Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận Đánh giá các phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.08 KB, 21 trang )

Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………………2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………………….4
1. Một số vấn đề lý luận………………………………………………………….4
1.1. Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền)………………………………… 4
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp……………………….5
1.3. Kiện yêu câud bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền)……………………… 6
2. Thực trạng…………………………………………………………………… 7
3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức dân sự - một số giải
pháp…………………………………………………………………………… 15
3.1. Nhận xét……………………………………………………………………15
3.2. Giải pháp………………………………………………………………… 17
KẾT LUẬN…………………………………………………………………… 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….21
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
1
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi
nhận là quyền dân sự cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan
hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội quyền sở hữu được pháp luật bảo
vệ bằng nhiều phương thức khác nhau. Việc áp dụng phương thức bảo vệ nào tùy
thuộc hậu quả của việc xâm hại, tính chất, mức độ của hành vi xâm hại (nghiêm
trọng hay không nghiêm trọng, ngay tình hay không ngay tình), yêu cầu của
người bị xâm hại. Ở Việt Nam, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các chế tài
hành chính, hình sự và các biện pháp dân sự. Tuy nhiên, mỗi ngành luật bảo vệ
quyền sở hữu theo những phương pháp, cách thức phù hợp với chức năng vốn có
của nó.
Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ


nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân.
Trong một số trường hợp Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế bằng bạo lực
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân hay tổ chức nhất
định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện
hay không thực hiện những hành vi nhất định để bảo vê quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể khác; hoặc nguời đó phải phục tùng những hạn chế nhất định đối
với tài sản của mình hoặc tự do thân thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ
thể khác. Chủ thể thực hiện quyền bảo vệ này chính là các cơ quan Nhà nước và
trong một số trường hợp nhất định thì Toà án cũng là chủ thể sử dụng các biện
pháp hành chính nhằm bảo vệ quyền sở hữu.
Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc quy định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy
định các mức hình phạt tương đương. Việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp
hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe. Người nào có hành vi xâm phạm đến
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
2
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
sở hữu XHCN hoặc xâm phạm sở hữu của công dân (Điều 133 đến Điều 145
BLHS Việt Nam 1999) thì phải chịu trách nhiệm pháp lý tùy theo mức độ phạm
tội. Ví dụ: Phạm tội theo khoản 2 Điều 144 BLHS có thể bị phạt bảy năm tù
giam; tội trộm cắp tài sản theo khoản 4 Điều 138 có thể bị tù chung thân…Ngoài
ra, người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu còn có thể bị chịu một trong các
hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, quản chế hoặc cấm cư trú.
Luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những phương thức
kiện dân sự trước tòa án để chủ sở hữu có thể thông qua đó có thể đòi lại tài sản
của mình đang bị người khác chiếm giữ bất hơp pháp; yêu cầu người khác chấm
dứt hành vi cản trở hoặc có quyền yêu cầu ngăn chặn khi chủ sở hữu thực hiện
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối vói tài sản; hoặc chủ sở hữu có thể
đòi người khác phải bồi thường thiệt hại về tài sản nếu người đó có hành vi xâm

phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình. Điều 255 BLDS quy định
“…Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở
hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng các quy định của pháp
luật”.
Có thể thấy rằng, mỗi ngành luật đều có vai trò quan trọng trong việc bảo
vệ quyền sở hữu, nhưng các ngành luật không phải độc lập với nhau mà có sự bổ
sung, phối hợp lẫn nhau. Trong thực tế, nhiều khi phải áp dụng cùng lúc những
quy phạm của hai hay nhiều ngành luật để điều chỉnh và bảo vệ quyền của chủ
sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khi bị xâm phạm.
Tuy nhiên, trong những phương thức nêu trên, phương thức dân sự có vai
trò quan trọng và mang những đặc điểm riêng. Phương thức này mang ý nghĩa
thực tế nhất bởi nó khôi phục lại tình trạng trước khi bị vi phạm về mặt vật chất
cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
3
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Một số vấn đề lý luận.
Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các quan
hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự của các quốc gia trên
thế giới đều coi đây là chế định cơ bản cần tập trung quy định, làm cơ sở cho
việc quy định các chế định khác như hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa
kế… Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS) đã dành
Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về
‘‘Tài sản và quyền sở hữu’’.
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công
dân”.
Điều 164 BLDS đã xác nhận:
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt

tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
BLDS ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác nhau để
bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho ta thấy rằng, sự xâm phạm
đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy vấn đề
đặt ra là là phải chọn phương thức nào cho phù hợp với mức độ và các tình tiết
của vụ việc.
1.1. Kiện đòi tài sản (kiện vật quyền).
Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa
án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình.
Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 BLDS: “Chủ sở hữu, người
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
4
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền
sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”.
Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân
nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu
với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo
đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy đối với những tài sản được
chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu thì không áp dụng việc đòi lại tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều
247 BLDS hoặc các trường hợp theo quy định tại Điều 257, 258 thì không đòi lại
tài sản). ). Tuy nhiên, điều kiện chung cho phương thức kiện đòi tài sản được
quy định tại Điều 256, 257, 258 khi chủ sở hữu có đủ các yếu tố sau:
- Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý
chí của họ; hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao
dịch không đền bù như tặng, cho, thừa kế theo di chúc…

- Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp.
- Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.
- Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường
hợp khác do pháp luật quy định.
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
đối với viêc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Đây là phương thức cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người
nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền
chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Chủ
sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có
quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh
hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 165,
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
5
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
BLDS quy định: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình
đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.
Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi
hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở pháp luật. Người không phải là chủ sở
hữu của tài sản cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản nếu như có
thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 194 BLDS).
Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này BLDS đã cho phép chủ sở hữu
và người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản
trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoại ra, Điều 259 BLDS còn quy
định:“Quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp

luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có
quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó phải
chấm dứt hành vi”.
Mục đích chính của phương thức này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài
sản một cách bình thường.
1.3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền).
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài
sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Điều 260 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Đây được gọi là phương thức kiện trái
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
6
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp
pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người
mua nữa hoặc tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại đc tài sản
của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường
thiệt hại. Hoặc người chiếm hữu hợp pháp bán tài sản cho người thứ ba ngay tình
thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường giá
trị của tài sản, ví dụ như: T mượn xe đạp của H rồi mang đi bán cho một người
thứ ba ngay tình, H có quyền kiện T để đòi bồi thường thiệt hại…
“Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu
có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành
vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu
thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự
(bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hoặc tách ra thành vụ kiện dân sự

để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng” ( Bảo
vệ quyền sở hữu thông qua phương thức kiện dân sự những ưu điểm và hạn chế
so với các phương thức khác – Th.s NGUYỄN THỊ TUYẾT – Khoa Luật dân sự
– Trường Đại học Luật Hà Nội).
2. Thực trạng.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào xem xét một số vụ án trong
thực tiễn, cách giải quyết của tòa án, cũng như những nhận xét của các nhà làm
luật.
2.1. Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố H.
Nội dung:
Năm 1944, cụ Vũ Tá M và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc
Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ).
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
7
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ
mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4).
Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai
của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi
ai; vào các 1971, 1990, 2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông
Đào Văn T chiếm giữ. Tháng 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận
Đ đòi nhà. Gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ
và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm 1991
ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh
Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T
đang sử dụng là 60m2.
Tòa án cấp sơ thẩm xác minh:
+ Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có, nên chưa làm được thủ tục
đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn
gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua

60m2 đất ao của cụ Vũ Tá M, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua
bán).
+ Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS
(Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44
có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá M và vợ
là cụ Hoàng Thị N.
Quyết định của tòa án:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết
định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa
số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ M và cụ N. Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất
của ông Vũ ngọc L. Buộc gia đình ông T trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
8
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L.
Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T.
- Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H
quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ
thẩm của Tòa án quận Đ Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L.
Nhận xét:
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn
gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ
số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; phần nhà đất của ông T có hai
thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ
thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có
nhà chưa có căn cứ.
Nhận định của tòa án phúc thẩm có phần khiên cưỡng và không toàn diện.
Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hoặc chưa
chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175
cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ M và cụ N. Nội dung công văn của cơ

quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T đang sử dụng) là
1 phần của thửa số 42 mang tên cụ M và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175.
Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa
chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số
18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một
có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của
cấp phúc thẩm không có căn cứ.
Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể
hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện
có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy
nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
9
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
tiết về nhà, cần xác minh việc cụ M và cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua
(năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà
Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá M.
Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp
dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L
đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập
trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số
58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất
đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp
dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là không đúng.
Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn
cứ pháp luật để giải quyết vụ án; cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà
đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn
cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc
thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu
cầu của ông L.

