Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn Phương pháp dạy học lồng ghép Giáo dục giới tính lứa tuổi vị thành niên trong môn sinh học 8,9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 24 trang )

I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay việc giảng dạy giáo dục giới tính cho học sinh chưa được thực
hiện rộng rãi và phổ biến ở các trường THCS mà chỉ được thực hiện trên cơ sở
lồng ghép vào một số môn học như giáo dục công dân, sinh học…
Ở lứa tuổi này, cơ quan sinh sản của các em đã phát triển, bản năng sinh
dục xuất hiện một cách vô ý thức, song song đó thì bộ não của các em cũng đã
phát triển khá hoàn thiện, các em sẽ thích tìm tòi , học hỏi những gì liên quan tới
sự thay đổi của cơ thể mình. Nhưng kiến thức thì vô hạn, thông tin thì đa dạng,
hàng ngày các em phải tiếp xúc với nhiều môi trường, làm nhiều công việc khác
nhau, trong đó sẽ có cả điều tốt xen lẫn với điều xấu, điều cần có ở các em là
những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn để các em bước vào đời vững vàng,
không đi vào con đường lạc lối để ảnh hưởng tới tương lai, vì thế tôi thấy rằng
việc giáo dục giới tính cho học sinh THCS là rất cần thiết đối với các em.
Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản phải bắt đầu bằng giáo dục gia
đình, vai trò của cha mẹ, truyền thống, đạo đức, luật pháp của quốc gia và sau đó
là kiến thức cơ bản về cơ thể học, sinh lí học, giải phẫu học, các kĩ năng của con
người để bước vào quan hệ tình dục an toàn, có trách nhiệm, hiểu rõ các thông
tin cơ bản cần thiết về tình dục và sinh sản.
Đối với HSDTTS thì đây thật sự là vấn đề khó vì trong phong tục tập
quán và cả lối sống ngày nay vẫn còn thể hiện nhiều mặt hạn chế. Nguyên nhân
chính là do còn tồn tại một số nhận thức chưa đúng đắn hoặc có thể chưa hiểu rõ
về giới tính và sinh sản. Để thực hiện được điều đó thì việc phổ biến các kiến
thức chuyên môn về cơ thể học, sinh lí học, giải phẫu học, tâm lí học và các
quan điểm về đời sống tình dục phải trình bày một cách công khai.
Trong giảng dạy môn sinh học ngoài việc truyền thụ những kiến thức cơ
bản cần phải lồng ghép việc giáo dục kĩ năng sống, GDGT và SKSS cho HS có
ý thức bảo vệ cơ thể khỏe, sống lành mạnh…
Trong năm học vừa qua, để giáo dục HS có ý thức tốt trong việc bảo vệ
sức khỏe tôi đã lồng ghép vấn đề này trong một số bài dạy môn sinh học 8,9 và
tôi nhận thấy đã đạt một số hiệu quả nhất định. Tôi sẽ tiếp tục áp dụng phương


pháp này vào trong năm học và trong những năm tiếp theo với hi vọng góp phần
nâng cao dược ý thức cho HS để bảo vệ cơ thể mình, từ đó có ý thức bảo vệ bản
thân và gia đình thông qua môn học.
Học sinh là những chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta có trách
nhiệm giúp đỡ các thế hệ học sinh có ý thức và góp sức mình vào công cuộc xây
dựng đất nước. Hơn thế nữa HS là đồng bào DTTS quá trình học có thể dùng lại
Phan Thị Ngọc Lan
1
ở bậc THCS để rồi sau đó em ở nhà lập gia đình sớm nên việc giúp các em có
những kiến thức cơ bản cần thiết làm hành trang cho cuộc sống hôn nhân sau
này, thoát khỏi những quan niệm lạc hậu có thể làm suy kiệt nòi giống thì đây
càng là vấn đề cần thiết phải xem trọng.
Giáo dục SKSS – VTN là giáo dục VTN về tình dục và sức khỏe sinh sản
cùng với những khía cạnh khác nhau của vấn đè này( như thể chất, tình cảm,
quan hệ xã hội…). Nó giúp nâng cao kiến thức và sự hiểu biết của VTN về các
mặt khác nhau của quá trình sinh sản ở loài người và những ảnh hưởng của quá
trình này. Hình thức giáo dục này bắt đầu càng sớm càng tốt.
2. MỤC ĐÍCH
Giúp HS tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, từ đó các
em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng thời có những
hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân, biết tự bảo vệ cơ thể
từ đó ý thức bảo vệ sức khỏe cho người thân cũng như gia đình ở hiện tại cũng
như tương lai sau này.
3. NHIỆM VỤ
Trang bị trí thức, hình thành ở HS những kiến thức cơ bản có hệ thống về
đặc điểm hình thái cấu tạo, chức năng các cơ quan cơ thể người.
Phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện các kĩ năng, nhận thức cảm tính,
kĩ năng quan sát, chú ý ghi nhớ nhận thức lí tính, kĩ năng so sánh, phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa, hệ thống hóa. Đây là những
kĩ năng cần thiết cho việc tự học và học tập liên tục sau này.

Giáo dục giới tính và SKSS cho lứa tuổi HS khối 8,9 để phòng được một
số vấn đề nhạy cảm của lứa tuổi này. Giáo dục thế giới quan khoa học, vạch rõ
mối quan hệ giữa các cơ quan trong cơ thể. Giáo dục tình cảm đạo đức cho HS ,
bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ vẻ đẹp là góp phần giáo dục thẩm mỹ.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Phương pháp dạy học lồng ghép GDGT lứa tuổi vị thành niên trong môn
sinh học 8,9
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Học sinh khối 8, 9 trường THCS Đăk Tơ Kan từ tháng 9 năm 2010 đến
hết thang 12 năm 2011.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phan Thị Ngọc Lan
2
Tìm hiểu các khái niệm, thông tin và số liệu về vấn đề GDGT và sinh sản.
Thực hiện soạn và dạy lồng ghép GDGT và sinh sản đối với môn sinh8, 9.
Phát phiếu thăm dò ý kiến trước và sau khi nghiên cứu.
Tham khảo các tài liệu chuyên môn.
Tổng hợp và rút kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG
1 .CƠ SỞ KHOA HỌC
Trong những năm gần đây, tình trạng học sinh- sinh viên nạo phá thai
hay vì tình mà làm những việc không tốt ảnh hưởng tới việc học và tương lai
của mình xảy ra rất là nhiều. Những dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn dậy thì
thường xảy ra ở lứa tuổi vị thành niên. Đó là khoảng thời gian tốt nhất để giáo
dục các em về sự phát triển giới tính. Nói chuyện với các em một cách cởi mở
về những thay đổi tâm sinh lý có thể xảy ra trong suốt thời kỳ quan trọng này.
Nhưng hiện nay không ít phụ huynh do bận kiếm sống, ít có thời gian gần
gũi các em, để các em tự tò mò về tình yêu, tình bạn và quá thơ ngây trước mối
quan hệ khác giới. Để rồi những "dại dột" của lứa tuổi này phần nhiều là những
hậu quả đáng buồn hoặc do bố mẹ không quan tâm hoặc ngại trao đổi, nên khiến

