Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

HỆ THỐNG QUẢN lý môi TRƯỜNG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.68 KB, 35 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP TUY HOÀ
KHOA CÔNG NGHỆ HOÁ
PHẠM THỊ HỮU KIỀU
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY HỌC PHẦN
HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG DOANH NGHIỆP
DÙNG CHO SINH VIÊN CAO ĐẲNG
NGÀNH CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
PHÚ YÊN – 2011
Chương 1: Mở đầu
1.1 Khái quát về hệ thống quản lý môi trường doanh nghiệp
Quản lý môi trường ở doanh nghiệp
"Quản lý môi trường ở doanh nghiệp" là phân tích toàn diện về vai trò của doanh
nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Tài liệu này giới thiệu tình hình và những vấn
đề chung, sau đó xem xét một cách kỹ lưỡng và chi tiết tất cả những công cụ chủ
chốt trong quản lý môi trường ở doanh nghiệp, bao gồm: các hệ thống quản lý môi
trường và các tiêu chuẩn quản lý môi trường; các chính sách môi trường, những
nguyên tắc chỉ đạo và các quy định; hệ thống kiểm tra môi trường; đánh giá chu kỳ
biến đổi; đánh giá công tác môi trường và báo cáo môi trường. Tài liệu này chú trọng
đến quản lý môi trường có hệ thống và cũng xem xét sự phối hợp hành động giữa
chính quyền địa phương với các công ty cỡ vừa và nhỏ. Sau đó, sẽ mở rộng ra để bàn
về công tác quản lý môi trường liên tục, tiến đến xây dựng một hồ sơ môi trường của
doanh nghiệp và tiếp tục theo hướng phát triển bền vững.
Giáo dục môi trường trong các doanh nghiệp là một trong những nội dung, biện pháp
giáo dục môi trường cộng đồng có ý nghĩa thực tiễn, sinh động và mang lại hiệu quả
rõ rệt trong việc nâng cao dân trí về bảo vệ môi trường cho cán bộ công nhân viên
chức (CNVC) trong khối các doanh nghiệp của Hà Nội.
Có thể nói rằng các doanh nghiệp vừa là nhân vừa là quả của vấn đề bảo vệ môi
trường. Đặc biệt là môi trường lao động. Nếu không làm tốt việc bảo vệ môi trường
thì các yếu tố độc hại thoát ra sẽ làm ô nhiễm ngay trong môi trường của các doanh


nghiệp và tất nhiên sẽ làm ô nhiễm tới các khu vực xung quanh trực tiếp hoặc gián
tiếp gây tác hại đến sức khỏe cộng đồng.
Ngoài ra những thông tin về bảo vệ môi trường như tờ rơi, tranh cổ động, áp phích
tuyên truyền về Ngày Môi trường thế giới, Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn
v.v được dán trên các bảng thông tin đặt nơi có nhiều CNVC qua lại như nhà ăn,
phòng họp, nhà căng tin v.v đã có tác dụng tốt trong việc truyền đạt những thông
tin về môi trường đến CNVC trong các doanh nghiệp. Việc tổ chức phòng trào
"Xanh, Sạch, Đẹp" trong các doanh nghiệp là hướng CNVC vào những việc làm cụ
thể về bảo vệ môi trường trong thực tiễn sản xuất và cũng trên cơ sở đó nâng cao
thêm một bước về nhận thức bảo vệ môi trường cho CNVC và người lao động.
Thông qua phong trào bảo vệ môi trường trong các doanh nghiệp, người lao động sẽ
tự giác làm chủ trong việc ngăn ngừa giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường tại nơi mình
làm việc và cũng ngăn ngừa sự ô nhiễm cho môi trường sống của dân cư xung quanh
các doanh nghiệp.
Giáo dục môi trường trong các doanh nghiệp góp phần mang lại những hiệu quả về
bảo vệ môi trường và cũng mang lại nhiều lợi ích về kinh tế cho các doanh nghiệp
như tạo ra những sản phẩm sạch có chất lượng cao, tăng thêm uy tín của sản phẩm
đối với người tiêu dùng, môi trường lao động của doanh nghiệp cũng được cải thiện
hơn. Vấn đề này càng quan trọng khi đất nước ta đang phát triển kinh tế theo xu
hướng hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới. Trong xu thế hòa nhập môi trường
toàn cầu hóa hiện nay, thị trường của các nước có nền kinh tế phát triển chủ trương
không nhập khẩu những sản phẩm của các công ty, xí nghiệp không có biện pháp về
bảo vệ môi trường như tái chế chất thải, xử lý nước thải v.v với mục đích là bắt
buộc các doanh nghiệp phải làm tốt việc bảo vệ môi trường theo hướng phát triển
bền vững. Đây là một vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế cần có những quyết
định đúng đắn đối với vấn đề phát triển bền vững của đất nước.
1.2. Hệ thống tổ chức quản lý môi trường doanh nghiệp ở Việt Nam
1.2.1. Lịch sử quản lý môi trường Việt Nam
Mỗi một hoạt động của con người đều có tác động đến tài nguyên Môi trường xung
quanh chiều hướng thuận lợi hay không thuận lợi cho đời sống và phát triển của con