2.2. Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre.
Nội dung:
Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539.
Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua
một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho
rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận
miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này
không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với
ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên
ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà
giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
10
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên,
hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh
định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh
thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm
đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%.
Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc
ông Tuấn, ông Bé liên đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ
x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ
tính từ tháng 11/2000.
Quyết định của tòa án:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án
huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông
Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông
Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn
15.000.000, lãi 20.790.000đ)
- Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến

Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩm, xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lãnh về việc bồi thường số tiền
495.000.000đ trong đó tiền thiệt hại tàu là 375.000.000đ và tiền mất thu nhập là
120.000.000đ (48

tháng x 3.000.000đ). Buộc ông Lãnh trả cho ông Tuấn, ông Bé
mỗi người số tiền 35.790.000đ trong đó tiền vốn là 15.000.000đ, lãi là
20.000.000đ
- Ngày 11/7/2007, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 69/QĐ-KNGĐT-V5
kháng nghị bản án phúc thẩm trên.
- Quyết định giám đốc thẩm số 232/2007/DS-GĐT ngày 24/8/2007 của
Toà dân sự Toà án tối cao quyết định: Chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC,
huỷ án sơ thẩm, án phúc thẩm, xét xử sơ thẩm lại.
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
11
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
Nhận xét:
Quy định pháp luật: Điều 609 Bộ luật dân sự năm 1995 về “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại”, Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về “Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại” tuy tên điều luật có sửa đổi nhưng nội dung
đều thể hiện: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi khi thực hiện
hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhân thân, tài sản của người khác mà gây thiệt
hại Bản án sơ thẩm quyết định bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản
của ông Lãnh không xem xét đến trách nhiệm của ông Tuấn, ông Bé đã chiếm
giữ tàu không có căn cứ pháp luật. Bản án phúc thẩm buộc ông Tuấn, ông Bé
liên đới chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo lời khai của ông Lãnh
mà không xem xét đến lỗi của các bên đối với thiệt hại xẩy ra. Tại biên bản giải
quyết ngày 8/3/2000 các bên không thoả thuận về trách nhiệm giữ gìn, bảo quản
tàu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng, định đoạt tài sản
đáp ứng nhu cầu của mình nhưng đồng thời có nghĩa vụ tự bảo quản, giữ gìn tài

sản của mình. Vấn đề này đã không được Toà án đề cập khi xem xét trách nhiệm
của ông Lãnh để xẩy ra thiệt hại. Nguyên tắc chung trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường được quy định trong Bộ luật dân sự và trong Nghị quyết số
01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại
không được hai cấp Tòa án áp dụng khi giải quyết tranh chấp.
Thực tiễn: Ông Lãnh yêu cầu ông Tuấn, ông Bé bồi thường thu nhập bị
mất do tàu bị chiếm giữ, không khai thác đánh bắt hải sản như trong điều kiện
bình thường. Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Lãnh mà không
đề căn cứ xác định thiệt hại đối với thu nhập bị mất được quy định trong Bộ luật
dân sự. Hướng dẫn trong Nghị quyết số 01 nói trên chỉ đề cập thu nhập từ lao
động trực tiếp của người lao động, mà chưa có hướng dẫn trong trường hợp thu
nhập có được từ lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
12
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
Toà án cấp phúc thẩm xác định do tàu bị chìm nên không thể xác định
mức độ thiệt hại và chấp nhận lời khai của ông Lãnh: Tàu đóng được 6 năm
trước thời điểm các bên thoả thuận việc sử dụng tàu để khắc phục hậu quả, giá trị
còn lại của tàu là 70% tương ứng với số tiền là 375.000.000đ để buộc ông Tuấn,
ông Bé bồi thường. Có ý kiến khác nhau: ý kiến đồng tình với nhận định của Tòa
án cấp phúc thẩm, căn cứ xác định thiệt hại dựa trên giá trị còn lại của tàu theo
lời khai của chủ sở hữu, ý kiến khác cho rằng giá trị còn lại của tàu cần được xác
minh từ thực tiễn tại địa phương, nếu chỉ căn cứ lời khai của chủ sở hữu mà
không xác minh là thiếu khách quan.
2.3. Vụ án “Đòi Tài sản” tại Toà án tỉnh VP.
Nội dung:
Ngày 20/2/2002, ông Đặng Huy S ký hợp đồng mua máy xúc đào hiệu
DAEWOOSOLAR-130W-III sản xuất năm 1994 của Công ty thương mại Minh
Anh với giá 115.000.000đ. Ngày 22/2/2002, bà Hoàng Thị Ch (vợ ông Đặng

