A. Đặt Vấn Đề.
Sự thành đạt của một con người bao giờ cũng gắn với nhiều yếu tố.Các
yếu tố truyền thống của quá khứ,các yếu tố của đương đại là hoàn cảnh lịch sử,là
cơ sở,nền tảng để tạo nên những điều kì diệu trong tư tưởng và sự nghiệp cỉa
một vĩ nhân,Và Hồ Chí Minh cũng không phải là ngoại lệ trong số những vĩ
nhân đó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan phản ánh
tâm lý nguyện vọng của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính yêu của mình
mà là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu khách
quan và là sự giải đáp những yêu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ
đầu thế kỉ XX tới nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh dược hình thành dưới những tác
động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể của dân tộc và thời
đại mà Người đã sống và hoạt động. Để hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh em
xin phân tích điều kiện lịch sử xã hội hình thành tư tưởng của Người
B. Giải Quyết Vấn Đề.
I. Xã hội Việt Nam thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
1. Xã hội Việt Nam thế kỉ XIX.
Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX cho đến khi Pháp xâm lược vẫn là
một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ triều đại Tây
Sơn, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ,
phản động: tăng cường đàn áp, bóc lột ở bên trong và thực hiện bế quan tỏa cảng
đối với bên ngoài; cự tuyệt mọi đề án cải cách, dù là nhỏ bé và đã quá muộn
màng, nên đã không mở ra được khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt
nhịp với sự phát triển của thế giới, đặc biệt là với thị trường tư bản Tây Âu. Vì
vậy, đã không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất nước như địa
lý- chính trị, tài nguyên, con người thông minh, cần cù, dũng cảm,...; không tạo
ra được những tiềm lực vật chất và tinh thần đủ để bảo vệ tổ quốc chống lại âm
mưu xâm lược của chủ nghĩa xã hội nghĩa thực dân phương tây.
Việc chúng ta mất nước là một định mệnh lịch sử. Dân tộc Việt
Nam, trong quá khứ đã từng chiến thắng nhiều kẻ thù lớn hơn mình. Đó đã trở
thành truyền thống đánh giặc của dân tộc ta. Phải chăng , những người cầm
quyền sáng suốt hơn, có cái nhìn đa chiều hơn về thời cuộc, hiểu dân và dựa vào
sức mạnh của dân để chiến thắng kẻ thù thì thực dân pháp không phải là lực
lượng không thể chiến thắng.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến
chống Pháp rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương
Định, Nguyễn Trung Thực,...ở Nam Bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn
Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,...ở miền Trung; Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Quang Bích,...ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần
yêu nước nhiệt thành và căm thù giặc sục sôi, song tất cả đều thất bại vì chưa có
đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo họ là các sĩ phu văn thân mang ý thức
hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng, tôn quaanm chưa tin vào lực lượng của nhân
dân nên cũng chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều đó cho thấy sự bất lực
của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.
2. Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Bước sang đầu thế kỉ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc
đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác lần thứ nhất.
Xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hóa, các tầng lớp tiểu tư sản
và mầm mống của giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Cùng lúc đó, các “tân thư”
và ảnh hưởng vủa cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu
tràn vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển
dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào như Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục hội,...Nhưng các
phong trào ấy cũng chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rùi lại bị dập tắt, một
phần chưa lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân, phần khác vì các phong trào đó
chủ nghĩa xã hội yếu vẫn do các sĩ phu phong kiến cựu học truyền bá và dẫn dắt,
nên không tránh khỏi hạn chế và thất bại.
Có thể nói rằng, các phong trào cứu nước đầu thế kỉ XX đã rơi vào
tình trạng khó khăn, bế tắc nhất, tưởng chừng như không có đường ra. Trường
Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa(2-1907); cuộc biểu tình chống thuế ở Huế
và miền Trung bị đàn áp đẫm máu(4-1908); Yên Thế bị bao vây đánh phá (1-
1909); phong trào đông du tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông bị
trục xuất khỏi nước Nhật(2-1909); các lãnh tụ duy tân bị bắt, người thì bị giết,
người thì bị đày ra Côn Đảo.
II. Bối cảnh quê hương và gia đình.
1. Gia đình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi
với nhân dân, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của người là một nhà nho
cấp tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, tấm
gương về ý chí kiên cường vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu,
đặc biệt là tư tưởng thương dân , chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải
cách chính trị – xã hội của cụ Bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình
thành nhân cách của cụ Nguyễn Tất Thành. Sau này, cái chủ nghĩa xã hội thuyết
học được ở người cha bắt gặp trào lưu tư tưởng mới, của thời đại đã được
Nguyễn Ái Quốc nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của
mình.
2. Quê hương .
Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền
thống yêu nước, chống ngoại xâm; đó cũng là quê hương của nhiều anh hùng
nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng
Dung; các lãnh tụ Yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,...và
biết bao con người ưu tú khác của dân tộc Việt Nam.