con cái mất "khả năng đề kháng". Khi rơi vào những hoàn cảnh khó nói, trẻ chỉ
biết làm theo bản năng. Cũng chính vì lý do này mà không may có thai, hay lỡ
quan hệ với bạn trai, các cô gái cũng không dám hé răng nói với cha mẹ mà tự
tìm cách "giải quyết".
Cái khó nhất khi nói chuyện hay giáo dục chuyên về giới tính với các em
không phải sợ các em không nhiệt tình tham gia, mà chính là ở các thầy cô giáo,
họ rất e ngại khi nói về vấn đề này. Thuyết phục các thầy cô giáo trong trường
giáo dục về giới tính còn khó hơn các em. Trong khi đó các em lại có rất nhiều
thắc mắc và không phải chuyện gì cũng có thể tâm sự với cha mẹ.
Có nhiều bà mẹ rất lấy làm ngạc nhiên vì con mình yêu, bà bảo, thật
không ngờ mới 14- 15 tuổi đầu, yêu đương chúng cũng đau khổ, nhớ nhung, hò
hẹn như người lớn, khiến tôi bàng hoàng hết cả người. Rồi từ chỗ đó, không ít
người đã "giáo dục" con bằng cách nhốt lại hay đòn roi. Có ông bố gầm lên khi
biết con yêu sớm rồi đánh con nát cả cái roi. Có bà mẹ ép buộc con gái phải dẫn
mình đến nhà người yêu để "chửi cho cả nhà thằng đó một trận" Nhưng rồi
hậu quả để lại chỉ là con cái họ khủng hoảng hơn mà thôi. Hay cũng có trường
hợp việc đã lỡ rồi biết làm sao, thôi cho chúng nghỉ học để là đám cưới để rồi “
Trẻ con làm bố mẹ trẻ con”.
Phan Thị Ngọc Lan
3
Dễ nhận thấy rằng mối quan hệ lỏng lẻo giữa cha mẹ và con cái đôi khi
đưa các em vào mối quan hệ yêu đương sớm. Trong khi nhiều bậc cha mẹ vẫn
tồn tại những suy nghĩ, phong kiến như trao đổi, cung cấp cho trẻ những kiến
thức về giới tính là "vẽ đường cho hươu chạy". Vì thế họ không bao giờ trao đổi
với các em về những vấn đề này.
Có muôn vàn lý do để những đứa trẻ mới lớn đưa ra để "biện minh" cho
những việc làm đã lỡ của mình. Một điều đáng nói là, với trẻ em bây giờ, dậy thì
thường xảy ra sớm, rồi bắt nguồn từ sự tò mò trẻ con, từ thôi thúc của bản năng
khi có tác động ngoại cảnh, phim ảnh và biểu hiện thì muôn hình vạn trạng. Rồi
bị ép chứ không đồng ý, cả hai đều yêu nhau không kiềm chế được, bạn van xin

phải chứng minh tình yêu, gặp chuyện buồn trong gia đình không vượt qua
được Chuyện gán ghép nhau rồi trở thành chuyện yêu như thật trong các em
tuổi vị thành niên là chuyện "thường ngày ở huyện", trong đó không loại trừ các
em đang ngộ nhận tình bạn khác với tình yêu.
Ở lứa tuổi vị thành niên lứa tuổi được xem trẻ con không ra trẻ con người
lớn không ra người lớn thì nhu cầu tìm hiểu về giới tính là rất lớn, thông tin bên
ngoài thì nhiều mà suy nghĩ của các em thì còn chưa chín chắn vì thế các bậc
cha mẹ, các bậc thầy cô giáo cần phải làm gì để giúp các em có những hiểu biết
và suy nghỉ chín chắn hơn, giúp các em tránh xa các sai lầm, nhất là các vấn đề
liên quan tới giới tính, để các em trưởng thành 1 cách toàn diện và tương lai tốt
đẹp hơn đến với các em.
Theo tôi, trong thời đại phát triển như hiện nay, việc đưa nội dung giáo
dục giới tính vào giảng dạy cho học sinh là vấn đề rất cần thiết, nhất là bậc học
THCS và cả THPT.
Không nhất thiết phải đưa “ giáo dục giới tính” thành 1 môn học chính
khóa mà nên lồng ghép nhiều hơn nữa kiến thức giới tính vào 1 số môn như
Giáo dục công dân hay sinh học… hoặc là nội dung, chủ đề chính của nhiều tiết
học hoạt động ngoài giờ…
Việc giảng dạy về nội dung giáo dục giới tính đòi hỏi người giảng dạy
phải nắm rõ thực tiễn và các kiến thức giới tính chính xác, hình ảnh hay ví dụ
minh họa rõ ràng gần gũi với đối tượng cần giảng dạy vì thế việc tổ chức 1 tiết
dạy đòi hỏi sự chuẩn bị trước. Giáo viên có thể dần 1 buổi truyền đạt kiến thức,
thông tin về giới tính rồi sau đó cho các em tạo nhóm, tìm hiểu 1 số tình huống
trong đời sống và tạo dựng các vở kịch trình diễn ở những tiết sau, cho các
nhóm khác đặt các câu hỏi tình huống để nhóm trình diễn trả lời, kết thúc các
tiết mục thì giáo viên sẽ nhận xét và tư vấn những thiếu sót cho các em rút kinh
nghiệm.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Phan Thị Ngọc Lan
4

2.1. Thuận lợi :
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là CNTT.
- Kho tư liệu phục vụ cho việc viết và báo cáo đề tài đa dạng.
- Các em học sinh sắp sữa và đang ở độ tuổi vị thành niên (từ 13 đến 18
tuổi) nên nhận thức và giáo dục về vấn đề giới tính khá dễ dàng hơn.
- Đa số các em có điều kiện tiếp xúc, tìm hiếu những kiến thức về giới
tính khá dễ dàng từ nhiều nguồn khác nhau.
- GV chuyên môn đã có những kiến thức chuyên môn có liên quan tới vấn
đề GDGT và sinh sản
- HS rất muốn tìm hiểu những tò mò về bản thân mà từ lâu không biết hỏi
nên và cần hỏi ai.
2.2 Khó khăn :
- Giáo viên và học sinh còn khá e dè, xấu hổ khi đề cập đến nội dung giới
tính.
- Chương trình giáo dục giới tính chưa được thực hiện phổ biến ở trường
học nhất là bậc học THCS.
- Chương trình học thì càng ngày càng nặng về kiến thức nên đòi hỏi cả
giáo viên và học sinh luôn phải tập trung vào chương trình học ở trường nên
không có nhiều thời giờ dành cho việc tìm hiểu kiến thức về giới tính.
- Đa số HS là người DTTS, gia đình nghèo nên đa số cha mẹ bận kiếm
sống, ít có thời gian gần gũi và quan tâm đến con em mình.
- Nhiều bậc cha mẹ vẫn còn cho rằng “ Đó là chuyện tế nhị mà”, ngày xưa
bố mẹ có nói về chuyện đó đâu, mà có ai nhắc đến thì cũng đỏ ửng mặt lên xấu
hổ rồi, đâu sẽ có đó, đến tuổi thì chúng tự biết hết ấy mà".
-Phần lớn phụ huynh chưa có phương pháp đúng đắn trong việc trao đổi
với con trẻ về vấn đề giới tính, hơn nữa cũng chưa hiểu biết nhiều, hiểu chưa
đúng, chưa sâu về vấn đề.
-Phần lớn cuộc sống đồng bào DTTS vẫn còn chịu ảnh hưởng của những
quan niệm sai lầm , lối sống còn lạc hậu mà nguyên nhân chính đó là nhận thức
sai về vấn đề hôn nhân và gia đình như nạn tảo hôn, kết hôn cùng dòng họ….

