SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC SINH HỌC
Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Thực hiện Theo NQ 40/2000/QH 10 của Quốc Hội, toàn quốc đã tiến
hành thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông. Quá trình đổi mới toàn diện trên
nhiều lĩnh vực của giáo dục phổ thông mà tâm điểm là đổi mới chương trình
giáo dục để đáp ứng yêu cầu xây dựng đạt được mục tiêu việc “dạy chữ, dạy
người, dạy nghề”, định hướng nghề nghiệp cho học sinh (HS) trong hoàn cảnh
mới của xã hội Việt Nam hiện đại. Trọng tâm của đổi mới chương trình và sách
giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học,
thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS
với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên (GV), nhằm phát triển
tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học,
tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành.
2. Lí do chọn đề tài
Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết.
Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự
giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người GV cần nhận thức rõ
ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm
lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến
thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS
chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có
sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư
duy hệ thống. Sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) giúp các em giải quyết được các
vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng BĐTD trong các
nội dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như
hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng BĐTD trong dạy học
Sinh học” trong các tiết dạy của mình nhằm nâng cao kết quả dạy-học.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng đề tài
5
- Đề tài này được viết trong quá trình tôi dạy học, rút ra một số kinh
nghiệm từ công tác giảng dạy tại trường Trung học phổ thông (THPT). Đối
tượng được áp dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ HS trung bình khá đến đối
tượng HS giỏi các lớp, vì đây là phương pháp dạy - học. Tuỳ theo đối tượng của
HS mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến thức mới cho phù hợp,
giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm với đề tài này.
- GV dạy môn Sinh học.
- Nhận thức, thái độ, khả năng ghi nhớ vận dụng kiến thức của HS khi học
môn Sinh học.
- Chương trình sách giáo khoa, sách GV Sinh học THPT.
- Phần mềm BĐTD Buzan's iMindMap V4.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của HS THPT, khả năng tư duy
logic, khả năng ghi nhớ, phương pháp học bài thật tốt,… mà đề ra các biện pháp
tổ chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho HS.
- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản
thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học
hiện nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất
lượng của HS trong tương lai.
5. Các phương pháp nghiên cứu
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Khảo sát thực tế
- So sánh
- Phương pháp định tính
- Phương pháp định lượng
6. Điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động dạy và học ở trường THPT.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại
cho hiệu quả rõ rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây.
- HS hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của GV trở nên nhẹ
nhàng hơn vì phần chủ yếu hướng dẫn cho HS tìm ra kiến thức.
6
- Đề tài hướng dẫn chi tiết cách sử dụng phần mềm, chia sẻ, áp dụng cho
nhiều đối tượng, áp dụng rộng rãi cho nhiều công việc (học tập, lập kế hoạch,
…)
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học
và thực tiễn cao:
Ý nghĩa khoa học:
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát
huy tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát
triển tư duy của GV và HS .
Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Sinh học nói riêng và các
môn học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo trong học tập của người học.
7
Phần 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Bản đồ tư duy
BĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và
đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể
miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh,
đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ
não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng
lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên
hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới,
củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi
chương, và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, nhất là môn Sinh học nói riêng và môn Khoa học Tự nhiên nói chung, các
em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và
không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học
trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng
trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm
vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ học được
phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu
cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính
mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng
BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ
não.
Việc HS tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS,
phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc
(xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng
tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng
HS và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm”
của mình.
8
BĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người
thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông
tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành
cách ghi chép có hiệu quả.
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên
BĐTD:
1. Dùng từ khóa và ý chính
2. Viết cụm từ, không viết thành câu
3. Dùng các từ viết tắt
4. Có tiêu đề
5. Đánh số các ý
6. Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,…
7. Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng
8. Sử dụng màu sắc để ghi.
Sử dụng BĐTD giúp GV chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà trường lập kế
hoạch công tác và có cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ tiêu, phương
hướng, biện pháp,…và dễ theo dõi quá trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung
thêm các chỉ tiêu, biện pháp,…một cách rất dễ dàng so với việc viết kế hoạch
theo cách thông thường thành các dòng chữ.
2.1.2. Những kinh nghiệm khi lập BĐTD
* Các bước lập BĐTD
- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có
thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của
mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ
ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh,
đặc biệt là các màu sắc bản thân yêu thích.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn
tượng sâu sắc về chủ đề.
+ Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần
được làm nổi bật dễ nhớ
+ Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
9
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm
nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được
vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và
hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và
thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng.
Bạn hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng
đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ
cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta
thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng
thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại BĐTD
đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập.
* Phân loại BĐTD
- BĐTD theo đề cương.
- BĐTD theo chương.
- BĐTD theo đoạn văn.
* Ưu điểm của BĐTD
- Dễ nắm được trọng tâm của vấn đề .
- Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ.
- Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu.
- Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả.
- Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình.
10
- Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho HS, GV tiết kiệm thời
gian soạn giáo án, HS hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thuận lợi
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các
cấp, xã hội, phụ huynh, HS…
- Chương trình môn Sinh học THPT có nhiều nội dung phù hợp với
phương pháp giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức
cho HS lĩnh hội kiến thức
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học
tập: phòng công nghệ thông tin, đèn chiếu, bảng phụ…
- GV được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng
BĐTD trong giảng dạy.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện
tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- Phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm
sinh lý lứa tuổi HS, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học
truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích
cực.
2.2.2. Khó khăn
- Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh khỏi lúng
túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý
thông tin, vẽ, ý tưởng…
- Nội dung môn Sinh học THPT, đặc biệt là sinh học lớp 12 mới, khô,
khó, trừu tượng … nên GV khó dạy, HS khó học.
- Đòi hỏi GV phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số HS, không
gian lớp học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học…
- Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ BĐTD trong học tập
là sự máy móc không hiệu quả.
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là HS đối với bộ môn này
đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường
hoặc học cho xong.
11
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Là người GV trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục
phổ thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc
sử dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp,
thích ứng với từng hoạt động giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội
kiến thức. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phải nhấn mạnh rằng BĐTD là
một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu
quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp
khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng
tâm là sử dụng BĐTD; với kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục tiêu
của từng phần có sự phối kết hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích
những tồn tại và đưa ra những lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo
tôi là có hiệu quả nhất cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau.
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng
- Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác đinh thật chính xác cần kiểm
tra những gì. GV cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà
HS đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho HS phải chính
xác, rõ để HS không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề.
- GV phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các
bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học
tốt, sách bài tập nhằm đối phó với GV
* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng
- Tạo điều kiện thuận lợi để HS có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ
nhất những hiểu biết của các em
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của HS mà
phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em
- Thái độ và cách đối xử của GV với HS có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm
tra miệng. GV cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của HS và
trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của HS. Sự hiểu biết của GV
về cá tính HS, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những
yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức và kĩ năng của HS được
kiểm tra.
- Trong quá trình HS đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không
có lí do gì cần thiết GV cũng không nên ngắt lời của HS. Cùng là một sai sót
12
nhưng GV phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi HS trả lời
xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được
nhiều HS: trong lúc gọi một số HS lên bảng thì GV ra cho các HS ở dưới lớp
câu hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm.
- Khi tổ chức kiểm tra thì GV phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây:
khi một hay vài HS được chỉ định lên bảng thì các HS khác trong lớp cần phải
làm gì và làm như thế nào. GV gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác
nhau phù hợp với trình độ của mỗi HS sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi
các HS này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau: “Bạn trả lời như vậy
có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “Có
điểm nào sai hoặc thiếu không ?”… Ngoài những câu cơ bản, GV có thể sử
dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ
sung đó mà GV có thể hình dung được chất lượng kiến thức của HS.
* Sử dụng BĐTD.
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong
các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu,
tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ
năng mà GV có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử
dụng BĐTD. Sử dụng BĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần
hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên
các BĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông
tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ
khóa trung tâm.
Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ tiết “Phiên mã và dịch mã” Sinh học 12:
Hoàn thành BĐTD sau:
- Do bắt đầu từ một vài
năm nay, BĐTD mới được
đưa vào giảng dạy tại một
số trường nên bản đồ còn
dừng lại ở mức đơn giản ở
những tiết học đầu năm.
Tôi thường chuẩn bị
những sơ đồ trên bảng
phụ, viết nhanh trên bảng,
13
đưa trên phần mềm
PowerPoint… để không
chỉ những em được gọi lên
mà các em ở dưới lớp
cùng hoàn thành sau đó
GV thu bài, nhận xét và
chấm điểm cho một số
HS.