Huy S) và bà Nguyễn Thị Th ( vợ ông Trần Văn B) ký giấy xác nhận hai gia
đình mua chung máy xúc đào hiệu SOLAR 130 sản xuất năm 1998 với giá
270.000.000đ (giấy xác nhận ghi tên ông S, ông B nhưng không có chữ ký tên
hai ông), có xác nhận của ủy ban nhân dân xã. Ngày14/5/2003, vợ chồng bà Ch,
ông S bán máy xúc cho ông Luân với giá 300.000.000đ.
Bà Th khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Ch trả 1/2 trị giá máy xúc mua
chung là 135.000.000đ tính đến thời điểm 25/10/2002, sau thời điểm này gia
đình bà Ch phải chịu lãi suất ngân hàng và trị giá chênh lệch tài sản. Bà Ch
không thừa nhận việc mua chung máy xúc và chữ ký tên bà trên giấy xác nhận
mua chung máy.
Tòa án thu thập chứng cứ, xác minh cho thấy chỉ có một cái máy xúc. Kết
luận giám định của Cơ quan công an tỉnh và Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ
công an đều xác định chữ ký, chữ viết tên là của bà Ch
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
13
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
Quyết định của tòa án:
Bản án dân sự sở thẩm số 07/DS/ST ngày 18/6/2004 của Tòa án huyện TD
quyết định: Buộc gia đình ông S, bà Ch phải trả cho gia đình bà Th tiền bán máy
xúc đào và tiền lãi là 164.775.000đ.
Bản án dân sự phúc thẩm số 24/DSPT ngay7f 20/4/2005 của Tòa án tỉnh
VP quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của gia đình bà Ch. Y toàn bộ án sơ
thẩm.
Ngày 18/52005 Viện kiểm sát tỉnh VP có công văn số 742/BC-VKS-P5 đè
nghị Viện kiểm sát tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc
thẩm. Viện kiểm sát tối cao có công văn trả lời VKS tỉnh không có căn cứ kháng
nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
Nhận xét:
Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự: VKS tỉnh cho rằng tài liệu
chứng cứ còn nhiều mâu thuẫn: Hợp đồng giữa ông S với Công ty Minh Anh

phản ánh máy xúc sx năm 1994, giá mua 115.000.000đ, nhưng giấy xác nhận
mua chung máy giữa hai gia đình thì giá mua là 270.000.000đ, máy sx năm
1998. Do vậy, nếu chỉ căn cứ giấy xác nhận mua chung máy để buộc gia đình bà
Ch phải thanh toán trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là không đúng, bởi lẽ chiếc
máy xúc gia đình ông S mua với máy xúc ghi trong giấy xác nhận mua chung
không phải là một.
Vấn đề đặt ra: Người khởi kiện đưa ra yêu cầu đòi tài sản và xuất trình
chứng cứ là giấy xác nhận mua chung tài sản chứng minh quyền sở hữu của
mình đối với 1/2 tài sản. Người bị kiện có nghĩa vụ chứng minh nếu không thừa
nhận người khởi kiện có quyền sở hữu. Chứng cứ mà người bị kiện xuất trình
phải có giá trị phủ nhận đối với chứng cứ xác định có việc mua chung máy xúc.
Đối tượng chứng minh là giá trị pháp lý của giấy xác nhận mua chung máy xúc.
Các khả năng chứng minh có thể: giấy xác nhận mua chung máy xúc có sự giả
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
14
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
mạo, đây là hợp đồng giả cách, bị lừa dối. Như vậy, để bác bỏ yêu cầu của
nguyên đơn, thì bị đơn phải chứng minh được giấy xác nhận mua chung máy xúc
không có giá trị pháp lý đồng nghĩa với việc không có sự kiện mua chung máy
xúc hay yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ.
Những tình tiết liên quan đến máy xúc trong hợp đồng và trong giấy xác
nhận có thể không đồng nhất, nhưng không có giá trị phủ nhận tình tiết về việc
mua chung máy xúc. Như vậy, Bên cạnh nghĩa vụ chứng minh thì các vấn đề liên
quan đến hoạt động chứng minh như xác định chứng cứ, giá trị chứng minh của
chứng cứ, đánh giá chứng cứ cần được xem xét một cách toàn diện…
3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức dân sự - một số giải
pháp.
3.1. Nhận xét:
Có thể nhận thấy rằng, so với các phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác
thì phương thức kiện dân sự có những điểm khác biệt và nó làm nên tính ưu việt

