượng giác quan lần đầu, và mọi
hình ảnh để phụ vụ cho việc hình thành ý chí.
Sang năm thứ 2, trẻ chú ý đến những vật bé xíu mà ta khơng để ý, ví dụ
con kiến trên mặt đất, hình chiếc ơ tơ bé xíu trong 1 bức tranh lớn. -S2-118
Trong giai đoạn 0 - 3 tuổi, trẻ yêu sự trật tự, đó là một sự mẫn cảm. Vì thế,
mọi thứ phải để cố định, ở đúng chỗ phù hợp với nó, loại bỏ mọi thứ thừa. Trẻ sẽ
nhìn, nhận biết mọi thứ và ghi nhớ vị trí, dần dần phát triển khả năng tự định
hướng trong môi trường và làm chủ mơi trường của mình. Với trẻ sơ sinh nên
đặt trẻ ở mặt nghiêng để trẻ có thể quan sát xung quanh. Những sự sáo trộn có
thể gây ra đau đớn cho trẻ. -S2-98. Trật tự của trẻ cịn hướng vào trong: trẻ

nhận biết cơ thể mình, tạo thành trí nhớ cơ bắp, vì thế cần nói cho trẻ khi tắm,
khi mát xa, v..v... Mọi việc diễn ra với trẻ nên thực hiện theo 1 trình tự thống
nhất. -S2-118
Trong giai đoạn 0-6, trẻ thể hiện đam mê khám phá, tìm tịi, học hỏi cháy
bỏng và ham muốn được vận động, được làm việc.

11Tầm quan trọng của việc phát triển giác quan?
Có hai hệ thống quan trọng ngang với não, đó là hệ thống cảm giác và hệ
thống vận động. Hệ thống cảm giác giúp trẻ thu thập thơng tin, nhận biết mơi
trường xung quanh. Trẻ có hệ thống cảm giác lệch lạc thì não sẽ nhận được
thơng tin sai, xử lý sai, dẫn đến hành vi cũng sai. Cảm giác bình thường thì tâm
lý sẽ lành mạnh.
Từ khi sinh ra, hệ thống giác quan của trẻ ở thể sơ khai, nếu được phát
triển chúng sẽ rất nhạy bén và phát triển được sự nhạy bén này trong suốt
quãng đời còn lại.
Sự phát triển giác quan giúp trẻ phát triển trí lực, vì nó giúp trẻ nhận biết,
so sánh, phân loại mọi sự vật, hiện tượng. Trẻ có thể phân tích, miêu tả các


thuộc tính của sự vật: kích cỡ, hình dạng, màu sắc, độ bóng và thơ ráp bề ngồi,
trọng lượng, nhiệt độ, tạp âm, mùi vị và âm thanh. Khi phân loại được sự vật, tri
thức của trẻ sẽ được sắp xếp gọn gàng, giúp trẻ tư duy mạch lạc, nhanh chóng,
nhớ lâu, giúp ổn định tâm trí và nhận biết thế giới một cách tinh tế.
Nếu các giác quan không tinh tế, trẻ sẽ không phân biệt được đâu là thức
ăn ngon, đâu là bản nhạc hay, đâu là bức tranh đẹp, v...v...
Một điều quan trọng nữa, khi được thực hành các bài tập phát triển giác
quan, tâm thức của trẻ được đánh thức, trẻ sẽ bị thu hút vào các bài tập, lặp đi
lặp lại và dần dần đi vào lộ trình làm việc tập trung, thứ cực kỳ quan trọng đối với
sự phát triển của trẻ.
Thiên tài. "Các thiên tài có năng lực liên tưởng mạnh mẽ giống nhau, đây

chính là đặc điểm cơ bản nhất của thiên tài". Muốn có mọi phát hiện, cịn cần
tiến hành sắp xếp tài liệu thực tế. Có điều, sự khác biệt giữa người với người
chính ở chỗ những tài liệu thực tế này chỉ có thể được "phát hiện" bởi những
nhà phát hiện, những người khác lại vô cùng coi nhẹ nó. Và giác quan chính là
cơng cụ cho sự “phát hiện” này. Đương nhiên, gặt hái được thành quả vĩ đại như
vậy, ngồi lao động trí lực phi phàm, Colombo cịn có lịng can đảm hơn người
và cuối cùng điều khiến ơng thu được thắng lợi chính là lịng tin.

12Tầm quan trọng của vận động
Có hai hệ thống quan trọng ngang với não, đó là hệ thống cảm giác và hệ
thống vận động. Hệ thống vận động là công cụ của trí não. Nhưng vận động
khơng phải chỉ để rèn luyện sức khỏe, vận động là để phát triển trí não và tâm lý.
Con người sở hữu rất nhiều cơ, nhưng cơ chế vận hành cần được tạo ra,
tức là sử dụng như thế nào, mục đích gì, thì phải được điều khiển bởi trí não, và
phải được sáng tạo sau đó rèn luyện thì mới được. Khơng ai giống được ai trong
việc sử dụng toàn bộ các cơ trong cơ thể và cũng không ai sử dụng được hết
năng lực của tất cả các cơ. Có người giỏi bơi, có người giỏi chạy, có người giỏi
đàn, có người giỏi đan, có người giỏi nói, v...v...


Người khơng làm gì, khơng vận động thì tinh thần cũng khơng ổn định.
Với trẻ thì vận động là một nhu cầu khơng thể thiếu, vì qua vận động trẻ sẽ
hình thành các năng lực và trưởng thành. Việc học của trẻ trong giai đoạn này
cũng đặc biệt cần vận động, bắt trẻ ngồi một chỗ và học là điều bất khả thi.
Thông qua lao động với mức độ tập trung cao độ thì trí óc trẻ được khai mở,
những tính cách xấu biến mất, thay vào đó là những đức tính tốt. Qua lao động
thì các đặc tính xã hội cũng được hình thành và phát triển.

13Quá trình phát triển vận động của trẻ
Chức năng hai tay và hai chân là hoàn toàn tách biệt.