Ví dụ 2: Trước khi học bài “Quần thể sinh vật và mối quan hệ giữa các cá
thể trong quần thể” Sinh học 12.
Hoàn thành BĐTD sau:
- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi
thường xuyên hướng dẫn HS cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng HS hoàn
thiện những nội dung kiến thức đã học bằng BĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những
tri thức mà HS cần nắm vững. Sau đó, HS phải trình bày được những nội
dung cần nắm vững trong bài học, HS dưới lớp tham gia nhận xét bổ sung và
GV là người chốt lại kiến thức.
- Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội
dung kiến thức bài trước mà tôi còn cho HS hoàn thành trọn vẹn BĐTD dưới
hình thức cuộc thi (học mà chơi, chơi mà học), HS nào nhanh nhất, chính xác
nhất sẽ được tuyên dương và điểm cao.
Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu HS đã rất hào hứng và nhiệt tình tham
gia, làm cho phần trả bài không còn là áp lực với HS, các em không phải chỉ còn
đọc thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp
học.
2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc dạy kiến thức mới
14
* Những vấn đề tồn tại
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu
và vận dụng kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách
học của trò là yếu tố quyết định.
- Phương pháp dạy của GV
- Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là GV độc thoại, độc quyền
đánh giá, thuyết giảng làm HS nhàm chán không tập trung, chú ý những gì GV
nói.
- Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không
giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
- GV giữ vai trò chủ động điều khiển.
- Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
- Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
- Gây áp lực đến với HS dẫn đến HS bị ức chế.
- Phương pháp học của HS:
- Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ
động, ít có sự liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Sinh học
ngoài thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học.
- Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành
tích.
- Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải
nghe, ghi những gì mà GV ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách
máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài.
- Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
- Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
- Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các kiến
thức tốt hơn và lâu hơn.
* Sử dụng BĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông
hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS.
Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS tôi
đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết
định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng
BĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng
- Đối với GV:
15
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân
dẫn đến sự quên của HS. Nắm được tâm sinh lý của HS THPT để có phương
pháp giảng day cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải mái,
sôi động, sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt
hơn.
+ Trong giờ lên lớp, GV phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau
nhằm phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng
phương pháp từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng. Cụ
thể như phối hợp: Phương pháp thuyết trình, vấn đáp, trực quan…
+ Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, GV cần tìm hiểu cung cấp
cho HS nhiều tài liệu mới, tập tính, quy luật thực tế cuộc sống để giúp HS ôn tập
và củng cố những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn. Trong giờ học
trên lớp, GV có thể những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm kích thích HS tích
cực học tập và tư duy độc lập.
+ Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả
năng độc lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra
mức độ nắm vững kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi
điều kiện thuận lợi để các em có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức
của mình
+ GV cho các em trình bày kiến thức mình có được, HS làm thí nghiệm,
thực hành để các em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế.
- Đối với HS:
+ Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
+ Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học.
+ Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt.
+ Biết liên hệ, kết hợp tri thức đã học với thực tiễn.
+ Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững
các kiến thức đã học.
+ Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi GV giảng dạy.
+ Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học…
Sử dụng BĐTD
Từ đầu năm học, theo định hướng của ngành chống đọc chép, tôi đã giới
thiệu đến HS các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn, kiểu luận đề,
kiểu tự do. Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít
được biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Thông
16
thường, tôi nhận thấy ở trường HS thường được hướng dẫn ghi chép bài học
theo kiểu đề cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi chép theo kiểu tự do dành
cho việc dự hội thảo hay chuyên đề… Nhưng điều đáng quan tâm là các kiểu ghi
chép trên nếu được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo kiểu BĐTD
sẽ giúp HS nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho HS,
giúp cho các kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" HS một cách nhanh chóng, hiệu
quả hơn. Để cải thiện việc ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu HS cần lưu yùù:
+ Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới.
+ Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn
cùng lớp để ghi lại.
+ Ngoài các loại bút thông thường, HS cần trang bị thêm các loại bút dạ
quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng.
+ Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
+ Chú ý lắng nghe những lời giảng của GV. Không cần ghi lại mọi lời
giảng của GV mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não
chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy.
+ Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách
hỏi lại GV hay các bạn khác.
+ Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép.
+ Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo
khoa sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó.