3.MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN TỚI VẤN ĐỀ
Tuổi vị thành niên được định nghĩa là giai đoạn chuyển tiếp của sự tăng
trưởng và phát triển từ cuối trẻ em đến bắt đầu tuổi trưởng thành từ 10-19 tuổi.
Tuổi dậy thì là giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển con người từ trẻ
con thành người lớn. Đặc trưng của giai đoạn này là sự phát triển đặc biệt mạnh
mẽ cả về thể chất, tâm lí, tình cảm và khả năng hòa nhập xã hội , cộng đồng.
Phan Thị Ngọc Lan
5
Tuổi dậy thì nói chung có thể chia làm ba giai đoạn ( bắt đầu, trung gian và
cuối), hay tiền dậy thì, dậy thì và sau dậy thì.
Sức khỏe sinh sản : Theo tổ chức Y tế Thế giới, SKSS là trạng thái thoải
mái về thể chất , tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan tới bộ máy
sinh sản chứ khơng phải là khơng có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó.
Như vậy SKSS bao hàm ý nghóa là mọi người đều có thể có một cuộc
sống tình dục được thỏa mãn, có trách nhiệm và an toàn đồng thời họ phải có
khả năng sinh sản và sự tự do lựa chọn việc có sinh con hay không, thời điểm
sinh con và số con. Đònh nghóa này cũng bao hàm cả quyền của phụ nữ và
nam giới phải được thông tin, tư vấn đầy đủ và được tiếp cận với các biện
pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, phù hợp với khả năng và chấp
nhận được theo sự lựa chọn của bản thân họ, và quyền tiếp cận các dòch vụ
chăm sóc sức khỏe phù hợp cho người phụ nữ mang thai cũng như sinh đẻ an
toàn.
-Sức khỏe tình dục: Theo tổ chức Y tế thế giới, SKTD là trạng thái
thoải mái về thể chất, tình cảm, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên
quan tới hoạt động tình dục chứ không phải chỉ là không có bệnh, hoạt động
bất thường hay yếu ớt. SKTD đòi hỏi cách tiếp cận tích cực và tôn trọng đối
với hoạt động tình dục và các mối quan hệ giới tính, cũng như khả năng có
được cuộc sống tình dục an toàn và khoái cảm, không bò cưỡng bức, phân biệt
và bạo lực. Để có và duy trì SKTD, các quyền về tình dục của tất cả mọi
người phải được tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo.

Sự phát triển về thể chất :Trong suốt thời trẻ em, các cơ quan sinh
dục chăûng thay đổi bao nhiêu, song trong giai đoạn vò thành niên, sự tăng
trưởng từ dạy thì đến chín muồi diễn ra theo một trình tự nhất đònh.Tuổi
dậy thì được phát khởi từ vùng dưới đồi, nó kích thích tuyến yên.Tuyến
yên kiểm soát toàn bộ sự tăng trưởng,kích thích sự sản xuất các hoocmon
của buồng trứng,tinh hoàn và tuyến thượng thận.Các tác nhân đặc hiệu
của tuổi dậy thì là hoocmon giới tính Esùtrogen từ buồng trứng và
Andrnogen từ tinh hoàn.Con gái thường đạt tới tuổi chín muồi sớm hơn con
trai 2 năm. Tuổi dậy thì trung bình của trẻ gái là 11-14 tuổi, ở trẻ trai 13-
16 tuổi.Mỗi cá nhân có một thời gian biểu riêng, nam hay nữ cũng vậy
thành thử có những biến thiên lớn về thời gian, song trình tự chín muồi về
giới tính thì như nhau.
Phan Thị Ngọc Lan
6
Sự phát triển kòch tính của các cơ quan sinh dục dẫn đến sự thức tỉnh
và các ham muốn tình dục, nhưng lại có những ràng buộc rất nghiêm ngặt
chi phối các ứng xử tình dục của người vò thành niên.
Mặc dù chín muồi về chức năng sinh lý, người vò thành niên vẫn
được xem là trẻ em về mặt cảm xúc và xã hội . Người vò thành niên tháy
sợ hãi bối rói vì những cảm nghó mới mẻ về giơi tính này mà ngay cả bản
thân,( và cả bậc cha mẹ) , thường cho đó là “điều xấu xa”.Người ở lứa tuổi
này cần có cơ hội bày tỏ các cảm nghó đó và học cách là sao kềm chế và
chuyển hướng các ham muốn tính dục của mình.Đồng thời với sự tăng
trưởng về giới tính,cũng diễn ra giai đoạn”nước rút” của sự tăng trưởng
toàn thân cơ rhể lớn lên từng ngày.Trong thời kỳ dâïy thì, trung bình mỗi
em cao thêm khoảng 9- 20 cm.Trong giai đoạn này, cơ thể không chỉ lớn
lên về mặt chiều cao và cân nặngmà còn cả về các kích thước khác: đầu,
ngực, mông, tay ,chân tất cả các bộ phận cơ thể không lớn lên thoe cùng
một tốùc độ, nên người vò thành niên trông có dáng ngượi ngòu và có phần
không cân đối.

4. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuổi vị thành niên là giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời mỗi
người, bởi vì đây là những năm tháng quyết định đến chiều hướng thay đổi
của một em bé: Em bé đó sẽ trở thành “loại” người nào?
Suốt lứa tuổi vò thành niên có nhiều thay đổi về mặt thể chất, cảm
xúc và xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Những thay đổi này xảy ra đồng thời
hoặc từng đợt nối tiếp nhau trong tất cả ba lónh vực nối trên.những thay đổi
đó liên quan tới nhau ảnh hưởng lẫn nhau.Tuy vậy, để nhận biết và hiểu
biết các thay đổi quan trọng đó, ta xem xét riêng từng phương diện, song
bao giờ cũng cần nhớ rằng trong cuộc sống thực, chúng không hoàn toàn
diễn ra đúng như vậy.
Thế kỷ 20 với vô số các thay đổi của xã hội chúng ta phải đương
đầu với những đòi hỏi của thời đại trong đó tình dục học sẽ là một môn
học phải được dạy ngay từ lớp 5.
Những biến đổi về tâm sinh lý ảnh hưởng mạnh đến lối sống,nếp
sinh hoạt, quan hệ xã hội và sự phát triển nhân cách.Tuy nhiên, đây cũng
là những vấn đề chưa được nhiều bậc phụ huynh quan tâm.Phim ảnh, báo
Phan Thị Ngọc Lan
7
chí,những nếp sống,hoạt động không lành mạnh,ăn chơi,ma túy làm cho
các em dễ bò lôi cuốn,bò sa ngã, bò xâm hại tình dục
Vậy nên tôi chọn đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 8, thông
qua giảng dạy bộ môn sinh hoc lớp 8 để giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ
sức khỏe của mình. Bởi vì đây là lứa tuổi giao thời giữa thiếu niên và thanh
niên , do vậy các em có nhiều chuyển biến về nhận thức. Trong thực tế cho
thấy đa số các em có ý thức tốt , nhưng bên cạnh đó vẫn có những em nhận
thức sự việc còn thiên về cảm tính, bắt chước, chưa có sự chọn lọc nhưng các
em lại không nhận thức được điều đó. Trong những trường hợp như vậy giáo
viên và phụ huynh cần có biện pháp giúp đỡ, chỉ bảo , giáo dục cho các em
để các em nhận thức được sự việc, sự tác hại của những trò, những việc làm,

từ đó các em có ý thức cao hơn trong mọi hành vi, việc làm của mình đối với
cơ thể mình.
Với biện pháp vừa truyền thụ tri thức, vừa giáo dục cho học sinh có ý thức
đối với bản thân, để hình thành nhân cách, ý thức cho học sinh, để các em trở
thành một con người vừa có tri thức vừa có đạo đức. Đạo đức có thể nói là
cái gốc của con người. Bác Hồ từng nói “ Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên” nghóa là con người khi sinh ra ai cũng hiền, ai
cũng thiện cả còn về sau có thể trở thành người tốt hay xấu đều do môi
trường và giáo dục. Chính vì thế khi các em bước chân vào ghế nhà trường
ngoài việc truyền thụ kiến thức các thầy cô giáo cần phải dạy các em những
cái hay, cái đẹp cái tốt trong cuộc sống. Đối với bộ môn sinh học trong trường
trung học cơ sở góp phần cho học sinh có được những kiến thức cơ bản và
cung cấp những hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động
sống của con người. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện
thân thể, bảo vệ và tăng cường sức khỏe.
-Dạy sinh học 8,9 nhằm hình thành ở học sinh những hiểu biết vềà đặc
điểm cấu tạo,các bộ phận và chức năng của cơ thể con người. Nhằm giúp
học sinh trong việc tìm hiểu cơ thể của con người ngừơi qua các bài học, đặc
biệt trên mô hình thưc tế. Từ đó có thể nhận biết các cơ quan , bộ phận trên
cơ thể mình, rèn luyện kỹ năng nghiên cứu bộ môn, giáo dục cho học sinh ý
thức bảo vệ cơ thể,vệ sinh một cách hợp lý, đồng thời góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục trung học cơ sở.
*Các phương pháp GDGT ở trường THCS
Việc lựa chọn và sử dụng phương pháp GDGT có ý nghóa quan trọng
trong việc bảo đảm kết quả của giáo dục.Một trong ngững nhiệm vụ của
GDGT là hình thành ý thức(khái niệm, phán đoans, niềm tin cho học sinh
THCS về những vấn đề có quan hệ đến giới và các quan hệ giữa những
Phan Thị Ngọc Lan
8
người ở các giới khác nhau,về giới tính vai trò của chúng trong cuộc sống xã

hội.
Vì vậy, để hình thành ý thức cho HS ý thức về các vấn đề vừa nêu
trên, cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp diễn giảng, đàm thoại, tranh
luận.Những phương pháp này có tác động đưa lí luận vào ý thức HS và khái
quát những kinh nghiệm, những hành vi, ứng xử của HS.
Tuy nhiên không được biến các phương pháp này thành các phương
pháp thuyết giáo.Các phương pháp này phải làm cho HS biết tự mình phân
tích và tổng kết kinh nghiệm ứng xử đối với người khác giới, đối với những
vấn đề giới tính của bản thân của bạn bè, biết tự nhận thức,tự đánh giá,và
biết bảo vệ những quan điểm, niềm tin và nguyên tắc mình đã tự xây dựng.
5. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Việt Nam, vấn đề giáo dục
giới tính cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Chưa hề có môn giáo
dục giới tính được đưa vào nội dung giảng dạy. Vấn đề này được lồng ghép
vào một số nội dung trong môn sinh học hay một số bài trong môn Giáo dục
công dân, đòa lí. Tuy nhiên, những nội dung đó vẫn còn chung chung, chưa
đáp ứng được nhu cầu hiểu biết và sự cần thiết phải nắm vững các kiến thức
về giới tính của các em học sinh.
Thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính
còn khá dè dặt, các em chưa hề mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp
thu những kiến thức đó. Trong khi có khoảng 96,1% các em học sinh khi được
hỏi đều cho rằng cần được trang bò đầy đủ các kiến thức về tâm - sinh lí và
giao tiếp ứng xử ngay trong giai đoạn THCS. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên
chuyên trách về những vấn đề này hầu như chưa trường nào có. Các hoạt
động giáo dục của nhà trường chỉ dùng lại ở một số buổi nói chuyện với các
chuyên gia về một số vấn đề sức khoẻ giới tính, phòng chống
HIV/AIDS Các giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc dạy
các kiến thức về giới tính cho các em, một số người còn nói rằng: Giáo viên
nói ra những vấn đề đó còn cảm thấy ngượng nữa là các em học sinh.
Hậu quả của sự thiếu hiểu biết về giới tính không phải ai khác mà

chính các em phải chòu. Theo bệnh viện phụ sản Từ Dũ Hà Nội: Số sản phụ
chưa đến tuổi 18 đến khám phá thai ngày càng tăng. Năm 2003 gấp 2 lần
năm 2001, Riêng những tháng đầu năm 2009, trung bình mỗi tháng có hơn 40
ca. Thực tế là tình trạng nạo phá thai khi chưa lập gia đình xảy ra rất phổ
biến, đến mức báo động. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên
cứu Giới, Gia đình và Môi trường phát triển (CGFED), Việt Nam là một
trong những nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới (Đứng thứ 3
Phan Thị Ngọc Lan
9
trên thế giới) với hơn 500.000 ca mỗi năm. Con số thực tế còn có khả
năng cao hơn do báo cáo và ghi chép không đầy đủ khi tình trạng phá
thai không an toàn tại các cơ sở y tế tư nhân rất khó kiểm soát…
Trong đó, 30% ca phá thai là ở lứa tuổi chưa lập gia đình. Đáng
báo động có tới 20% người nạo phá thai ở lứa tuổi vò thành niên. Theo
đó, những bà mẹ sinh con trước 18 tuổi là khoảng 5% và khoảng 15%
sinh con trước tuổi 20.
Chưa kể có khoảng 65% các ca nhiễm HIV là ở những người dưới
29 tuổi và một phần không nhỏ rơi vào những đối tượng chưa lập gia
đình,
Cũng theo báo cáo, đây chỉ là số nổi, thực tế còn nhiều hơn vì các em
không khai đúng tuổi hay không dám đến bệnh viện để xử lí. Hậu quả của sự
thiếu hiểu biết về kiến thức giới tính làm các em dễ mang thai ngoài ý muốn,
dễ mắc một số bệnh như: Lậu, Giang mai, sùi mào gà, AIDS.
Xã• hội hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nên hay
không nên đưa chương trình giáo dục sức khoẻ giới tính vào chương trình
giáo dục THCS. Có ý kiến cho rằng: không nên vẽ đường cho hươu chạy,
ý khác lại cho rằng: Thà vẽ đường cho hươu chạy còn hơn để con em
chúng ta lao xuống vực. Vấn đề lớn được đặt ra ở đây là làm thế nào để
lấp lỗ hổng trong công tác giáo dục giới tính cho các em đang ở giai đoạn
vò thành niên.