Đi lại và thăng bằng thì gần như ai cũng có và đều có khả năng
tương đương nhau
Để thăng bằng được, trẻ phải đứng trên cả bàn chân. Trải qua 4 giai đoạn:
biết lật -> bò -> vịn tường để đi -> đứng thẳng và đi. Chỉ đến giai đoạn cuối, khi
trẻ tự đứng được, đặt cả bàn chân lên mặt đất, người đã đứng thẳng và dần dần
đi lại, thì chứng tỏ tiểu não đã phát triển. Mọi sự trợ giúp của môi trường đều vô
nghĩa, trẻ đi được do sự phát triển tiểu não bên trong.
Khi trẻ đã đi được, phải để cho trẻ tự đi, và phải đi sau trẻ, KHÔNG BAO
GIỜ ĐI TRƯỚC trẻ.
Trẻ có nhu cầu đi lại
Từ 2 tuổi trẻ có thể đi 2 km / ngày. Những khó khăn trẻ phải trải qua khi đi
dạo là những điểm hứng thú. Chúng quan sát và đi, miễn là còn nhiều thứ thú vị
để quan sát là chúng còn đi, chúng chuyển từ sự chú ý này đến niềm đam mê
khác. Việc của chúng ta là phải giới thiệu cho trẻ màu sắc, hình dạng thú vị của
lá, cơn trùng, các loài vật, cỏ cây, hoa lá, v...v... giúp trẻ có thêm thứ để quan
tâm khi đi ra ngồi. Trẻ học càng nhiều, đi càng nhiều. Đi lại là hình thức luyện
tập tổng thể, không cần bất cứ nỗ lực thể dục nào khác. Tác dụng của nó: hít thở
và tiêu hóa tốt hơn, tạo được vẻ đẹp của cơ thể, các hoạt động trên đường như


đứng lên ngồi xuống, khom lưng, với tay, v...v... là đủ cho nhu cầu thể thao phát
triển cơ thể.
Tay thì mỗi người mỗi khác
Chữ viết khác nhau. Sự phát triển của tay liên quan đến trí thơng minh.
Con người làm việc khác nhau: mức độ tỉ mỉ, chính xác, tinh tế, v...v... cũng khác
nhau. Nếu không thể sử dụng tay, nhân cách của đứa trẻ sẽ dừng lại ở một mức
độ rất thấp, khơng có khả năng vâng lời, khơng có tính chủ động, lười nhác và
buồn bã -S1-198.
Sự phát triển của tay
Khi sinh ra, trẻ chỉ nắm bắt vô thức

Rồi trở nên có ý thức -> nắm bắt được phát triển
Đến tháng thứ 10: nắm bắt có mục đích: thay đổi vị trí các đồ vật, mở và
đóng cửa, ngăn kéo, nắp chai, đặt đồ vật, bỏ ra, thả vào, v...v...
18 tháng - 2 tuổi: phát triển sức mạnh. Từ giai đoạn này, tay và chân có sự
gắn bó để thực hiện một việc chung. Trẻ muốn sử dụng sức mạnh tối đa, ví dụ:
bê vác nặng, leo trèo, đu, v...v... Đây là giai đoạn mà trẻ luôn nỗ lực tối đa, và
nếu bị cản trở, trẻ sẽ không lưu giữ được bản năng này và những lệch lạc xuất
hiện từ đây.
Từ 2 tuổi rưỡi: trẻ muốn bắt chước người lớn. Sự bắt chước này không
đơn giản là bắt chước đơn thuần, trẻ cần có sự chuẩn bị cho con người sau này.
Trẻ bắt chước không phải là để giống người lớn, mục tiêu là tạo ra khả năng mà
nó đang bắt chước, tức là làm được việc đó. Có những hoạt động mà trẻ thích
làm, và dù thấy nó kỳ qi, chúng ta khơng nên can thiệp. Ví dụ trèo lên trèo
xuống bậc thang, thích thú vì "con cao chưa?" ... Đôi khi những nỗ lực này là
những nỗ lực của sự tập trung và sự phối hợp nhuần nhuyễn các cử động, chứ
không chỉ đơn thuần là những nỗ lực của sức mạnh.
Từ 3 tuổi: trẻ làm mọi thứ có ý thức. Trẻ tiếp thu mơi trường thông qua lao
động. Trẻ sử dụng các đồ vật theo những mục đích của mình. Trẻ khơng sử


dụng những đồ vật khơng có trong mơi trường của chúng vì cơng việc của trẻ là
sản xuất ra một cá nhân phù hợp với môi trường của chúng. Trẻ không cần đồ
chơi hay các đồ vật giả, mô phỏng. Trẻ cần đồ vật thật ở kích thước phù hợp,
dùng được cho mục đích có ích, tham gia vào cuộc sống thật hàng ngày, cần có
khoảng đất riêng, khơng gian riêng để phát triển.

14Các đặc điểm vận động của trẻ
Trẻ muốn tự làm. Khi người lớn làm thay việc cho trẻ, họ đã tước mất
quyền luyện tập của trẻ, đồng thời đã áp đặt ý chí của mình vào đó và ám thị cho
trẻ rằng: con không làm được. Giai đoạn nhỏ trẻ rất nhạy cảm với sự ám thị. Một

mặt khác, nếu chỉ cho trẻ cách làm với quá nhiều nhiệt tình hay làm những động
tác thái quá hay q chính xác thì sẽ dập tắt khả năng phán đốn và hành động
theo cá tính cùa trẻ. Những ức chế rất dễ len lỏi vào.
Trẻ muốn bắt chước. Trẻ yêu quý môi trường, chúng hào hứng quan sát
mọi vật và bị chúng thu hút, nhưng trên hết, trẻ bị lơi cuốn bởi các hành động
của người lớn và tìm cách học hiểu và lặp lại chúng. -S2-163-. Người lớn có một
sứ mệnh: tạo cảm hứng cho các hành động của con trẻ -S2-163. Người lớn cần
hướng dẫn cho trẻ làm việc, khi hướng dẫn phải thật chậm rãi, để tất cả các chi
tiết hành động của họ thật rõ ràng cho đứa trẻ theo dõi -S2-163.
Khả năng tập trung cao độ. Đứa trẻ bị món đồ hấp dẫn, nó hoàn toàn
tập trung vào vật ấy và tiếp tục làm việc không ngừng nghỉ trong một trạng thái
tập trung tuyệt vời ... Sau khi làm việc như thế, trẻ có vẻ hài lịng, thư thái, và
hạnh phúc, vâng, đó là cảm giác thư thái mà bạn có thể đọc được trên những
khn mặt nhỏ nhắn và bình thản, và trong những đơi mắt trẻ thơ long lanh với
sự hài lịng về một cơng việc tự phát đã hồn tất ... Cô bé lặp lại 42 lần. Rồi cô
bé dừng lại như vừa ra khỏi một giấc mơ và mỉm cười như thể cô rất hạnh phúc.
Đôi mắt cô bé sáng rỡ và cơ nhìn quanh ...
Lặp lại bài tập. Người lớn lao động để đạt được kết quả, theo quy luật cố
gắng tối thiểu còn trẻ lao động để tạo ra con người, nên dù đã đạt được kết quả,