Để sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các
hình thức sau cho HS:
Khi dạy HS hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên phải
để cùng HS hoàn thiện BĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Đột biến gen” Sinh học 12,
sau khi đã kiểm tra bài cũ, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Đột biến gen
I. Khái niệm và các dạng đột biến gen
1. Khái niệm
2. Các dạng đột biến gen
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau khi học
xong phần I, BĐTD xuất hiện thêm 2 nhánh
“Khái niệm”; “Các dạng” và thêm các nhánh
con, ví dụ như: “mất” “thêm” “thay thế” )
(Ở bảng bên phải cũng xuất
hiện từ khóa “Đột biến gen”)
17
Đột biến
gen
Khái
niệm
Thêm
Thay thế
Các
dạng
Mất
…………
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi
nhớ thì BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc
GV và HS đã hoàn thành xong BĐTD cho bài học.
Khi dạy HS hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như một
“bảng nháp” để cùng HS hoàn thiện BĐTD. Ngược lại, khi dùng bảng, với
những bài giảng có nội dung kiến thức ngắn, những lần đầu khi HS làm quen
với BĐTD tôi vẽ trực tiếp trên phần mềm để HS dễ quan sát và định hướng
những công việc cần làm.
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho HS hoạt động nhóm: Sau khi
đã học xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập, củng cố tôi
cho HS hoàn thành BĐTD theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ thuật “khăn phủ
bàn”.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó
HS phải lên trình bày, thuyết minh thông qua BĐTD mà GV và HS hoặc
nhóm mình đã hoàn thành. HS khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn,
là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm
của bài học. GV giới thiệu BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các
nhóm HS có chung 1 kiểu BĐTD, tôi chỉ chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và
góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức (nếu cần).
Ví dụ: BĐTD hình thành sau khi học xong bài “Hệ sinh thái”
18
Qua việc hướng dẫn cách ghi, cách học bài nói trên, tôi nhận thấy HS dần
dần có những thay đổi đáng kể. Cụ thể, các em đã tự tin hơn trong việc ghi chép
ở lớp và chuẩn bị bài ở nhà thông qua sự hướng dẫn của tôi. Và, tôi nghĩ rằng
việc hệ thống kiến thức sẽ rất dễ dàng với các em khi các em đã quen với cách
làm việc có hệ thống như trên.
2.3.3. Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố
dẫn đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp HS nhớ lại và khắc
sâu kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, HS còn có thể tự
đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương
pháp học sao cho phù hợp.
Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, GV sẽ giúp HS phát huy
tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và
phát triển tư duy cho HS.
Củng cố bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa GV và HS. Điều đó
tạo hứng thú học tập cho HS, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học, tạo điều kiện
để HS phát biểu ý kiến.
Một số phương pháp củng cố bài thường dùng:
19
Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu.
Biện pháp củng cố này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng
phân tích, so sánh và móc nối các kiến thức.
Thường áp dụng với những bài mang tính so sánh hay tổng quát, có thể sử
dụng các sơ đồ, bảng biểu để hệ thống lại kiến thức.
Củng cố bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập.
Biện pháp này đánh giá việc học của HS, rèn cho HS khả năng diễn đạt.
Nhưng sẽ tạo áp lực cho các HS tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp.
Phương pháp áp dụng đối với những bài học nhiều lý thuyết.
Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức các trò chơi.
Biện pháp này tạo sự vui vẻ, hứng khởi cho HS đối với môn học. Nhưng
có hạn chế là tốn nhiều thời gian để tổ chức cho lớp tham gia trò chơi. Nguyên
tắc cơ bản là trò chơi phải đơn giản, đi sâu vào vấn đề trọng tâm của bài.
Củng cố bài giảng bằng cách cho HS tự tổng kết kiến thức.
Biện pháp củng cố này rèn cho HS kĩ năng trình bày vấn đề trước đám
đông và kĩ năng tóm lược vấn đề Phương pháp áp dụng với những bài nội dung
đơn giản, dễ tổng kết lại kiến thức.