Theo ý kiến của cá nhân tôi, việc cần thiết phải trang bò cho các em
các kiến thức về vấn đề giới tính là không cần phải bàn cải. Với vai trò là
một giáo viên dạy môn sinh học THCS, tôi thấy có một số nội dung trong
chương trình SGK có đề cập đến một số vấn đề về dạng kiến thức GDGT.
Nếu GV biết cách triển khai tốt, khai thác bổ sung thêm một số vấn đề thì
sẽ trở thành một bài dạy về giáo dục giới tính rất tốt cho các em.
Trước đây, chúng ta áp dụng phương pháp dạy học vấn đề, trong đó lấy
giáo viên là trung tâm truyền đạt lại kiến thức cho Học sinh, do đó Học sinh
học tập một cách thụ động, thiếu sáng tạo dẫn đến hiệu quả giảng dạy không
cao. Hiện nay, công tác đổi mới phương pháp dạy học đang vận dung phương
pháp dạy học khám phá, lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên giữ vai trò tổ
chức, giám sát, đònh hướng các hoạt động của học sinh nhằm giúp các em tìm
hiểu và lónh hội các kiến thức mới.
Phan Thị Ngọc Lan
10
Mục đích chung của môn Cơ thể người và vệ sinh ở THCS là cung cấp
những hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động sống của
con người. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể,
bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao năng suất, hiệu quả trong học
tập,góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo những con người lao động linh hoạt,
năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Những hiểu biết về cơ thể người giúp học sinh hiểu rõ cơ sở khoa học
của các biện pháp vệ sinh, phòng bệnh, cách sử lý các tình huống gặp phải
trong đời sống và sức khỏe của con người,trong đó có sức khỏe sinh sản.
Qua các phương pháp dạy mà hình thành cho học sinh phương pháp học
tậpï bộ môn nói riêng và phương pháp học tập tích cực và tự lực nói chung,tạo
cho các em có cách nhìn một cách có hệ thống về sự tiến bộ khoa học và
công nghệ của xã hội mới đối với người lao động.
6.LỒNG GHÉP GDGT VÀO MỘT SỐ BÀI DẠY MƠN SINH 8,9
SINH 8-Bài 58: TUYẾN SINH DỤC

Hoạt động 1: Tìm hiểu về chức năng của hoocmon sinh dục nam đôi với
tuổi dậy thì ở các em trai
Có 2 hoạt động nhỏ:
+ Tìm hiểu về vai trò của tinh hoan ở phần này Gv hướng dãn cho học
sinh quan sát hình vễ, sơ đồ trao đổi nhóm để hoàn thành phần điền từ.(GV
dùng tranh màu phóng to giới thiệu cho HS vò trí của các tế bào kẽ, chức
năng của tế bào kẽ, sau khi hoạt động GV cho đại diện HS nhóm báo cáo
phần điền từ đồng thời chỉ trên tranh vẽ vò trí của các tế bào kẽ, sự điều hòa
hoạt động của các tuyến nội tiết là cơ sở để các em học bài 59 dễ hơn)
Kết luận: Vai trò nội tiết của tinh hoàn là tiết hoocmôn phụ sinh dục
nam: TESTÔSTÊRÔN: Tìm hiểu vai trò của hôc môn do tế bào kẽ tiết ra để
thực hiện tốt phàn này GV cho các em HS nam chuâûn bò trước ở nhà phiếu
học tập ( bảng 58.1) GV thu lại đề phát hiện một số em phát triểûn không bình
thường để kòp thời có lời khuyên thích hợp cho các em

Hoạt động 2: cách tiến hành như hoạt động 1 song Gv đặc biệt chú ý
giới thiệu kỹ hình 58.3 ( buồng trứng,ống dẫn trứng,phễu dẫn trứng,trứng và
các nang trứng gốc, sự phát triển của trứng, trứng chín và rụng trứng sự hình
thành thể vàng, vai trò của thể vàng) đây là cơ sở để các em học tốt bài 62.
Đặc biệt GV cần lưu ý các em gái trong việc vệ sinh cơ quan sinh dục.
-Vai trò nội tiếât của buồng trứng là tiết hoocmôn phụ sinh dục
nữ:ƠSTRÔNGEN
Phan Thị Ngọc Lan
11
Sau hai hoạt động Gv cần lưu ý cho HS: trong các dấu hiệu biến đổi của
cơ thể ở tuổi dậy thì , thì dấu hiệu quan trọng nhất là xuất tinh lần đầu ở các
em nam và sự hành kinh lần đầu ở nữ.Đây là dấu hiệu có khả năng sinh sản,
song các em chưa thể sinh sản được, Vì sao? Gv giải thích rõ cho các em vì
sao ở tuổi các em chưa sinh sản được.Đồng thời qua đó giáo dục các em cần
có lối sống trong sáng lành mạnh, trong quan hệ bạn bè, trong phim ảnh, vui