trẻ vẫn muốn làm lại để phát triển kỹ năng. ... Khi mới học bài học rửa tay, các
em cứ tiếp tục rửa tay ngay cả khi tay đã sạch.
Tình cảm với trật tự. Trẻ thích tự mình đem đồ chơi cất về chỗ cũ. Lối
sống mới: sắp xếp mọi thứ về đúng vị trí. Vì thế, mọi thứ nên được sắp xếp ngăn
nắp, trật tự và duy trì trong thời gian dài.
Trẻ có nhịp điệu riêng. Trẻ có một sự hăng say với những điều tưởng
chừng như tầm thường, như 1 chiếc khăn gấp sai thì trẻ sẽ cố gắng để gấp lại
cho đúng ... Trẻ làm mọi việc rất chậm, rất tỉ mỉ. Vì thế, hãy để trẻ có thời gian
làm việc theo cách trẻ muốn. -S2-159

Tự do chọn lựa. Trẻ sẽ thích chọn 1 số hoạt động, 1 số thì khơng trẻ nào
chọn. Lý do vì bên trong trẻ có một thơi thúc bản năng riêng, sự hứng thú riêng
để phát triển một năng lực nào đó của cơ thể. Trẻ sẽ chọn lựa tốt hơn nếu trong
một môi trường ngăn nắp -> mọi thứ phải sắp xếp theo thứ tự và có số lượng
chừng mực, những thứ rối rắm và thừa thãi phải được bỏ đi.

15Vậy cứ cho trẻ vận động là được?
Các vận động phải thực hiện để phục vụ một mục đích nào đó, nếu khơng
sẽ là một sự lãng phí và vơ nghĩa. Vì thế cần hướng trẻ đến những vận động có
ích. -S1-181->192. Những hoạt động như giả vờ nấu ăn với đồ chơi bằng nhựa,
chăm sóc búp bê, v...v... là những hoạt động vơ nghĩa lãng phí đối với trẻ, và
cũng sẽ đến lúc chúng thấy chán, vì thứ hấp dẫn chúng thực sự là những hoạt
động mà chúng thấy người lớn làm.

16Vậy phát triển vận động cho trẻ như thế nào?
Rèn luyện thần kinh vận động của trẻ nhất thiết phải phù hợp với vận động
phối hợp nhịp nhàng mà cơ thể sinh lý của trẻ cần, bởi lẽ quá trình bồi dưỡng
thần kinh vận động vơ cùng phức tạp. Nếu khơng có hướng dẫn cụ thể, vận
động của trẻ sẽ vơ cùng rốì loạn.


Để trẻ dũng cảm, bạo dạn tham gia mọi hoạt động, chúng ta chỉ đóng vai
trị hướng dẫn chỉ đạo, như vậy mới có hiệu quả tốt. Đây chính là mục tiêu rèn
luyện cơ bắp trẻ trong giai đoạn này. Để trẻ tự do tự tại phát triển dưới sự chỉ
đạo thích hợp của chúng ta, sau này trẻ sẽ trở thành những người làm việc tích
cực, khoan thai và đầy hưng phấn.
Vận động cơ bản (Như ngồi, đứng, đi, chạy, sử dụng đồ vật nhỏ,...): Ngồi
xuống thế nào, đứng dậy khỏi ghế ra sao, đưa đồ vật cho người khác thế nào
Quan tâm chăm sóc tới bản thân: tự mình mặc quần áo, cởi quần áo, cài
khuy, sử dụng móc treo, buộc dây,...

Làm một số việc nhà: rửa đồ, bày đồ lên bàn, bày từng chiếc đĩa lên bàn,
yêu cầu trẻ thao tác mà không gây bất cứ tiếng động nào.
Lao động ngồi vườn: Trẻ cũng vơ cùng thích thú vối những bài học về lao
động ngoài vườn và thủ công. Bởi lẽ động vật nhỏ và thực vật đều có thể thu hút
sự quan tâm và chú ý của trẻ.
Làm thủ cơng: nặn đất thành các hình thù khác nhau như hình viên ngói,
viên gạch, lọ hoa nhỏ, sau khi hoàn thành, bọn trẻ muốn tráng men các sản
phẩm của mình và cho vào lị nung. Sau khi nung xong, những viên ngói mầu
sáng trắng hoặc nhiều mầu được bọn trẻ xếp chồng lên nhau giống như một bức
tường, những viên gạch nhỏ được bọn trẻ trải xuống nền đất. Chúng cịn đào
móng, sau đó xếp gạch vừa nung thành một đoạn tường vây, hoặc xây tổ cho
chim non.
Hoạt động thể thao: "đi trên đường ray": một đường thẳng trên đất bằng
phấn và phẩm mầu, đôi khi cũng có thể vẽ hai đường đồng trục hình elip, Bật
nhạc trong khi trẻ luyện tập cũng là một cách làm hay. Chúng ta có thể chọn một
bản hành khúc đơn giản, tiết tấu khơng q mạnh, có thể đệm nhạc cho chúng
sẽ càng kích thích tinh thần làm việc độc lập của trẻ. Ngay sau khi bọn trẻ biết
cách giữ thăng bằng, tư thế đi của chúng sẽ tương đối chuẩn và đẹp, cùng lúc
này, chúng không chỉ đi những bước vững chắc, mà dáng vẻ cũng trở nên đẹp
mắt hơn. Luyện tập "đi trên đường ray" cũng có thể vận dụng nhiều biện pháp,


khiến bài học này trở nên phong phú và đa dạng. Trước hết, đánh một bản hành
khúc bằng đàn piano giúp trẻ nắm vững tiết tấu động tác. Đánh đi đánh lại bản
nhạc này trong vài ngày, cuối cùng trẻ sẽ nắm vững nhịp phách, kết hợp tay
chân để thích ứng với tiết tấu âm nhạc. Ngồi ra, cịn có thể kết hợp các ca khúc
với bài tập "đi trên đường ray". Bọn trẻ vừa hát, vừa thao tác các giáo cụ trong
cuộc sống thường ngày. đu xà
Rèn luyện có quy luật.
Trẻ có thể dễ dàng làm được những việc này, khi làm chúng tỏ rõ sự hưng