cũng như cũng có những hạn chế nhất định so với các phương thức khác. Những
ưu điểm chủ yếu của phương thức kiện dân sự gồm có:
Một, đây là phương thức mang tính thực tế rất lớn bởi nó xuất phát từ
những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu thông thường nảy sinh trong đời
sống xã hội, xâm phạm tới các quyền tài sản của các chủ thể và do vậy chủ yếu
thuộc sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Do xuất phát điểm là các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu chủ yếu thuộc pháp luật dân sự nên biện pháp kiện dân sự
cũng được áp dụng phổ biến. Hơn nữa, mục đích lớn nhất của chủ thể khi sử
dụng phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệ quyền sở hữu của mình chính là việc
khôi phục lại tình trạng ban đầu (tình trạng trước khi bị vi phạm) về mặt vật chất
hay chính là đảm bảo sự nguyên vẹn của tài sản cho chủ sở hữu hoặc cho người
chiếm hữu hợp pháp. Sau khi áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu
bằng biện pháp dân sự, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể khôi
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
15
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
phục lại trạng thái tài sản ban đầu hoặc được bù đắp về mặt vật chất cho những
xâm phạm đến quyền sở hữu của họ, đáp ứng được lợi ích cơ bản của việc bảo
vệ quyền sở hữu của các chủ thể được nhà nước ghi nhận.
Hai, phương thức kiện dân sự được áp dụng một cách rộng rãi hơn các
biện pháp khác. Thông thường biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong ngành luật
hình sự chỉ áp dụng khi hành vi xâm phạm đó được cấu thành tội phạm theo quy
định trong BLHS. Mà trong BLHS thì hiện nay quy định chỉ có vài chục hành vi
xâm phạm vào 2 nhóm sở hữu chính là sở hữu Xã hội Chủ nghĩa và sở hữu của
công dân (từ Điều 133 đến Điều 145 BLHS). Biện pháp thuộc ngành luật hành
chính thông thường áp dụng khi tài sản bị xâm phạm tới là tài sản của Nhà nước.
Bởi vậy trong rất nhiều trường hợp việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
trên thực tế không phát huy được hiệu quả một cách tuyệt đối. Riêng biện pháp
kiện dân sự được áp dụng rộng rãi bởi lẽ: việc xâm phạm tài sản mang tính chất
dân sự diễn ra phổ biến; các chủ thể có thể áp dụng các phương thức kiện dân

sự một cách dễ dàng bằng việc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm
dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu chủ thể vi phạm bồi thường thiệt hại.
Ba, phương thức kiện dân sự tạo điều kiện rất thuận lợi và dễ dàng cho
mọi chủ thể có quyền sở hữu bị xâm phạm tự mình chủ động thực hiện phương
thức này. Phương thức bảo vệ trong ngành luật hành chính tuân thủ các thủ tục
hành chính tương đối phức tạp của các cơ quan Nhà nước; phương thức trong
ngành luật hình sự thì đỏi hỏi phải đáp ứng đủ việc cấu thành tội phạm và tuân
theo thủ tục tố tụng hình sự cũng tương đối phức tạp và mất thời gian, khó có thể
khôi phục nhanh chóng tình trạng tái sản như ban đầu. Riêng phương thức kiện
dân sự thủ tục tương đối nhanh gọn, khắc phục nhanh chóng tình trạng như ban
đầu, hơn nữa khi các chủ thể có thể đã đệ đơn yêu cầu toà án ra quyết định buộc
chủ thể có hành vi xâm phạm quyền sở hữu chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
16
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
hại hoặc đòi lại tài sản cho mình nhưng vẫn có thể được quyền thoả thuận và rút
lại đơn kiện.
Đó là một số ưu điểm của phương thức kiện dân sự so với các phương
thức bảo vệ quyền sở hữu khác. Tuy nhiên, phương thức kiện dân sự cũng mang
những hạn chế nhất định, ví dụ trong nhiều trường hợp hiệu quả của các phương
thức dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế rất thấp. Trong các
phương thức dân sự, tự bảo vệ là biện pháp được các chủ thể áp dụng phổ biến
nhất nhưng do thiếu tính cưỡng chế và quyền lực nhà nước nên trên thực tế khi
có hành vi xâm phạm các chủ thể vẫn phải áp dụng đồng thời các biện pháp khác
để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Ngoài ra hiệu quả của việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự
gắn liền với việc thi hành án dân sự nên trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi
công tác thi hành án dân sự cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của
các chủ sở hữu hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp trên thực tế.
3.2. Giải pháp:

3.2.1. Nên cụ thể hoá quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu:
Việc coi chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu kéo
theo sự đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong
BLDS hiện hành của chúng ta trong thời gian qua đã có những biểu hiện bất cập.
Chế định pháp luật này vô hình trung đã đặt lên vai người đi kiện (nguyên đơn)
nghĩa vụ rất nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với
tài sản tranh chấp, trong điều kiện nước ta hiện nay việc này không hề đơn giản,
nhất là đối với bất động sản (nhà, đất) không có giấy tờ chứng nhận, mà trong đa
số trường hợp, lỗi không phải do người dân mà do chính cơ quan hành chính
Nhà nước triển khai chậm. Chính vì tình trạng cung cấp, xác minh, đánh giá
chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn mà thời hạn tố tụng bị kéo dài, dẫn đến số
lượng án tồn đọng ngày càng tăng, nhiều bản án thiếu khách quan vì không phản
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
17
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
ánh đúng bản chất của vụ việc, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không
được bảo đảm.
Bộ luật dân sự cần phải có những quy định riêng về bảo vệ quyền chiếm
hữu. Sự chiếm hữu cần phải được suy đoán là chiếm hữu của chủ sở hữu, đó là
một nguyên tắc rất quan trọng trong pháp luật của các nước, thể hiện sự tôn
trọng của pháp luật đối với công dân trong việc thực hiện quyền của mình.
Một vấn đề đặt ra, vậy người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hay
không có được pháp luật bảo vệ không? Theo các quy định Bộ luật dân sự hiện
hành của Việt Nam thì họ không được bảo vệ. Cách phân loại chiếm hữu có hay
không có căn cứ pháp luật là cách phân loại rất riêng của Việt Nam, còn luật dân
sự của các nước hầu như không có sự phân biệt như vậy. Pháp luật các nước
trên thế giới từ lâu đã thừa nhận nguyên tắc: sự ngay tình bao giờ cũng được suy
đoán; người nào viện dẫn sự không ngay tình thì phải có nghĩa vụ chứng minh.
Bất luận trong trường hợp nào, người chiếm hữu vẫn có quyền kiện bảo vệ sự
chiếm hữu tài sản của mình. Như vậy, kể cả trong trường hợp chiếm hữu không

có căn cứ pháp luật (theo cách phân loại riêng của luật dân sự Việt Nam), thì
pháp luật vẫn cần phải bảo vệ quyền lợi của họ. Ví dụ:
A là chủ sở hữu chiếc xe máy, B ăn trộm chiếc xe và bán cho C (C biết rõ
chiếc xe là của ăn cắp nhưng vẫn mua). C dùng chiếc xe máy này để đi, rồi lại bị
D ăn cắp.
Trong ví dụ trên, C vẫn có quyền kiện D phải trả lại xe cho mình (tất nhiên
là C phải có đầy đủ chứng cứ). Tóm lại là pháp luật cần công nhận tình trạng
chiếm hữu trước đã, còn việc xác định ai là chủ sở hữu đích thực thì giải quyết
trong một vụ kiện khác nếu các bên có yêu cầu. Quy định này rất có tác dụng
trong việc bảo vệ sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự
trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây cũng là cách xử lý trong Bộ luật dân sự
của nhiều nước trên thế giới.
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
18
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
3.2.2. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn.
Cho rằng một mặt, vẫn phải bảo vệ chủ sở hữu, nhưng mặt khác cũng phải
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhằm đảm bảo sự ổn định của các
quan hệ dân sự tránh gây nhiều xáo trộn, đồng thời nhằm thúc đẩy giao lưu dân
sự phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, nên chăng cần tham khảo
quy định của pháp luật các nước điển hình trên thế giới: trong trường hợp tài
sản bị chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh mất hoặc bị lấy cắp, thì có
quyền đòi lại vật từ người chiếm hữu ngay tình trong một thời hạn nhất định (có
thể cân nhắc quy định từ 2-3 năm kể từ ngày mất), nhưng người này có quyền
kiện lại người đã chuyển giao vật cho mình bồi thường thiệt hại.
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật và thiết chế đăng ký tài sản:
Việc đăng ký tài sản rất quan trọng, một mặt là cơ sở để chủ sở hữu bảo vệ
quyền lợi của mình và đối kháng với người thứ ba khi có tranh chấp phát sinh;
mặt khác tạo điều kiện rất thuận lợi cho Toà án trong việc xác định chứng cứ để
xét xử các tranh chấp. Bộ luật dân sự cần đưa ra những nguyên tắc chung về