Trên đây là một vài phương pháp củng cố bài học mà tôi và các bạn chắc
chắn đã dùng trong các tiết dạy của mình. Mỗi phương pháp có một ưu nhược
điểm riêng và khi dùng BĐTD, chúng ta có thể khắc phục các nhược điểm, phát
huy tối đa các ưu điểm. Sử dụng BĐTD gần như là một biện pháp có thể kết
hợp các phương pháp trên với nhau một cách linh hoạt, hiệu quả (Đó là trò
chơi, là sơ đồ tổng kết, có những câu hỏi củng cố…). Tôi nhận thấy rằng BĐTD
là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm
hứng và niềm say mê học tập cho HS. Đặc biệt, BĐTD rất phù hợp cho việc đọc,
ôn tập, ghi chú
Có thể nói, đây là công cụ vô giá không những giúp cho HS mà cả GV
trong việc thu thập, phân loại thông tin. Từ đó, tôi đã mạnh dạn vạch ra kế hoạch
để hướng dẫn HS học tập theo BĐTD này. Khi mới áp dụng BĐTD vào việc
củng cố bài học ở lớp nói riêng và áp dụng cho các kiểu bài nói chung, tôi thông
qua trò chơi cho HS là sắp xếp các thẻ ôn bài, tóm tắt đề mục chính của bài học
để tập dần cho HS nhớ các từ khóa (nội dung chính cần nắm) của bài học. Cụ
thể, tôi lấy ví dụ sau khi học xong bài Đột biến số lượng NST (tiếp theo) Sinh
học 12 tôi đã thực hiện việc củng cố như sau:
20
Tôi cho HS chuẩn bị trước các thẻ ôn bài với các từ khóa:
Sau đó, tôi đảo các thẻ để 2 nhóm 3-5 em tổ chức thi đua hoàn thành bằng
cách dán trên bảng hoặc cá nhân (tùy vào đối tượng lớp) chọn lựa, sắp xếp và
nối các đường liên kết từ các thẻ lại sao cho hợp lí nhất. Kết quả thu được sau
củng cố bài là hai dạng sơ đồ như sau:
Dạng sơ đồ thứ nhất:
21
ĐỘT BIẾN NST MẤT ĐOẠN
LẶP ĐOẠN
ĐẢO ĐOẠN
HIỆN TƯỢNG ĐA BỘI
HIỆN TƯỢNG DỊ BỘI
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
MẤT
ĐOẠN
LẶP
ĐOẠN
ĐẢO
ĐOẠN
HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI
HIỆN
TƯỢNG DỊ
BỘI
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
ĐỘT BIẾN NST
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST
Dạng sơ đồ thứ 2:
Dạng sơ đồ thứ 3:
22
MẤT
ĐOẠN
LẶP
ĐOẠN
ĐẢO
ĐOẠN
HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI
HIỆN
TƯỢNG DỊ
BỘI
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
ĐỘT
BIẾN NST
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST
MẤT
ĐOẠN
LẶP
ĐOẠN
ĐẢO
ĐOẠN
HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI
HIỆN
TƯỢNG DỊ
BỘI
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
ĐỘT
BIẾN NST
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST
Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức
yêu cầu, cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi
được học, tự tin khi thuyết trình trước mọi người về BĐTD của nhóm mình hoặc
của bản thân hoặc của nhóm khác, bạn khác. Sau đó, tôi khuyến khích, gợi mở,
hướng dẫn các em đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện ở các em
có nhiều sáng tạo rất hay trong việc sắp xếp các thẻ ôn bài ở ví dụ minh họa
trên.
Tuy nhiên, sau khi HS đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng
BĐTD thì không phải tiết nào cũng củng cố qua các thẻ ôn bài vì như vậy sẽ gây
nhàm chán, mất thời gian. Vì vậy một biện pháp khác tôi đưa ra là sau khi HS đã
làm bài tập, trả lời các câu hỏi phần củng cố thì dùng máy chiếu cho hiển thị từ
khóa trung tâm sau đó phát vấn HS về những nội dung đã học trong bài, dùng
hiệu ứng của phần mềm PowerPoint lần lượt đưa ra theo mục đích giảng dạy.
Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em
nhớ bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với
việc củng cố bài học, khi HS đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài
phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như
hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng của tôi là
giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành
một BĐTD hoàn hảo.