phấn và thận trọng khiến người khác phải kinh ngạc. Những lớp có số lượng
đông, cần để trẻ luân phiên nhau làm việc nhà, như dọn cơm, rửa bát.
Giáo viên chỉ cần vài gợi ý, vài cử chỉ thì có thể mang lại một khởi điểm
cực tốt cho trẻ, tiếp đến, trẻ có thể tự học và dần dần trưởng thành. Sau khi
được cùng nhau học tập, bọn trẻ bắt đầu làm việc với tinh thần hứng khởi.
Khơng khí hoạt bát càng khiến chúng có tình u, hình thành trong chúng
phẩm chất đạo đức giúp đỡ lẫn nhau.

17Tầm quan trọng của sự phát triển ngôn ngữ?
Ngôn ngữ là điểm khác biệt rất lớn giữa lồi người và các lồi động vật
khác. Ngơn ngữ giúp loài người giao tiếp được với nhau, hiểu nhau, từ đó hợp
tác được với nhau. Ngơn ngữ cịn giúp tri thức của loài người được truyền lại và
phát triển từ đời này sang đời khác. Có thể nói, ngơn ngữ là một sức mạnh
không thể thiếu trong cuộc sống của lồi người.
Ngơn ngữ là tập hợp những âm thanh, đại diện cho một ý nghĩa nhất định.
Các nhóm người khác nhau chấp nhận các âm thanh khác nhau -> sự hợp nhất
trong 1 nhóm và khác biệt giữa các nhóm. Từ các âm rất ít, nhưng kết hợp lại
thành được rất nhiều từ, rồi có danh từ, tính từ, .... rồi sắp xếp thành câu, thành
đoạn, có nhấn có cảm thán ... -> Ngơn ngữ địi hỏi một trí thơng minh tuyệt đỉnh
và trí nhớ siêu phàm. Ngược lại, ngôn ngữ cũng trở thành công cụ để não tư
duy.


Ngày nay, áp lực tồn cầu hóa địi hỏi con người phải biết giao thương với
nhau, ngôn ngữ trở thành công cụ không thể thiếu.

18Trẻ học ngôn ngữ như thế nào?
Nghe rồi đến nói
Tai người có cấu tạo đặc biệt: phần trung tâm của tai có dạng một chiếc
đàn hạc, có khả năng rung động với những âm thanh khác nhau tùy thuộc vào

độ dài của 'các dây đàn', có 64 'dây', tất cả đều được chơi một cách tuần tự,
được sắp xếp theo dạng của một chiếc vỏ ốc sên. Một cái trống phía trước cây
đàn hạc, và khi có thứ gì đó chạm vào cái trống ấy, một hoặc nhiều dây đàn hạc
sẽ rung động; thế là cái trống chơi đàn hạc và chúng ta nghe thấy tiếng nhạc của
ngôn từ. Thai nhi 7 tháng tuổi tai đã hồn thiện. Khi trẻ sinh ra, thính giác rất
chậm phát triển và mẫn cảm với ngôn ngữ của người trước tiên, vì thế trẻ bắt
chước tiếng người chứ khơng phải tiếng còi xe hay động vật kêu.
Những âm thanh (tiếng người, âm nhạc) được tiếp nhận sẽ khắc sâu vào
trong tiềm thức, tạo ra một định hướng cho ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ. Trẻ bắt đầu
phát ra các âm tiết, rồi từ ngữ mà chưa hiểu gì. Rồi trẻ định hình âm thanh, đến
âm tiết. Từ ngữ hình thành. Sau đó đến ngữ pháp: danh từ đến đầu tiên, rồi tính
từ, từ nối và trạng từ, động từ nguyên thể, rồi đến chia động từ, biến đổi câu, tiền
tố, hậu tố và tất cả các trường hợp ngoại lệ bất quy tắc. Đến thời kỳ trẻ sẽ nói ra
tất cả mọi thứ mà khơng sai tí nào.
Nhận thức phát triển dần dần
− 4 tháng tuổi hoặc sớm hơn: nhận ra tiếng nói đến từ miệng người -> chăm
chú nhìn miệng.
− 6 tháng tuổi: trẻ tự tạo ra âm thanh của chính mình
− 10 tháng tuổi: phát hiện ra ngơn ngữ có mục đích, bắt đầu hiểu lời nói.
− 1 tuổi: nói các từ có mục đích đầu tiên. Có sự đấu tranh dữ dội, trẻ muốn
nói mà chưa nói được.


− 1-2 tuổi: trẻ thôi thúc muốn nghe và thấy người khác nói chuyện với nhau
để được học.
− 1 tuổi rưỡi: trẻ nhận ra mọi vật đều có tên gọi, trẻ tự lọc ra được danh từ
trong câu, khi nói trẻ chỉ có thể dùng 1 từ để diễn đạt cả 1 ý, vd "mẹ cháo".
Khả năng thấu hiểu gần như hoàn toàn.
− 21-24 tháng: bắt đầu xuất hiện đầy đủ các loại từ, chuẩn bị có sự bùng nổ
câu. Đây là giai đoạn trẻ rất nỗ lực để tìm cách sắp xếp câu, diễn đạt ý của

mình.
− 4 tuổi dạy ngữ pháp, cần được truyền thụ rất nhiều từ, ... rất nhiều tri thức
ở các lĩnh vực khác nhau và các dụng cụ khoa học. -S1-242
− 3-6 tuổi: học bằng tưởng tượng rất nhiều. Tức là có nhiều thứ khơng được
nhìn, nhưng nghe mà vẫn tưởng tượng ra trong đầu. Chính nhờ trí tưởng
tượng mà trẻ tiếp thu khơng giới hạn.
Viết rồi đến đọc
Trẻ tiếp cận chữ cái dưới dạng các bài tập cảm giác (các tấm bìa ráp, giấy
nhám, thẻ chữ, v...v...) ... rồi ghép chữ: trẻ nhận ra chữ Sofia gồm 1 chữ S, 1
chữ o, ... trẻ khám phá từng chữ, ... sau đó, trẻ bắt đầu dùng tay để vẽ các chữ,
v...v... thế là biết viết, ... rồi trẻ nhận ra, chữ có thể thay thế cho lời nói, ... rồi
phát hiện ra trong những mẩu giấy có chữ, có các câu chuyện thật hay, ... thế là
trẻ bắt đầu đọc, ... mọi thứ từng bước được hé mở như một cuộc thám hiểm đầy
thú vị. -S2-214