chơi
Gv: giải thích một số thắc mắc của HS cũng như một sôù hiện tượng thực
tế:Pêđê là do rối loạn hoạt động nội tiết ( các tê bào kẽ không tiết hoocmon
Testostêrôn hoặc tiết qua ít đối với các em nam, hoặc nang trứng không tiết
ra hoocmôn Ơstrrôgen hoặc quá ít với các em nữ) các đặc tính sinh dục phụ
có thể thay đổi do hoocmon phụ sinh dục song cơ quan sinh dục là yếu tố
quyết đònh giới tính không thể thay đổi.
SINH 8- bài 62: THỤ TINH, THỤ THAI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THAI
Hoạt động : Tìm hiểu những điều kiện cho sự thụ tinh và thụ thai
Gv dung tranh màu phóng to giới thiệu rõ đường đi của tinh trùng nơi tinh
trùng gặp trứng sau khi thụ tinh hợp tử di chuyển về làm toỏ ở tử cung, thời
gian hợp tử di chuyển từ nơi thụ tinh về tử cung, bám vào tử cung, và được là
tổở tử cung đã được chuẩn bò sẵn( dày và xốp và xung huyết nhờ hoocmôn
của thể vàng được duy trì trong suốt thời gian phụ nữ mang thai.
HS đọc thông tin, lónh hội kiến thức trao đổi nhóm xác điònh điều kiện
cần cho sự thụ tinh và thụ thai:
+Điều kiện cần cho sự thụ tinh: Trứng được gặp tinh trùng và tinh trùng
được lọt vào trứng để tạo thành hợp tử.
+ Điều kiện cần cho sự thụ thai xảy ra khi trứng đã thụ tinh bám được và
làm tổ trong lớp niêm mạc tử cung
(GV cần khắc sâu và ghi nhớ hai điều kiện này , vì đây là cơ sở cho việc
thực hiện kế hoạch hóa gia đình,sẽ học bài 63)
Hoạt động: Tìm hiểu sự nuôi dưỡng thai khi mang thai
-Để thực hiện tốt hoạt động này giáo viên cho HS điều tra trước thực tế:
Sức khỏe bà mẹ mang thai, chế độï dinh dưỡng của người mang thai, sức khỏe
của trẻ sơ sinh: Người phụ nữ có sức khỏe tốt chế độ dinh dưỡng đầy đủ,
không bò đau oóm trong thòi gian mang thai, không sử dụng các chất gây
nghiện thì đứa trẻ sinh ra có sức khỏe tốt, cân nặng đảm bảo, không thiếu
cân và chiều cao, trí tuệ phát triển tốt )
GV cho HS đọc thông tin SGK dùng tranh giới thiệu sự thai sinh ở người,

sau đó cho HS đọc báo cáo kết quả điều tra thực tế:
+Sức khỏe của thai tùy thuộc vào sức khỏe của mẹ. Do đó, trong thời
gian mang thai( cũng như thời kỳ cho con bú người mẹ cần bồi dưỡng đủ
Phan Thị Ngọc Lan
12
chất, đủ lượng để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho thai nhi phát triển tốt ( không
bò suy dinh dưỡng) không dùng các chất gây nghiện như rượu bia, thuốc lá
có ảnh hưởng trực tiêùp đến sự phát triển của thai
Hoạt động : Tìm hiểu và giải thích hiện tượng kinh nguyệt
-GV: cho HS đọc thông tin nội dung SGK sau đó dùng tranh màu phóng to
Hình 62.3 giới thiệu và giải thích rõ hiện tượng và chu kỳ kinh nguyệt
+Trứng chín và rụng là hoạt động tiết hoocmôn của tuyến yên
+Thời gian từ khi trứng bắt đầu phát triển đến khi chín và rụng là 14 ngày
+Khi trứng rụng ngang trứng hình thành thể vàng,thể vàng
+Ơstrôgen do lớp trong của ngang trứng tiết ra tăng dần và cao nhất ở
ngày thứ 14,Prôgenstêrôn do thể vàng tiết ra từ ngày thứ 14 tăng dần và tăng
cao nhất ở ngày thứ 23- 24, đồng thời niêm mạc tử cung xung huyết càng
mạnh và mạnh nhất vào khoảng ngày thứ 22-25.
+Trứng rụng sau ngày thứ 14 kể khi trứng bắt đầu phát triển, niêm mạc tử
cung còn ít xung huyết,từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 28 niêm mạc tử cung
xung huyết mạnh. Nếu trứng không được thụ tinh thể vàng teo dần, niêm
mạc tử cung bò bong, kèm theo sự chảy máu đó là sự hành kinh(Dấu hiệu
trứng không được thụ tinh)
+Thể vàng còn có vai trò kìm hãm sự tiết hoocmon gây chín trứng của
tuyến yên, nên sau ngày thứ 28( hành kinh) thể vàng không còn thì tuyên yên
lại hoạt động tiết hoocmon gây chín trứng do vậy sự hành kinh lặp thành chu
kỳ.
+Nếu trứng được thụ tinh và làm toor thì hình thành nhau thai tiết
hoocmon duy trì thể vàng, do đó trong thời gian người phụ nữ mang thai niêm
mạc tử cung không bò bong tức là trong gian đó họ không có hành kinh.

Phan Thị Ngọc Lan
13
-GV cho HS trao đổi nhóm hoàn thành lệnh SGK
GV Vận dụng kiêùn thức về kinh nguyệt và chu kỳ kinh nguyệt để giáo
dục thực hiện kế hoạch hóa gia đình
H:Chu kỳ kinh nguyệt kéo dài bao nhiêu ngày? Trong thời gian nào trứng
gặp tinh trùng dễ tạo thành hợp tử? (giao hợp không an toàn)Trong thời gian
nào trứng gặp tinh trùng khó và không tạo thành hợp tử?(giao hợp an toàn)
GV: Giáo dục em gái trong việc giữ vệ sinh kinh nguyệt.


MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRÁNH THAI CƠ BẢN
*Nhóm 1:
- Các hiện tượng đánh dấu tuổi dậy thì ở Nam: Có khả năng xuất tinh,
mộng tinh. ở nữ: Xuất hiện kinh nguyệt.
- Kinh nguyệt là hiện tượng chỉ xuất hiện ở nữ giới, theo chu kì. Khi trứng
rụng một thời gian không được kết hợp với tinh trùng sẽ được thải ra ngoài
cùng với lớp niêm mạc của dạ con bò bong ra qua đường sinh dục. Kinh
nguyệt thải ra ngoài gồm máu, chất nhầy, lớp niêm mạc tử cung, trứng…
- Chu kì kinh nguyệt của nữ giới:
Kinh nguyệt xảy ra theo chu kỳ 28 ngày. Trong đó:
+ Kinh nguyệt diễn ra trong 3 ngày đầu gọi là ngày hành kinh (1, 2, 3).
+ Từ ngày 3-13: ngày an toàn.
+ Ngày 14-15: Ngày trứng rụng.
+ Ngày 15-28: Ngày an toàn.
Tranh : Sơ đồ chu kì kinh nguyệt của nữ giới.
- Cơ chế tác dụng của phương pháp tính ngày rụng trứng: Yêu cầu trình
bày như phần nội dung (Học sinh dùng tranh : Sơ đồ chu kì kinh nguyệt của
nữ giới để giải thích).
*Nhóm 2: .

Phan Thị Ngọc Lan
14

Tranh: Bao cao su dành cho nam giới va phụ nữ
Tranh: Cách sử dụng BCS dành cho nam giới.
+ Cách sử dụng BCS dành cho nữ giới:
Phan Thị Ngọc Lan
15
Tranh: Cách sử dụng BCS dành cho nữ giới.
*Nhóm 3:
- Cơ chế tác dụng của thuốc tránh thai: Trình bày như phần nội dung.
- Một số loại thuốc tránh thai: Postino (ngừa thai khẩn cấp),olag, Ky,
Exluton.
Postin Olag Ky, Exluton
*Nhóm 4.
- Cơ chế tác dụng của phương pháp dụng cụ tử cung: Phần nội dung,
HS dùng tranh minh hoạ để trình bày.
Phan Thị Ngọc Lan
16
- Cơ chế tác dụng của phương pháp triệt sản nữ: Học sinh sử dụng hình
vẽ để giải thích (như phần nội dung).
Hình: Vòng tránh thai Hình: Thắt ống dẫn trứng ở phụ nữ.
Giải thích cơ chế phương pháp triệt sản nam: Học sinh dùng hình vẽ để
giải thích (như phần nội dung).
- Hình:Triệt s ản nam.