Chắc hẳn với nhiều người khi dùng BĐTD cũng đang gặp khó khăn khi
đưa hình ảnh từ phần mềm Buzan's iMindMap vào phần mềm PowerPoint sao
cho ta hiệu ứng lần lượt được các nhánh theo đúng ý tưởng. Dưới đây, bằng kinh
nghiệm của mình tôi thường dùng theo cách sau:
- Cách 1: Để BĐTD đã hoàn thành hiển thị trên màn hình máy tính. Ấn
nút Print Screem (nút chụp màn hình) trên bàn phím để chụp hình ảnh đang trên
màn hình máy tính. Sau đó mở Paint (phần mềm vẽ tranh đơn giản) bằng cách
vào Start \ Programs \ Accessories \ Paint. Nháy chuột trái vào biểu tượng Select
trên thanh công cụ rồi đưa chuột ra nền trắng nháy chuột phải và chọn
Paste (hoặc ấn Ctrl + V) để dán ảnh vừa chụp vào. Lại nháy chuột trái vào biểu
tương Select rồi đưa ra màn hình, lúc này chuột biến thành hình dấu +, rê chuột
thành khung hình chữ nhật vào nơi ta định cắt, nháy chuột phải vào vùng vừa cắt
chọn Copy (hoặc ấn Ctrl + C) để dán phần ảnh đó sang PowerPoint. Trong
trường hợp ảnh có nhiều phần trắng che lấp các ảnh khác ta dùng chức năng
Order để sắp xếp các lớp ảnh trong PowerPoint.
23
- Cách 2: Sau khi hoàn thành xong BĐTD các thầy cô có thể dùng chức
năng ẩn hiện nhánh có trực tiếp tại phần mềm.
Ví dụ: Củng cố bài “Hệ sinh thái” Sinh học 12, tôi đã dùng như sau:
GV: Vừa rồi chúng ta đã cùng tìm
hiểu các nội dung kiến thức trong
bài Hệ sinh thái. Bây giờ các em
hãy trình bày những kiến thức
trọng tâm đã được học. GV đưa từ
khóa Hệ sinh thái trên máy chiếu.
? Bài Hệ sinh thái chúng ta tìm
hiểu mấy nội dung kiến thức? Đó
là những nội dung nào?
HS đứng tại chỗ trả lời, HS khác
nhận xét, bổ sung (nếu cần)
GV đưa ra những nội dung trên
máy chiếu
? Nêu khái niệm hệ sinh thái.
? Nêu thành phần, cấu trúc của hệ sinh thái
? Nêu các kiểu hệ sinh thái
GV cho hiệu ứng ra hai nhánh tiếp theo sau khi HS đã phát biểu
24
Nháy vào đây để
ẩn (hiện) các
nhánh.
GV đưa lần lượt các nội dung kiến thức.
Khi trình bày ví dụ với các thầy cô như vậy xem ra khá dài dòng, nhưng
thực chất công việc củng cố chỉ diễn ra từ 2-3 phút. Sau khi xuất hiện BĐTD
đầy đủ cùng với các hình ảnh, GV nên để cho HS trình bày lại đầy đủ các nội
dung và để thời gian cho các em quan sát, ghi nhớ. Cuối cùng GV là người chốt
lại, khắc sâu kiến thức cho HS.
2.3.4. Sử dụng BĐTD trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức
* Những điểm cần chú ý về mặt phương pháp khi tiến hành bài ôn tập, tổng
kết
Bài ôn tập tổng kết không phải ch| là sự tái hiện, giảng lại kiến thức
cho học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận
dụng, nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho học sinh. Vì
vậy cần có sự xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến thức, kˆ năng cần
hệ thống, khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả năng
nhận thức của học sinh.
25
Hệ thống kiến thức bài học
Hệ thống kiến thức bài học
Hệ sinh thái
Hệ sinh thái
Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức cần khái quát, hệ thống
cho một chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình
phát triển của kiến thức, cùng các kˆ năng cần rèn luyện.
Phương pháp dạy học được sử dụng chủ yếu trong giờ ôn tập là đàm
thoại tìm t}i, sử dụng bài tập Sinh học. Việc khái quát hóa kiến thức, phát
triển tư tưởng, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu
hỏi dẫn dắt giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát
chúng ở dạng tổng quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu
hỏi cho từng phần kiến thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức,
đào sâu phát triển kiến thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu
vấn đề để học sinh trình bày suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát
của mình.