19Văn hóa
20Trẻ phát triển tính cách như thế nào?
Chúng ta đọc hoặc kể cho đứa trẻ nghe những câu chuyện về những vị
anh hùng, các vị thánh và nghĩ rằng đứa trẻ sẽ noi theo. Không đơn giản như


vậy. Tâm tư của đứa trẻ phải được chuẩn bị trước. Một số người nghĩ rằng:
"Nếu tơi muốn con mình trở thành một nghệ sĩ dương cầm, tôi sẽ (hoặc một giáo
viên) làm một người chơi dương cầm và đứa trẻ sẽ noi theo." Nhưng thực tế
không đơn giản như thế và rất nhiều người trong số chúng ta biết rằng đứa trẻ
phải chuẩn bị đơi tay để có thể có được độ nhạy cần thiết điều khiển cây đàn kia.
Nhân cách khơng thể được giáo dục, nó cần được kiến thiết.
0-6 trẻ không biết tốt và xấu. Giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn quan
trọng nhất của cuộc đời vì nhân cách được hình thành trong giai đoạn này. Mọi
người đã nhận ra rằng ở độ tuổi này trẻ không thể bị những tấm gương hay áp

lực ngoại cảnh tác động; vì thế tự nhiên đã đặt nền móng cho nhân cách. Đứa
trẻ ở độ tuổi này khơng có hiểu biết hay hứng thú gì về cái tổt hay cái xấu; đứa
trẻ sống bên ngoài cách nhìn đạo đức của cuộc đời. -S1-252.
6-12 thiện và ác, đạo đức cá nhân. Ở giai đoạn thứ hai (6 đến 12 tuổi)
trong ý thức của đứa trẻ mới có sự bắt đầu quan tâm đến vấn đề thiện ác, khơng
chỉ với những hành động của chính đứa trẻ, mà với cả những người khác nữa.
Vấn đề thiện ác mới được độ tuổi này ý thức: đạo đức cá nhân bắt đầu hình
thành.
12-18 đạo đức xã hội, tình yêu tổ quốc. Ở độ tuổi này trong trẻ bắt đầu
xuất hiện tình cảm yêu nước, mong muốn thuộc về một tầng lớp và cảm xúc
danh dự của tầng lớp đó.
Sự phát triển tốt ở giai đoạn này là tiền đề cho giai đoạn tiếp theo.

21Những trẻ lệch lạc trong giai đoạn 0-3 tuổi có chữa
được khơng?
0-3 tuổi trẻ có thể gặp phải những cú sốc và có thể được làm bình thường
hóa trong giai đoạn 3-6. Nhưng những cú sốc khi trào đời hay sớm hơn thì
khơng chữa được. -S1-254

22Những tính cách tốt nào của trẻ có thể được xây
dựng trong giai đoạn 0-6 tuổi?


Đó là một đứa trẻ độc lập, yêu lao động, tự lao động, yêu trật tự, tự giữ kỷ
luật, làm việc với sự tập trung cao độ, ý chí mạnh mẽ, sáng tạo, nhạy bén, có
tính xã hội cao, tơn trọng trẻ khác và chỉ giúp đỡ khi trẻ khác gặp khó khăn, chấp
nhận sai lầm, khơng thấy xấu hổ khi được chỉ dạy, ngưỡng mộ, cảm phục người
giỏi hơn mình, bao dung, thơng cảm và giúp đỡ những trẻ nghịch ngợm, kém
hơn mình. Montessori gọi đó là những đứa trẻ được bình thường hóa.


23Trẻ trong giai đoạn 0-3 tuổi gặp những lệch lạc gì?
Khiếm khuyết ở trẻ khỏe mạnh -S1-256. Trẻ thường có những trận giận
hờn, tức tối, những cuộc nổi loạn và những trò tác quái. Một trong những đặc
điểm thường gặp nhất là không vâng lời và hay phá phách, thích sở hữu. Vì thế
chúng có tính ích kỷ và hay ghen tị (tính ghen tị không bộc lộ một cách thụ động
mà biểu hiện muốn có những thứ trẻ khác có). Tính khơng kiên định (rất thường
gặp ở trẻ), sự thiếu tập trung; thiếu khả năng phối hợp vận động của bàn tay nên
chúng hay đánh rơi và làm vỡ đồ; tinh thần cứng đầu và một trí tưởng tượng
phong phú. Chúng cũng thường gào, thét và gây ra những tiếng động lớn; chúng
can thiệp, trêu chọc và hành hạ rất tàn nhẫn với kẻ yếu hoặc với động vật.
Chúng cũng thường rất tham ăn tục uống. Đây chỉ là một số những vấn đề
thường gặp ở trẻ.
Khiếm khuyết ở trẻ yếu -S1-256. Những trẻ này thuộc dạng thụ động và
có những đặc điểm tiêu cực như lười biếng, lười vận động, khóc địi mọi thứ và
muốn người khác làm mọi việc cho mình; chúng muốn được người khác làm
mình vui và rất chóng chán. Chúng sợ mọi thứ và cứ bám lấy người lớn. Chúng
cũng có khuyết điếm là hay nói dối (một dạng thụ động của bản năng tự vệ) và
hay lấy cắp (một dạng thụ động của việc giành lấy đồ dùng của người khác) và
rất nhiều tính xấu nữa.
Khiếm khuyết về thể chất. Việc lười ăn và mất cảm giác ngon miệng; khó
tiêu do ăn quá độ; cả hai vấn đề này đều có nguồn gốc tâm lý. Rồi đến những
cơn ác mộng, sợ bóng tối, ngủ khơng n giấc từ đó ảnh hưởng tới sức khỏe thể


chất và dẫn đến bệnh thiếu máu. Một số dạng thiếu máu và các bệnh về gan
nhất định là do các nguyên nhân tâm lý. Cũng có cả những bệnh về thần kinh
nữa. Tất cả chúng đều có nguyên nhân tâm lý vì chẳng có thuốc nào chữa được
chúng cả.

