Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một só vẫn đề lí luận và thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.84 KB, 20 trang )

I. Đặt vấn đề:
Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các
quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính bởi vậy, phương thức bảo vệ quyền
sở hữu cũng rất được chú trọng nhằm phát huy, củng cố, bảo vệ quyền lợi của
các chủ sở hữu. Vậy nên, Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 đã dành
Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về
‘‘Tài sản và quyền sở hữu’’.
Đã có không ít công trình nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu. Để tìm hiểu rõ ràng về vấn đề này, cần tiếp cận theo phương
pháp đánh giá tính khả thi của các quy định, chế định về bảo vệ quyền sở hữu
trong thời gian qua. Tìm hiẻu cả về cơ sơ lí luận và cơ sở thực tiễn để nắm rõ
về tình hình bảo vệ quyền sở hữu trong thực tế Việt Nam hiện nay.
Để tìm biết thêm nhiều vấn đề về quyền sở hữu cũng như các phương
thức bảo vệ quyền sở hữu trong BLDS của Việt Nam hiện nay, em đã chọn đề
bài tập lớn Học kì bộ môn Luật dân sư Việt Nam như sau:
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu – Một só vẫn đề lí luận và thực
tiễn.
1
II. Giải quyết vẫn đề:
A. Các khái niệm
1. Quyền sở hữu:
Điều 164 BLDS quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
Như vậy, BLDS đã đưa ra một định nghĩa về quyền sở hữu bằng cách
liệt kê những nội dung của quyền sở hữu và chủ thể của quyền này. Đây có
thể xem là một phương pháp lập pháp rất riêng của Việt Nam, vì qua nghiên
cứu luật dân sự của các nước trên thế giới, chúng tôi thấy họ không đưa ra
khái niệm về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, mà khái niệm này chỉ tồn tại


trong khoa học luật.
1.1. Quyền chiếm hữu:
Theo cách hiểu thông thường nhất thì chiếm hữu là sự nắm giữ, chi
phối vật về mặt thực tế. Điều 182 BLDS quy định: “Quyền chiếm hữu là
quyền nắm giữ, quản lý tài sản”. BLDS đã coi chiếm hữu là một quyền năng,
là một trong ba bộ phận cấu thành quyền sở hữu. Liên quan đến vấn đề này, ở
Việt Nam hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Tựu trung lại có hai quan điểm
phổ biến sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền sở hữu chỉ bao gồm hai nội dung:
quyền sử dụng và quyền định đoạt. Còn chiếm hữu thực ra là một tình trạng
chứ không phải là một quyền năng. Chiếm hữu là hình thức biểu hiện ra bên
2
ngoài của quyền sở hữu. Đây cũng là quan điểm trong luật dân sự của đa số
các nước trên thế giới như Đức, Pháp, Nhật Bản…
- Quan điểm thứ hai cho rằng cách quy định như Điều 173 BLDS hiện nay
là hoàn toàn hợp lý. Những người theo quan điểm này lý giải chiếm hữu là sự
nắm giữ vật, tuy nhiên do sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà hiện nay có
những vật không thể nắm giữ được (như năng lượng, sóng truyền hình…).
Vấn đề chiếm hữu đã có từ thời nguyên thuỷ, từ khi chưa có pháp luật thì loài
người đã chiếm hữu những vật sẵn có trong thiên nhiên. Khi có pháp luật rồi
thì mới phát sinh khái niệm quyền chiếm hữu. Muốn chứng minh mình là chủ
sở hữu thì tuỳ từng trường hợp: đối với bất động sản phải dựa vào việc đăng
ký tài sản, còn đối với động sản thì bản thân sự chiếm hữu cũng là một cách
thức để chứng minh. Không nên để ‘‘tình trạng chiếm hữu’’ như là khi xã hội
chưa có luật pháp.
1.2. Quyền sử dụng:
Điều 192 BLDS quy định:“Quyền sử dụng là quyền khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử
dụng là quyền khai thác những lợi ích mang lại từ tài sản.
1.3. Quyền định đoạt:

Điều 195 BLDS quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao
quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Quyền định đoạt có thể
thực hiện bằng hai cách: quyết định số phận về mặt thực tế hoặc quyết định số
phận về mặt pháp lý của tài sản.
2. Bảo vệ quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công
dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để
3
bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp
và quyền thừa kế của công dân”.
Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được
hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử
sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến
quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn
phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu
sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu,
khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo
vệ bằng các biện pháp hình sự, hành chính hay dân sự. BLDS năm 1995 đã
dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ Điều 255 đến Điều
261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về bảo vệ quyền
sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có quyền bảo
vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức sau:
- Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
- Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường
thiệt hại;
- Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành
vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu

và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
B. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự - Một số
vấn đề lí luận và thực tiễn.
4
1. Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp
Như chúng ta đã biết, đặc trưng lớn nhất của quyền dân sự là nguyên
tắc tự định đoạt. Cũng chính vì lý do này mà luật dân sự được xếp vào luật tư
ở những nước có sự phân biệt hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư.
Theo BLDS thì chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu
nhà ở xây tường bao xung quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi
bị xâm phạm từ bên ngoài, chủ vườn cây ăn quả rào vườn và thuê người bảo
vệ, trông nom vườn cây của mình…
Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình không phải là tuyệt đối,
mà có giới hạn của nó. Giới hạn đó chính là “không được xâm phạm đến lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như:
giăng dây điện quanh ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh
gốc cây ăn quả … dẫn đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ trộm), đều bị coi
là hành vi trái pháp luật, phải bồi thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong
thực tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào
chính khả năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vấn đề
đặt ra là khi chủ sở hữu không có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình
bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản, thì pháp luật
dự liệu như thế nào? Cũng giống như Bộ luật dân sự các nước, BLDS đã có
một cơ chế để xử lý vấn đề này, đó chính là chế định giám hộ. Theo Điều 65
BLDS, người giám hộ có nghĩa vụ:

“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
5
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường
hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.
Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần
thiết cho việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám
hộ có hành vi vi phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài
sản của người được giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Trong trường hợp này, việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan
hệ giám hộ mới, với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được giám hộ.
Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu
là biện pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167
của BLDS. Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì
không chỉ dựa vào Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật
chuyên ngành (Bộ luật Hàng hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân
dụng…). Thông thường, tài sản đó là nhà ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy,
tàu thuỷ, thuyền, máy bay… Việc đăng ký tài sản rất có ý nghĩa, vì trong các
hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời điểm hoàn tất việc chuyển
giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để chủ sở hữu có quyền
“đối kháng” với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp. Tuy nhiên, cũng phải
nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chưa
nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so
với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý
thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt. Đây là một thực tế gây
6
rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

khi có tranh chấp xảy ra.
Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp
pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất.
Người Việt Nam có truyền thống “duy tình”, trường hợp kiện nhau ra Toà
cũng không phải là “thói quen” như là một nét văn hoá hết sức bình thường ở
các nước phương tây. Tuy nhiên, với sự phát triển của cơ chế thị trường, trong
những năm gần đây, các hành vi vi phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp
pháp bắt đầu có xu hướng tăng. Trong những trường hợp này, biện pháp tự
bảo vệ xem ra không còn phát huy tác dụng, và chủ sở hữu phải sử dụng đến
các biện pháp khác để có thể bảo vệ được quyền lợi của mình.
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt
hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại:
Ví dụ : A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong
khi đào móng làm nhà, đã đào sát tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà
A.
Ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong trường hợp trên, A
với tư cách là chủ sở hữu có quyền gì đối với B không? Theo các quy định
của BLDS Việt Nam, thì A, với tư cách là chủ sở hữu có quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B – người có hành vi cản trở việc thực
hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là A có
quyền yêu cầu B phải ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm
biện pháp khác.Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, A có quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do hai bên thoả thuận.
7
Đây chính là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế thường thông qua
con đường các bên “tự dàn xếp”. Như chúng tôi đã nói ở trên, xuất phát từ
nguyên tắc tự định đoạt, nên các bên hoàn toàn có quyền tự bàn bạc, thu xếp
với nhau mà không cần thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ
chế này tỏ ra rất hữu hiệu trong nhiều trường hợp, vì nó có những lợi ích cơ

bản sau đây:
Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại
Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
Thứ hai, xét về mặt tình cảm, như chúng tôi đã nói ở trên, với truyền
thống duy tình của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu
thành công sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì
được tình làng nghĩa xóm;
Thứ ba, nếu dàn xếp được, thì thông thường là các bên sẽ tự nguyện
chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục và bồi thường thiệt hại, khỏi phải thông
qua cơ chế thi hành bản án, quyết định dân sự-một vấn đề rất nhức nhối hiện
nay khi các bản án, quyết định dân sự còn tồn đọng, không được thi hành trên
thực tế còn đang chiếm một tỷ lệ rất lớn;
Thứ tư, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là nhiều vụ án hình sự
(giết người, cố ý gây thương tích, cố ý huỷ hoại tài sản…) có nguồn gốc từ
các tranh chấp dân sự. Nếu hoà giải thành thì có thể tránh được những trường
hợp đau lòng, gây thiệt hại cho các bên đương sự và cho xã hội.
Rõ ràng, cơ chế trên vừa đem lại lợi ích cho các bên cũng như cho Nhà
nước. Nhận thức được những lợi ích này, Nhà nước ta đã thiết lập cả một thể
chế, thiết chế về hoà giải. Về thể chế, đó là Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động
hoà giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thiết chế, đó là các Tổ
hoà giải ở cơ sở (xóm, thôn, tổ dân phố) dưới sự quản lý và hướng dẫn về
8

×