Ngay mảnh đất Kiêm Liên cũng đã thấm máu anh hùng của bao liệt sỹ chống
Pháp như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến,... cả chị và anh của Nguyễn
Tất Thành cũng đều tham gia vào hoạt động yêu nước, chống Pháp, bị bắt giam
và lưu đày hàng chục năm. Không phải ngẫu nhiên mà Nghệ Tĩnh có vinh dự
sinh ra vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiêt xuất của
nước Việt Nam mới.
Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến một cảnh ngộ đối lập giữa cuộc sống
nghèo khổ bị áp bức, bóc lột đọa đày của nhân dân mình, đồng bào mình với
cuộc sống xa hoa, đồi trụy, những tội ác giã man, tàn bạo của những tên thực
dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của lũ quan lại Nam triều. Những bài học thất
bại của những nhà yêu nước tiền bối, đương thời cũng có tác động không nhỏ tới
Nguyễn Tất Thành. Chính những điều đó đã có ảnh hưởng và nuôi dưỡng lý
tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành ngay từ đầu và theo suốt quá trình cách
mạng. Bởi vì, ở Người tư tưởng yêu nước, thương dân, cảm thông với mọi nỗi
đau của nhân dân, của đồng bào luôn luôn có sự gắn bó chặt chẽ không thể tách
rời. Chính điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc.
Bằng trực giác, Nguyễn Tất Thành nhận thấy rằng muốn cứu nước,
giải phóng dân tộc thì không thể đi theo con đường các bậc tiền bối đã đi, mà
cần phải tìm ra một con đường mới. Và, Người đã quyết định đi Pháp đến các
nước khác xem họ làm như thế nào, học tập rùi trở về giúp đồng bào mình.
III. Thời Đại.
Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị vào lúc mà chủ nghĩa xã
hội nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa tư bản
độc quyền sang giai đoạn tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc, đã xác lập
được sự thống trị của chúng trên phạm vi thế giới. Chủ nghĩa đế quốc là một
hiện tượng quốc tế, một hệ thống thế giới , chúng vừa tranh vừa giành, xâu xé
thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu tròn vòng kìm
kẹp thuộc địa của chúng.
Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX không
còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại sự xâm lược và thống trị của
nước khác như kia, mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc
địa chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân gắn liền với cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản quốc tế.
Trong điều kiện lịch sử mới, mỗi thuộc địa là một mắt khâu của hệ thống đế
quốc, do đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước nếu chỉ tiến hành
riêng rẽ thì không thể nào giành được thắng lợi. Sự thất bại của các phong trào
cứu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX không phải do nhân dân ta thiếu anh
hùng, các lãnh tụ phong trào kém nhiệt huyết mà vì họ không nhận thức được
đặc điểm của thời đại nên vẫn tiến hành đấu tranh theo đường lối và phương
pháp cũ: tự mình nổi dậy đấu tranh như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám;
đấu tranh không thắng nổi thì đi cầu ngoại viện, như trường hợp của Phan Bội
Châu và nhiều người khác.
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành tuy chưa nhận thức được
đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử, Người đã thấy rõ con đường của
các bậc cha anh là cũ kỹ, không đem lại kết quả. Người phải đi tìm một con
đường mới. Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên khoảng
gần 30 nước, là một trong những nhà hoạt động chính trị đã đi nhiều nhất, có
vốn hiểu biết phong phú nhất về thực tế các thuộc địa cũng như các nước tư bản
đế quốc chủ nghĩa xã hội yếu nhất trong những thập niên đầu của thế kỉ XX.
Nhờ đó, Người đã hiểu được bản chất chungcuar chủ nghĩa đế quốc và màu sắc
riêng của từng nước đế quốc khác nhau; đã hiểu được trình độ phát triển cụ thể
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... của nhiều nước thuộc địa cùng cảnh ngộ.
Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh về Pháp, đến
sống và hoạt động tại Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm văn hóa, khoa học
và chính trị của Châu Âu. Đây là một sự kiện rất quan trọng trong cuộc đời của
Người. Nhờ lăn lộn với phong trào quần chúng, sát cánh với những người yêu
nước Việt Nam và những người cách mạng từ các thuộc địa của Pháp, Người đã
nhanh chóng tiếp cận với phải tả và gia nhập Đảng xã hội Pháp năm 1919 – một
chính đảng duy nhất ở Pháp lúc bấy giờ bảo vệ, tỏ sự đồng tình với cuộc đấu
tranh của các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột và theo đuổi những lý tưởng
cao đẹp của cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Người đã trở thành một
chiến sĩ xã hội chủ nghĩa. Cùng năm đó, nhân dịp hội nghị hòa bình được triệu