24Ngun nhân của những lệch lạc của trẻ?

Nhu cầu của đứa trẻ là được giao tiếp với mọi người, được nhìn mọi
người hoạt động và thực hiện những trải nghiệm của chính mình. Do cách đối xử
sai lầm trong giai đoạn sơ kỳ; tâm lý của trẻ đã bị chấn động, tâm trí của chúng
trống rỗng vì chúng chẳng có phương tiện gì để xây dựng nó. Tâm trí bị bỏ đói là
ngun nhân chính dẫn đến những khiếm khuyết.
Một ngun nhân khác là sự thiếu những hoạt động tự phát được chỉ dẫn
bởi ham muốn nội tại của đứa trẻ mà chúng ta đã nghiên cứu trước đây. Hầu
như không có đứa trẻ nào có thể tìm được những điều kiện đầy đủ cho sự phát
triển hoàn thiện. Chúng bị tách biệt khỏi mọi người, lúc nào cũng bị bắt đi ngủ;
những người lớn đã làm mọi việc cho chúng; chúng đã khơng thể hồn thành
được những chu trình hoạt động mà không bị ngắt quãng. Chúng không được
phép quan sát các đồ vật, vì khi chúng muốn chạm vào, người lớn ra sức ngăn
cản; chỉ có thể nhìn mà không được phép sử dụng chúng, khiến trẻ muốn được
sở hữu chúng, vì thế khi trẻ cuối cùng cũng có được một bơng hoa hoặc một con
cơn trùng thì nó thường sẽ xé nát chúng ra vì khơng biết phải làm gì với chúng.
Và đứa trẻ thụ động sẽ hình thành tính ỳ trệ.

25Giai đoạn cực kỳ quan trọng: 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi
Những rào cản trong giai đoạn bùng nổ ngôn ngữ (2-2,5 tuổi) - S1-167
Mọi ấn tượng và kết quả đều được ghi lại mãi mãi. Nếu có sự vật lộn, sợ
hãi hay trở ngại khác thì nó sẽ tồn tại đến hết đời. Những đặc tính tâm lý bị bóp
méo sẽ phát triển trong giai đoạn này và thể hiện ra khi trẻ trưởng thành.
Những khó khăn gây thương tổn cho sự phát triển gọi là sự kìm nén.


Trẻ cần được tự do tuôn trào ngôn ngữ, tự do biểu đạt.
Có những trẻ bị kìm hãm, dẫn đến "câm tâm lý" ... Thỉnh thoảng bệnh này
mất đi như 1 phép mầu, đứa trẻ bất chợt nói sõi, hồn chỉnh, đúng ngữ pháp, ...
do được tự do hoạt động và mơi trường mag tính thúc đẩy.
Có những lệch lạc của người trưởng thành do giai đoạn này: e dè, khơng

đủ can đảm cất tiếng nói, phát âm từ ngữ, khó khăn trong sử dụng câu, nói
chậm, ờ, ừm, à, nói lắp, nói ngọng
2 giai đoạn cần chú ý: Hình thành ngơn ngữ -> thối hóa là nói lắp; Hình
thành câu -> do dự trong việc hình thành suy nghĩ.
Nguyên nhân: hành vi thô bạo của người lớn, sự lạnh lùng và quyết đoán
của người lớn trong việc ngăn chặn những biểu hiện bên ngồi của trẻ, những
nỗi sợ vơ cơ và sự áp đặt ý chí của người lớn (ví dụ dọa ma, dọa bác sĩ, dọa con
gì cắn, v...v...).

26Làm thế nào để trẻ được bình thường hóa?
Cho trẻ tự do. Khi trẻ tìm được sự tự do, những khiếm khuyết biến mất.
Mọi trẻ em, nếu được đặt vào một mơi trường cho phép những hoạt động có kỷ
luật, những hoạt động trí tuệ của bàn tay và trí óc, những bài tập thực hành cuộc
sống, nhiều chi tiết phức tạp với độ chính xác cực cao, sẽ bộc lộ những tính
cách tích cực của nhân loại. Sự thay đổi không đến một cách từ từ, mà đột ngột.
-S1-262. Điều này đúng với mọi trẻ.
Tính chiếm hữu thường đi đơi với phá hoại, nhưng khi trẻ được bình
thường hóa và trang bị kiến thức, thì thay vì đập phá trẻ sẽ muốn được biết,
được yêu và được phục vụ. Bọn trẻ nhổ cây khỏi vườn, giờ trông đợi cây lớn
dần, đếm từng chiếc lá, đo từng góc cạnh. Nó khơng cịn là cái cây của tơi nữa,
mà chỉ là cái cây. Sự thăng hoa và tình yêu này đến từ tri thức, từ sự thâm nhập
của tâm trí. -S1-291. Sự tò mò sẽ được thăng hoa thành động lực học hỏi và
niềm đam mê học tập được hình thành. Chỉ khi lao động và sự tập trung làm nảy
sinh kiến thức thì sau đó tình u mới có thể đạt được sự chuyến hóa. Được biết


được yêu và được phục vụ là thiên khải của con người cao cả. Nó chỉ có thể đến
bằng những trải nghiệm và sự phát triển của chính cá nhân, chứ không phải
bằng những lời giáo điều. -S1-292
Trong một lớp học có nhiều trẻ em thì sẽ chỉ có một giáo cụ với mỗi chủ

đề. Nếu một trẻ muốn sử dụng một đồ vật nào đấy mà trẻ khác đang sử dụng, và
khi trẻ đã được bình thường hóa thì chúng sẽ đợi đến khi trẻ kia dùng xong giáo
cụ. -S1-294 -> tính kiên nhẫn, tơn trọng và giữ gìn đồ vật.
Cho trẻ sự tôn trọng. Chúng ý thức được về nhân phẩn của mình. Chúng
nhạy cảm với mọi sự chế nhạo, chúng có cảm giác bị sỉ nhục, có thể bị tổn
thương, giày vị, áp bức, trẻ có tự ái và chúng biết cách tổ chức công việc của
chúng và biết cách tiếp khách với lòng ưu ái và sự vui vẻ thân thiện. Chúng kính
trọng khách của mình và hãnh diện cho họ thấy cái tốt nhất chúng có thể làm.
Cho trẻ yêu thương. Người lớn là đối tượng đặc biệt trong tình yêu của
trẻ. -S2-175. Những gì người lớn nói và làm với trẻ được khắc ghi trong tư duy
của trẻ cứ như những con chữ được khắc lên đá. Từ tận đáy tâm hồn đứa trẻ
sẵn sàng vâng lời người lớn. Người lớn không thể dạy trẻ biết yêu thương cha
mẹ, thầy cô, mọi người bằng cách hạ thấp trẻ được. Bản thân trẻ đã chứa đựng
suối nguồn yêu thương rồi. ... Trẻ luôn muốn gần gũi, cịn người lớn thì chỉ nhìn
thấy sự ngỗ nghịch và phiền tối trong đó.