Sự trình bày các bài tổng kết: Tùy theo nội dung cần tổng kết và sự phát
triển của kiến thức, bài tổng kết có thể trình bày theo các đề mục, các vấn đề của
nội dung mang kiến thức cần ôn tập. Đồng thời bài tổng kết cũng có thể trình
bày ở dạng các bảng tổng kết, các sơ đồ thể hiện mối liên hệ các kiến thức giúp
học sinh dễ nhìn, dễ nhớ và hệ thống hóa kiến thức ở dạng khái quát cao. Khi
xây dựng các bảng tổng kết cần rõ ràng các sơ đồ dễ nhìn, đảm bảo tính khoa
học và thẩm mˆ.
GV, HS cần có sự chuẩn bị chu đáo t| m| cho giờ ôn tập tổng kết:
Ngoài việc chuẩn bị nội dung, kiến thức, câu hỏi cho bài ôn tập, hệ thống kiến
thức đã đựơc trình bày trong sách giáo khoa, GV cần chuẩn bị thêm một số kiến
thức để mở rộng, đào sâu kiến thức và một số dạng bài tập mang tính vận dụng
sâu kiến thức trong các sách tham khảo, sách bài tập Sinh học Các kiến thức,
bài tập được lựa chọn cần đảm bảo trên cơ sở kiến thức phổ thông HS có thể
hiểu vận dụng được, có tính chất mở rộng, giải quyết được một phần thắc mắc
học sinh đặt ra khi đọc các sách tham khảo khác.
* Sử dụng BĐTD
BĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Thông
thường tôi tiến trình theo sơ đồ: 1. Sơ đồ hóa kiến thức 2. Nội dung cần ôn
tập 3. Ôn tập tổng kết.
Bước 1. Thông thường tôi thường giao cho HS về nhà hoàn thiện (Cách
làm này cũng được áp dụng dạy kiến thức mới khi HS đã thành thạo với BĐTD)
Trước khi vào nội dung 2 tôi dành thời gian kiểm tra sự chuẩn bị cũng như kiểm
tra sự ghi nhớ kiến thức của HS bằng cách gọi một vài HS lên bảng trình bày
những nội dung kiến thức mà mình đã thể hiện trong BĐTD. Riêng phần này tôi
26
cho các em thoải mái trình bày theo những ý tưởng đã sắp xếp, HS khác và tôi
chỉ làm thêm nhiệm vụ là bổ sung những nội dung còn thiếu trong những phần
đã học trong BĐTD.
Bước 2. Tôi hướng dẫn HS ôn tập theo những chủ điểm đã có trong
BĐTD.
Bước 3. Tôi cho HS hoàn thiện BĐTD của mình như phần củng cố bài
học:
Chú ý phân phối thời gian hợp lý: Thời gian 1 tiết học 45 phút, nên vấn đề
cần quan tâm để đạt hiệu quả là việc phân phối thời gian hợp lý. Do đó, tôi dùng
thời gian của những bài học ngắn khoảng 5 - 9 phút để thực hiện.
Khoảng 2 - 4 phút: Các em bổ sung yù tưởng riêng của mình và trao đổi
với các bạn cùng nhóm.
Khoảng 2 - 3 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm
mình.
Thời gian còn lại, tôi cùng các HS góp yù, đánh giá, trình chiếu sơ đồ mà
tôi đã vẽ sẵn bằng phần mềm và cả bản vẽ BĐTD trên giấy để các em đối chiếu,
so sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
Qua BĐTD hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc
biệt là các từ khóa và để HS hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ
đồ. Có thể nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí
nhớ được sâu và dài hơn so với các phương pháp khác.
27
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với những biện pháp trên tôi đã áp dụng vào các kiểu bài dạy: Dạy bài
học tìm hiểu kiến thức mới, tiết ôn tập tổng kết… và áp dụng trong các phần
như: kiểm tra bài cũ, củng cố kiến thức hoặc xuyên suốt quá trình của một tiết
học.
HS tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, nắm vững kiến thức sâu
hơn và có khả năng nhớ lâu hơn nhờ tác dụng của sơ đồ tạo hình sinh động và
khoa học. Theo chủ quan tôi phân ra 5 cấp độ cho HS khi học theo BĐTD
Cấp độ 1: HS quan sát BĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn
Cấp độ 2: HS tái hiện lại BĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến thức
cần trình bày trong BĐTD
Cấp độ 3: HS tự vẽ được BĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến thức
Cấp độ 4: HS tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng BĐTD
Cấp độ 5: HS trình bày được các nội dung kiến thức đã học, đã tìm hiểu
mà không cần bất kì tài liệu nào.