Phan Thị Ngọc Lan
17
SINH 9- bài 12 : CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH GIỚI TÍNH
*Hoạt động 2: Cơ chế NST xác định giới tính

GV : Yêu cầu HS trình bày cơ chế sinh con trai và con gái?
HS: Đọc thông tin kết hợp quan sát hình 12.2 trả lời.
GV: Quan niệm cho rằng nếu sinh con gái là do người vợ không biết đẻ,
cần phải lấy vợ khác là đúng hay sai? Vì sao?
HS: Trả lời.
GV: Giải thich cặn kẽ. Cho HS biết rằng nên chung thủy 1 vợ 1 chồng.
Việc sinh con trai hay gái không phải do người vợ quyết định.
SINH 9- bài 34: THOÁI HÓA DO TỰ THỤ PHẤN VÀ DO GIAO PHỐI
GẦN.
Ở nội dung Thoái hóa do giao phối gần ở ĐV, GV nên mở rộng cho HS
biết: Ở người cũng như ĐV nếu giao phối gần tức là những người có quan hệ
cận huyết không nên lấy nhau bởi vì có thể gây thoái hóa giống ở các thệ sau
như:khả năng sinh sản giảm, tỉ lệ quái thai cao, thai nhi kém sức sống, dị tật bẩm
sinh…Tập tục hôn nhân trong cùng dòng họ ở người DTTS là sai lầm cần xóa
bỏ…
SINH 9- Phần củng cố bài 30: DI TRUYỀN HỌC VỚI CON NGƯỜI.
*GV Đưa ra 1 số câu hỏi tham vấn cho HS Thảo luận nhóm :
- Đặc điểm của tình bạn là gì?
- Đặc điểm của tình yêu?
- Trong lứa tuổi vị thành niên có tồn tại tình bạn khác giới không?
- Có nên yêu sớm hay không? Hậu quả gì?
*Sau khi cho HS tranh luận thì GV góp ý và bổ sung 1 số kiến thức sau:
-Đặ c đ i ểm Tình bạn:
+ Chân thành và tin cậy
+ Bình đẳng và tôn trọng nhau.
+ Hiểu và có sự đồng cảm với nhau.
+ Hỗ trợ và nâng đỡ nhau, sữa lỗi cho nhau.
+ Cùng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, hay những băn khoăn, lo lắng và
khó khăn.
-Đặ c đ i ểm Tình yêu:

+ Cuốn hút nhau
+ Đồng cảm sâu sắc giữa 2 người.
Phan Thị Ngọc Lan
18
+ Quan tâm chăm sóc nhau.
+ Chân thành, tin cậy, nâng đỡ, hỗ trợ nhau.
+ Tính duy nhất
-Đặc điểm tình bạn khác giới:
+ Chỗ dựa tinh thần
+ Chia sẻ tình cảm
+ Bình đẳng
+ Dễ ngộ nhận.
+ Có khoảng cách nhất định.
+ Góp ý sửa lỗi
+ Hiểu tâm lý bạn khác giới
+ Có thể dẫn đến tình yêu.
+ Nữ thích được che chở
*Là Học sinh thì Nên/cần làm:
- Tôn trọng nhau
- Lịch sự, tế nhị
- Tôn trọng các mối quan hệ bạn bè khác giới của nhau
*Là Học sinh thì Không nên/ tránh
- Ngộ nhận tình yêu.
- Gán ghép lẫn nhau
- Lợi dụng nhau.
- Cử chỉ quá thân mật…
*Những ảnh hưởng khi yêu sớm
- Học hành giảm sút.
- Tốn kém tiền bạc, mất thời gian.
- Hao tổn sức lực.

- Gây mất đoàn kết trong nhóm bạn.
- Gia đình la mắng.
- Mất tự nhiên.
- Hậu quả: Không an toàn: có thai ngoài ý muốn, chấn thương tâm lý, lây
nhiễm bệnh, mất danh dự, ảnh hưởng tương lai…

7. KẾT QUẢ

7.1. TRƯỚC KHI NGHIÊN CỨU
Phát phiếu thăm dò ở 3 lớp 9 vào đầu học kì II năm học 2010
1.Bạn hiểu thế nào về giới tính?
60% HS không thể nêu khái niệm.
40% HS chỉ nêu là phân biệt nam và nữ
2. Bạn có thoải mái khi nói chuyện giới tính với người khác không?
Đa số đều cảm thấy ngại và xấu hổ, không muốn hỏi người khác đặc biệt là
người khác giới.
3. Khi có vấn đề về giới tính bạn sẽ trao đổi với ai hay tự tìm hiểu?
Phan Thị Ngọc Lan
19
65% chọn trao đổi với bạn bè
20% trao đổi với anh hay chị.
15% tự tìm hiểu.
4. Có nên đưa GDGT vào nhà trường không?Nếu có thì bàng cách
nào?
90% cho rằng nên đưa vào nhà trường để các em được tìm hiểu những thắc
mặc về cơ thể mà bấy lâu không biết hỏi ai, tìm hiểu ở đâu.
5. Bạn biết gì về quan hệ khác giới?
87% không trả lời câu hỏi.
Một số cho rằng chỉ có thể là yêu nhau.
Không có HS nào nêu được các mối quan hệ khác giới và hiểu biết về quan

hệ khác giới.
6. Có nên kết hôn sớm không? Tại sao?
Hầu hết đều trả lời “không” nhưng không giải thích vì sao.
7. Trường hợp hôn nhân như thế nào là không nên?
45% trả lời không nên kết hôn trước 18 tuổi.
55% cho rằng kết hôn sớm sẽ sinh con sơm, cha mẹ la rầy hay ngăn cấm.
8. Ý kiến kiến nghị?
Nên có buổi ngoại khóa, giờ học riêng…
7.2. SAU KHI NGHIÊN CỨU
Phát phiếu thăm dò ở 3 lớp 9 vào đầu học kì II năm học 2011
Có một số câu hỏi đã nhận được câu trả lời mang tính khả quan hơn. Cụ thể
như sau:
1.Bạn hiểu thế nào về giới tính?
- Giới tính là một khái niệm để phân biệt nam và nữ.
- Giới tính là biểu hiện tự nhiên, tất yếu trong đòi sống biểu hiện ở các hoạt
động hàng ngày, là sự khác biệt về tâm sinh lí của nam và nữ.
- Giới tính xác định sự khác nhau về mặt sinh học giữa nam và nữ, sinh ra
đã có và không thể thay đổi được.
3. Khi có vấn đề về giới tính bạn sẽ trao đổi với ai hay tự tìm hiểu?
Các em cho rằng sẽ tốt nhất nếu có người lớn giúp đỡ ví dụ như thầy hay
cô giáo chủ nhiệm, hay GV bộ môn có liên quan tới vấn đề. Quan trọng hơn hết
là nhận được sự quan tâm giúp đỡ của người lớn thì sẽ yên tâm hơn.
4. Có nên đưa GDGT vào nhà trường không?Nếu có thì bằng cách
nào?
Việc đưa nội dung “ Giáo dục giới tính” vào trường học THCS là vấn đề
rất cần thiết và cấp bách còn lại số ít học sinh thì có em trả lời: Có muộn quá
không, hay không nên đưa vì ở lứa tuổi này các em rất nhạy cảm, nếu đưa vào là
vẽ đường cho hươu chạy…
+ Khi hỏi biện pháp thực hiện? Thì đa số các em khuyến cáo rằng: Cần có
những giờ học riêng về “ Giáo dục giới tính” để dạy các em cần làm và cần