27Vậy người lớn có thể làm gì để trẻ bình thường hóa?
Hãy khiến trẻ bận rộn với những việc có ích. Bố trí một mơi trường trật
tự, ngăn nắp.
Cho trẻ tự do chọn lựa hoạt động.
Khơi gợi hứng thú trong trẻ, giao việc hấp dẫn, lôi cuốn trẻ;
Không giúp chúng khi không cần thiết, và không can thiệp vào việc chúng
làm nếu chúng đã bắt đầu bất cứ hoạt động trí tuệ nào để trẻ có không gian và
thời gian để thực hiện hoạt động theo nhịp điệu của riêng mình.
Bảo vệ khơng gian làm việc của trẻ.


Sự dịu dàng, nghiêm khắc hay y học chẳng giúp được gì hết. Gắt gỏng
hay dịu hiền khơng thể giải quyết được vấn đề.


28Làm thế nào để trẻ tập trung làm việc?
Sự tập trung như của trẻ đạt được ở 3-6 tuổi có thể quan sát được ở 1 số
người trưởng thành, nhưng đó phải là những cá nhân xuất chúng -S1-285
Sự chú ý của chúng ta sẽ không bị hấp dẫn bởi những thứ không quan
trọng, mà là bị hấp dẫn bởi những thứ mà chúng ta thấy thích thú. Chỉ những thứ
có thể khơi dậy sức sống bên trong mới có thể khiến chúng ta hứng thú. Trong
lịng chúng ta sẽ tiến hành chọn lựa những thông tin mà thế giới bên ngoài mang
tới. ... Trẻ cảm nhận được sự ra đời của năng lực, nó đã cung cấp hạt mầm
đầu tiên cho sự phát triển trí năng, để bổ sung hứng thú của bản năng. Khi vừa
xảy ra tình trạng này, "cảm nhận" bắt đầu tạo dựng cho trẻ một cơ chế tâm lý
kiểu như chú ý. Như vậy một lần nữa lại xảy ra diễn biến từ đã biết tới chưa biết,
từ đơn giản tới phức tạp, từ dễ tới khó, có điều đặc trưng của nó rõ nét hơn. Nó
là một kiểu hệ thống quan niệm phức tạp được xây dựng trong lòng trẻ, hệ thống
này do hàng loạt các hoạt động tâm lý tạo nên, đại diện cho một quá trình phát
triển tâm lý bên trong.
Muốn thúc đẩy sự biến đổi nói trên, chúng ta cần phải cung cấp tới trẻ số
lượng lớn tài liệu phức tạp, có hệ thống và liên quan mật thiết tới bản năng của
trẻ. Ví dụ, chúng ta có thể cung cấp cho trẻ một số đồ vật, thu hút sự chú ý bản
năng của trẻ đối với màu sắc, hình dạng, âm thanh, xúc giác và khí áp. Thông
qua hoạt động xảy ra liên tục của các vật thể, trẻ sẽ xây dựng cá tính tâm lý của
mình bằng các phương pháp riêng, đồng thời thu được những kiến thức rõ ràng,
có trật tự đối với sự vật.
Sau khi đã hồn thành bước này, những vật thể có hình dạng, kích thước,
màu sắc, độ bóng, trọng lượng, độ cứng bắt mắt sẽ tạo mối liên quan tới tâm lý
của trẻ. Một số thứ bắt đầu hình thành nhận và được trẻ luôn luôn mong đợi, vui
vẻ tiếp nhận.


Quan niệm giáo dục cũ cho rằng, muốn trẻ tập trung chú ý vào những thứ
chưa biết thì cần phải liên kết những thứ đã biết và những thứ chưa biết với

nhau, bởi vì trẻ có thể nảy sinh hứng thú từ những kiến thức mới. Tuy nhiên, từ
thực nghiệm, chúng ta quan sát thấy, quan điểm này chỉ nắm bắt được phần
"nhỏ nhặt không quan trọng" của hiện tượng phức tạp này. Thực tế, kiến thức đã
biết sẽ tạo hứng thú với những sự vật có ý nghĩa cao cả và phức tạp hơn, đồng
thời khiến văn hóa biến chuyển liên tục, hơn nữa bản thân quá trình này chính là
duy trì trật tự trong đầu. Giáo viên sẽ nói đơn giản trong bài giảng của mình: Đây
là cái dài, đây là cái ngắn, cái này màu đỏ, cái này màu vàng,... dùng những chữ
đơn giản và cố định để biểu đạt rõ ràng tuần tự cảm giác, đồng thời tiến hành
phân loại và sắp xếp chúng. Trong đầu trẻ có thể hồn tồn phân biệt rõ ấn
tượng này và ấn tượng khác, mỗi ấn tượng có vị trí rõ ràng của nó, hơn nữa một
ấn tượng có thể được ghi nhớ bằng một chữ. Do vậy, kiến thức mới sẽ không bị
vứt bỏ sang một bên, cũng sẽ khơng bị lẫn lộn với kiến thức cũ, mà nó sẽ tồn tại
ở một nơi thích hợp, tập trung cùng với những kiến thức ban đầu, (cũng giống
như sách được sắp xếp có trật tự trong thư viện). Chính vì vậy, trong sâu thẳm
cõi lịng, 1 con người khơng chỉ có động lực yêu cầu tăng cường tri thức, mà cịn
hình thành trật tự. Kiểu trật tự này lại được duy trì thơng qua việc liên tục tiếp thu
thơng tin mới. Do vậy, tính phối hợp nhịp nhàng bên trong giống như năng lực
thích ứng về sinh lý, bản thân nó được xây dựng trên nền móng hoạt động tự
phát, sự phát triển tự do của cá tính, sự trưởng thành của cá nhân. Và việc xây
dựng cơ cấu đó đều được quyết định bởi điều kiện bên trong.
Hoạt động nội tâm của một người phát triển càng bình thường thì anh ta
càng có thể trở thành một người có cá tính, có thể bồi dưỡng ý chí kiên cường
và tâm trí kiện tồn. Một người sẽ gặp gian khổ trên đường đời, khơng cần thiết
phải có sự chuẩn bị ngay từ ngày chào đời, song anh ta nhất định phải là người
có tâm lý kiên cường. Sức mạnh to lớn mà cơ thể anh ta có đã được tích lũy dần
dần trước đó. Khơng có ai là anh hùng trước khi tạo ra nghiệp tích, q trình
gian khổ của cuộc sống sau này là điều khơng thể dự đốn trước, cũng sẽ không