đăng kỳ tài sản, giá trị pháp lý của việc đăng ký… Sau đó, cần ban hành Luật về
đăng ký tài sản (hoặc nếu chưa có điều kiện thì trước mắt cần ban hành Luật về
đăng ký bất động sản) như kinh nghiệm của Nhật Bản và nhiều nước trên thế
giới, nhằm pháp điển hoá các quy định về đăng ký tài sản còn đang nằm rải rác ở
các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hệ thống cơ quan đăng ký tài sản cũng phải
được tổ chức và hoạt động có hiệu quả, phù hợp với chủ trương cải cách hành
chính và làm sao phải tạo thuận lợi nhất cho người dân.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực
tiễn:
Xuất phát từ đặc trưng của bản thân quan hệ pháp luật dân sự, mà mỗi
công dân, pháp nhân cần phải tự mình có những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
sao cho có hiệu quả nhất và tất nhiên là phải trong khuôn khổ của pháp luật.
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
19
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, thì các bên cần tận dụng tối đa cơ chế hoà
giải, dàn xếp với nhau vì cơ chế này có những lợi ích nhất định, đặc biệt trong
điều kiện ở Việt Nam hiện nay
Cần tăng cường công tác phổ biến giáo dục các quy định của pháp luật về
bảo vệ quyền sở hữu đến người dân, đồng thời hoàn thiện và tăng cường năng
lực hoạt động của các thiết chế (Toà án, trọng tài, thi hành án, luật sư, công
chứng…) nhằm bảo đảm cho các quy định về bảo vệ quyền sở hữu thực sự đi
vào cuộc sống.
Đây là những vấn đề rất lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu và
đặc biệt là phải có sự quan tâm của Nhà nước theo lộ trình cụ thể để làm sao thực
sự nâng cao được hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực
tiễn.
KẾT LUẬN:
Pháp luật cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự
bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng

những biện pháp luật định. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp còn được
quyền yêu cầu Toà án, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản
trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Quan hệ sở hữu là loại quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ
đặc thù, trong đó thể hiện quyền tự định đoạt cao độ của chủ thể. Bảo vệ quyền
sở hữu tài sản là vấn đề tất yếu nhằm bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản một cách có hiệu quả và trọn vẹn nhất
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
20
Bài tập lớn học kỳ / Môn Luật dân sự - Modul 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trường ĐH Luật HN, Gt Luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb CAND, Hà
Nội 2009.
2. Khoa Luật – ĐHQG, Gt Luật dân sự Việt Nam, Nxb ĐHQG. Hà Nội 2006.
3. Bộ Luật Dân Sự Việt Nam 2005, Nxb Lao Động, Hà Nội 2009.
4. Một số văn bản pháp luật liên quan.
5. Bộ môn Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật
dân sự Việt Nam, tháng 12 năm 2007.
6. Quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam; Luận án phó Tiến sĩ khoa học
luật học/ Hà Thị Mai Hiên; Người hướng dẫn: PGS. TS. Đào Trí Úc.
7. />8. />9. />10. />su/2009/7736/Tu-bao-ve-quyen-so-huu-Nhung-uu-diem-va-han.aspx
Dương Thị Khánh Ly – DS33C044
21

×