tránh những điều gì, đồng thời giải đáp những thắc mắc của các em về “ giới
tính”. Nên mời các chuyên viên về để tư vấn 1 số buổi trong năm học hoặc thực
hiện đưa nội dung vào các buổi học ngoại khóa như hoạt động ngoài giờ hoặc
Phan Thị Ngọc Lan
20
chính khóa. Tổ chức những buổi trao đổi, nói chuyện về “ giới tính” cho học
sinh…
+ Khi hỏi vì sao thì các em trả lời rằng: Khi hiểu biết về giới tính thì các em sẽ ý
thức trong việc tiếp xúc, qua lại, hiểu nên tránh và nên làm gì và có cách khắc
phục tốt. Hiện nay có rất nhiều bạn chưa thật sự hiểu thế nào là giới tính? Khi
hiểu biết về giới tính thì có những ứng xử và hành động đúng đắn hơn trong
quan hệ với các bạn khác phái.
5. Bạn biết gì về quan hệ khác giới?
Có rất nhiều ý kiến như: tình bạn , tình yêu, ….và nhiều mối quan hệ
phức tạp khác có thể xảy ra. Tuy nhiên các em đã nhận thức được rằng quan hệ
khác giới ở trường chỉ nên dùng lại ở tình bạn vô tư trong sáng là tốt nhât.
6. Có nên kết hôn sớm không? Tại sao?
Đa số trả lời “không”, và đã giải thích được một số lí do như: sinh đẻ ở
tuổi VTN gây nhiều hậu quả đối với sức khỏe, gây căng thẳng về tình cảm và tài
chinh, có thể tăng khả năng sinh non, sảy thai tự phát, thai chết lưu, nhiễm độc
thai nghén, trẻ sơ sinh thiếu nhiều máu, suy dinh dưỡng….
7. Trường hợp hôn nhân như thế nào là không nên?
Kết hôn sớm tức là trước 18 tuổi.
Kết hôn cận huyết.
Kết hôn giữa những người mang bệnh và tật di truyền…
8. Ý kiến kiến nghị?
Thì có rất nhiều ý kiến cho rằng: “ Giới tính” là vấn đề các bạn học sinh
nên tìm hiểu và lấy đó làm kiến thức để hỗ trợ các em trong cuộc sống, nhà
trường nên quan tâm hơn đến vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh, nên có
những buổi nói chuyện giữa giáo viên hay chuyên viên tư vấn với học sinh để

các em giải tỏa những thắc mắc của mình, khi các em đã có sự nhận định đúng
đắn về giới tính thì các em sẽ tập trung tốt hơn cho học tập. Có ý kiến: Đây là
vấn đề đáng quan tâm vì học đường không chỉ giáo dục các em kiến thức mà
còn cần dạy cho các em lối sống đẹp. Vấn đề giới tính nó không xấu, nó cũng
cần thiết như cần biết tính toán, cần biết viết chữ. Hiểu được vấn đề giới tính sẽ
giúp giải tỏa được nhiều điều thầm kín mà không nói được với ai, từ đó có cách
suy nghĩ tốt, sống lành mạnh
III. KẾT LUẬN
Nên đưa nội dung giáo dục giới tính vào giảng dạy cho các em học sinh,
nhất là bậc học THCS và có thể cả ở bậc THPT.
Giáo dục bằng nhiều hình thức khác nhau, có thể là lồng ghép nhiều nội
dung hơn vào các môn ngoài môn sinh học hay đưa nội dung vào 1 số buổi ở
môn hoạt động ngoài giờ hay mỗi học kì tổ chức mời các chuyên viên tư vấn về
nói chuyện, trao đổi với các em…
Tôi mong rằng các giáo viên chủ nhiệm quan tâm đến các em hơn, giáo
dục và tư vấn cho các em những vấn đề liên quan đến giới tính để các em có
nhận thức đúng đắn và tập trung tốt vào học tập. Giáo viên bộ môn như các môn
sinh học, giáo dục công dân, địa lí cũng cần lồng ghép vào bài học nội dung
Phan Thị Ngọc Lan
21
GDGT, kĩ năng sống cho HS. Tôi hi vọng với sự tâm huyết với nghề và lòng
yêu trẻ các thầy cô sẽ tìm ra nhiều phương pháp hay hơn và hiệu quả hơn hữa để
góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp trồng người của nước nhà.

.

PHỤ LỤC
I.PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………… 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI………………………… 1
2. MỤC ĐÍCH………………………………………… 2

3. NHIỆM VỤ………………………………………… 3
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU………………………. 3
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU……………………………3
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU……………………3
II.NỘI DUNG 4
1. CƠ SỞ KHOA HỌC………………………………… 4
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ…………………………… 6
2.1 Thuận lợi…………………………………………… 6
2.1 Khó khăn……………………………………………7
3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN TỚI VẤN ĐỀ…7
4. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………….10
5. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………… 12
6. LỒNG GHÉP GDGT VÀO BÀI DẠY SINH8,9…… 15
7. KẾT QUẢ…………………………………………….27
7.1 Trước nghiên cứu……………………………………27
7.2 Sau nghiên cứu………………………………………28
III. KẾT LUẬN…………………………………………30
Phan Thị Ngọc Lan
22
DANH MỤC VIẾT TẮT
CNTT
DTTS
GV
GDGT
THCS
THPT
VTN
SGK
SKTD
SKSS

Công nghệ thông tin
Dân tộc thiểu số
Giáo viên
Học sinh
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Vị thành niên
Sách giáo khoa
Sức khỏe tình dục
Sức khỏe sinh sản
Phan Thị Ngọc Lan
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Sách giáo khoa Sinh học 8, 9 NXB Giáo dục
2.Sách giáo viên Sinh 8, 9 NXB Giáo dục
3.Sách “GD sống khỏe mạnh và kĩ năng sống cho HS THCS
4.Báo SỨC KHỎE VÀ ĐỜI SỐNG
5.Nói “chuyện khó nói “với con trẻ NXB Thanh Niên
6.Trẻ em và tuổi dậy thì NXB Y học
7. Trợ giúp cho các bậc phụ huynh để nâng cao sức khỏe của VTN
8.Tham khảo các chuyên mục trên các web:
Http://www.ykhoa.net


Phan Thị Ngọc Lan
24

×