Bên cạnh đó, vẫn có những vấn đề còn bỏ ngỏ chưa được nghiên cứu
trong đề tài như: Sử dụng BĐTD trong các tiết thực hành, tiết bài tập, rèn khả
năng ghi chép (kiểm tra viết) đầy đủ dựa trên BĐTD và tái hiện BĐTD (khi
không có bất kì tài liệu nào) tránh trường hợp HS chỉ nhớ ý, nhớ có mấy ý mà
không biết diễn tả đầy đủ… rất mong được sự góp ý, đánh giá của độc giả.
Kết quả cụ thể
Kết quả bài khảo sát của hai lớp 12H (Sử dụng BĐTD) và 12I (Không sử
dụng BĐTD) (hai lớp có số HS và lực học tương đương) cụ thể qua bảng so
sánh sau:
Sĩ số
Giỏi
8,0-10
Khá
6,5-7,9
T. Bình
5,0-6,4
Yếu
3,0-5,0
Kém
0,0-3,0
12H 48 8 26 10 4 0
12I 48 3 20 16 7 2
Nhận xét Áp dụng
BĐTD
HS từ TB trở lên tăng, đặc biệt
điểm giỏi
HS yếu, kém giảm
- Tôi hi vọng các GV, HS sẽ sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức một
cách vững vàng hơn không những ở bộ môn Sinh học mà có thể vận dụng được
cho tất cả các bộ môn khác. Ngoài ra, có thể áp dụng dạng BĐTD này vào trong
28
cuộc sống hằng ngày như lập kế hoạch, thời gian làm việc hay vẽ ra những lựa
chọn cho tương lai…
- Bằng những kinh nghiệm tôi đã rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường,
qua những bài học thu được trong việc dự giờ các đồng nghiệp, đặc biệt là sự
giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn trường. Tôi
đã hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm "Sử dụng BĐTD trong dạy học Sinh học" .
- Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp chuyên môn
để vốn kinh nghiệm giảng dạy của tôi được phong phú hơn.
2. Kiến nghị
Để đáp ứng được mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt là
với môn Sinh học tôi có một số kiến nghị sau:
- Vận dụng BĐTD vào việc hệ thống hóa kiến thức các chương trong
chương trình Sinh học THPT.
- Cũng giống như BĐTD, bản thân nó đã là một sơ đồ mở, có thể thêm
bớt, thay đổi linh hoạt mềm dẻo sao cho khả năng ghi nhớ vận dụng là tốt nhất.
Phương pháp dạy học cũng vậy, ta không nên tuyệt đối hóa cũng như phủ định
bất kì một phương pháp nào cho dù là truyền thống hay hiện đại vì bao giờ nó
cũng bao gồm ưu điểm và nhược điểm. Vậy nên, trên đây tôi đã nêu ra những cơ
sở lí luận, phương hướng, biện pháp thường dùng thông thường đã mang lại hiệu
quả và đan xen vào nó là sử dụng BĐTD để cho tiết học thêm phần sôi nổi, GV
linh hoạt trong các phương pháp dạy học giáo dục, tiết học không nhàm chán,
HS hứng thú tiếp thu bài học, vận dụng sáng tạo vào bài tập và thực tiễn.
- Cần tổ chức cho GV dạy Sinh học, đồng chí phụ trách thiết bị được học
bồi dưỡng sử dụng thiết bị, sử dụng phần mềm từ đầu năm học.
- Vì các giờ dạy Sinh học thường có nhiều đồ dùng, mẫu vật thực hành
khi dạy bằng phương pháp mới cũng đòi hỏi có sự đầu tư cơ sở vật chất nên cần
sắp xếp thời khóa biểu cho gọn, đầu tư máy tính máy chiếu cho lớp học.
- Nhà trường, tổ chuyên môn cần có những chuyên đề, thảo luận về sử
dụng BĐTD và xây dựng thư viện BĐTD để GV và HS có thể khai thác, sử
dụng.
Trên đây là một số ý kiến của tôi, kính mong các cấp lãnh đạo nghiên cứu
và xem xét để đề tài được áp dụng rộng rãi nhằm thực hiện tốt mục tiêu đổi mới
giáo dục và giảng dạy bộ môn đạt hiệu quả cao.
29