có ai nghĩ giúp chúng ta biện pháp để ứng phó lại nó, chỉ có một tâm hồn tích

cực, lành mạnh mới có thể ứng phó với bất kì chuyện gì.
Khi trẻ đã sở hữu được sự tập trung thì chúng bắt đầu sở hữu và kiểm
sốt được mơi trường. Sau khi đạt được sự tập trung này thì mọi trở ngại đều
biến mất và nhân cách được thành lập -S1-287
Khi chúng tơi bố trí cho trẻ một mơi trường có lợi cho sự phát triển tâm lý,
chúng tơi hi vọng thấy trẻ nhanh chóng có thể tập trung sự chú ý vào một vật nào
đó, và sử dụng nó dựa theo cách mà chúng tôi tạo ra, hơn nữa, hành vi này
được lặp đi lặp lại nhiều lần. -S9-131
Khi trẻ làm liên tục 30 hoặc 40 lần thì đột nhiên phát hiện thấy mắc một lỗi
hoặc phát hiện ra vấn đề nào đó, thế là nó bắt tay vào giải quyết vấn đề. Sau đó,
nó càng ngày càng thấy hứng thú với trị chơi này, đồng thời tìm cách làm lại.
Thực tế, điều này thúc đẩy trẻ tiến hành hoạt động tâm lý có lợi cho sự phát triển
bên trong. -S9-131. Tức là sai lầm là thứ khiến trẻ bị lơi cuốn. Có lẽ, chính do
vai trị ý thức bên trong kiểu này, đã khiến trẻ cảm thấy rất vui khi được sử dụng
đồ vật này, hơn nữa còn liên tục sử dụng đi sử dụng lại chúng. Chính đồ vật đã
thu hút sự tập trung chú ý của trẻ.

29Làm thế nào để phát triển ý chí của trẻ?
Ý chí là gì? Ý chí trong lãnh địa tự nhiên của nó là một lực thúc đẩy chúng
ta tiến hành những hành động được cho là sẽ có lợi cho cuộc sống của chúng
ta. -S1-336->. Q trình ý chí thúc đẩy những hành động của cá nhân dẫn đến
sự phát triển có ý thức. Bọn trẻ của chúng tơi tự do chọn cơng việc cho mình và
lặp đi lặp lại những bài tập tự chọn này để phát triển ý thức về những hành động
của chúng. Thứ lúc đầu là một sự thôi thúc nội tại thúc đẩy đứa trẻ hành động
giờ trở thành một nỗ lực của ý chí. Đầu tiên, đứa trẻ hành động một cách bản
năng, giờ đứa trẻ hành động một cách có ý thức và tự giác: đây là sự thức tỉnh
của tinh thần. ... Đứa trẻ cảm nhận được sự khác biệt giữa việc làm những gì ta


thích và thích những gì ta làm. -S1-336->. Ý chí có ý thức là một sức mạnh được

phát triển qua trải nghiệm thực tế. -S1-336->.
Khi trẻ đang chọn thứ mà mình u thích trong rất nhiều thứ; Khi trẻ đang
lấy một món ăn nào đó từ trong tủ bếp, sau đó lại để nó về vị trí cũ hoặc đưa cho
người bạn của mình; Khi trẻ đau khổ khi phải ngồi bên nhìn người bạn chơi đồ
chơi mà mình yêu thích; Khi trẻ vừa tập trung tinh thần làm bài tập, vừa chữa lỗi
sai trong giáo trình; Khi trẻ ngồi im tại chỗ, chỉ đứng dậy khi nghe thấy tên mình,
hơn nữa nhẹ nhàng cẩn thận vì sợ chạm phải bàn ghế sẽ phát ra tiếng kêu.
Những hành động này thể hiện rõ ý chí của trẻ. Trong các nhân tố ảnh hưởng tói
việc phát huy tài năng ở trẻ, nhấn tố ln ln phát huy tác dụng chính là ý chí. S9-118.
Biểu hiện bên ngồi của tồn bộ ý chí đều thể hiện trong hành động, dù
con người chọn hành động gì, như đi bộ, làm việc, nói chuyện, viết lách hoặc mở
to mắt để nhìn, nhắm hai mắt lại để suy nghĩ... đều được không chế bằng một
động cơ nào đó. Nhìn từ góc độ khác, ý chí cũng có thể khống chế một số hành
vi nào đó, như nó có thể ức chế sự xúc động của chúng ta sau một cuộc phẫn
nộ, ngăn cản chúng ta cướp đồ vật trong tay người khác chỉ vì dục vọng cá
nhân, tất cả đều là hành động tự nguyện. Bởi vậy, ý chí sẽ khơng dẫn tới hành vi
bồng bột, nó cịn có thể dẫn dắt hành vi.
Mọi hành động đều là kết quả của sự cân bằng giữa hai sức mạnh xốc nổi
và ức chế. Dưới tác dụng của hai kiểu sức mạnh này, hành vi liên tục lặp lại thì
sẽ hình thành thói quen. Khi hành động đã trở thành thói quen thì nó khơng cần
đến ý chí nữa.
Ở trẻ, hai sức mạnh trái ngược nhau hồn tồn về ý chí vẫn chưa dung
hịa làm một, vẫn chưa tạo cho trẻ một cá tính mới. Và chúng ta khơng nên tác
động gì vào điều này. Cái chúng ta cần làm là sớm khơi dậy hành vi tích cực
của trẻ. Chúng ta khơng mong trẻ sớm có suy nghĩ của người trưởng thành, mà
là thúc đẩy trẻ rèn luyện ý chí của mình, xây dựng sớm hơn nữa mối quan hệ


×