người. Ngay từ xa xưa con người đã có những hình thức nhằm bảo vệ tài nguyên
như hình thành các quy ước bảo vệ rừng đầu nguồn, hay lập các miếu thờ đề dựa vào
uy thế của thần linh nhằm ngăn cấm việc phá rừng…
Chỉ khi xã hội phát triển, nhờ tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà kinh tế tăng trưởng
nhanh, song tài nguyên cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị đảo lộn, chất lượng môi
trường sống suy thoái thì quản lý môi trường đã trở thành một hoạt động cụ thể của
quản lý Nhà nước. Ở Việt nam công tác Quản lý môi trường đã được quan tâm đến
từ năm 1962, khi chúng ta thành lập vườn quốc gia Cúc phương.
Năm 1986, lần đầu tiên ở Việt Nam , với sự hợp tác của các chuyên gia Liên Hiệp
Quốc, Hội Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN), các nhà khoa học Việt Nam đã soạn
thảo "chiến lược quốc gia bảo vệ thiên nhiên". Bản chiến lược có ý nghĩa như là
khởi đầu cho quá trình quản lý tài nguyên, môi trường ở Việt Nam. Và cũng vào năm
1986 chương trình quốc gia nghiên cứu về tài nguyên và môi trường với sự cộng tác
của IUCN, đã đề xuất với Nhà nước CHXHCN Việt Nam một chiến lược quốc gia
về bảo vệ môi trường. Trên cơ sở chiến lược này, trong các năm 1990 - 1991 một kế
hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững đã được Hội đồng Bộ trưởng
CHXHCN Việt Nam chấp nhận và chính thức ban hành ngày 12 - 06 - 1991.
Kế hoạch quốc gia đã xác định mục tiêu lớn về thể chế và tổ chức là"
- Thành lập cơ quan quản lý môi trường
- Xây dựng chính sách và luật pháp về môi trường
- Thành lập mạng lưới quan trắc môi trường
- Lập kế hoạch tổng hợp về sử dụng và phát triển tài nguyên
- Xây dựng các chiến lược phát triển lâu bền cho các ngành
- Đánh giá tác động môi trường
- Soạn thảo chiến lược môi trường và phát triển bền vững
Kế hoạch quốc gia cũng vạch ra 7 chương trình hành động:
- Quản lý phát triển đô thị và dân số
- Quản lý tổng hợp các lưu vực
- Kiểm soát ô nhiễm và chất thải
- Quản lý tổng hợp vùng ven biển

- Bảo vệ đa dạng sinh học
- Bảo vệ các vùng đất ngập nước
- Quản lý các vườn quốc gia và các khu bảo vệ.
Một sự kiện quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường, đó là tháng 12 năm
1993, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ IV đã thông qua luật
Bảo vệ Môi trường. Và ngày 18 tháng 10 năm 1973, Nghị định 175 CP đã ban hành
để hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường.
Về tổ chức bộ máy quản lý môi trường, năm 1992 Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường được thành lập, mà tiền thân của nó là UBKHKT Nhà nước, với chức năng là
quản lý Nhà nước về môi trường.
Các sở Khoa học - Công nghiệp - Môi trường các địa phương sau đó được thành lập
với chức năng là quản lý Nhà nước về môi trường ở địa phương.
Do yêu cầu nhiệm vụ của công tác quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trường phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, tại kỳ họp
thứ nhất, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá XI, ngày 05 tháng
8 năm 2002 đã quyết định thành lập Bộ tài nguyên và môi trường trên cơ sở 3 đơn vị
chủ yếu hiện có gồm cục môi trường; tổng cục địa chính và tổng cục khí tượng thuỷ
văn.
Cho đến nay, ở Việt Nam đã hình thành hệ thống tổ chức Quản lý Nhà nước về
Môi trường từ trung ương đến địa phương.
1.2.2. Hệ thống tổ chức quản lý môi trường doanh nghiệp ở Việt Nam
Hệ thống tổ chức Quản lý môi trường ở Việt Nam theo quy định của luật Bảo vệ môi
trường (điều 38) và nghị định 175 CP.
- Theo nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường trong cả nước.
- Bộ Khoahọc, Công nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ theo chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
thực hiện việc bảo vệ môi trường trong ngành và các cơ sở thuộc quyền quản lý trực

tiếp.
- Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương.
- Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong việc bảo vệ Môi trường ở địa phương. Điều
39 luật Bảo vệ Môi trường cũng quy định: Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường do chính phủ
quy định.
Như vậy trong thực tế từ trước tới nay hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam vừa
kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.
Nhằm đáp ứng kịp thời về cơ cấu tổ chức và ổn định đi vào hoạt động của bộ tài
nguyên và môi trường, ngày 11 tháng 11 năm 2002, thủ tướng chính phủ đã ký nghị
định của chính phủ ban hành số 91/2002/NĐ-CP về “Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường”. Tại điều 1 của nghị
định này qui định về vị trí và chức năng của bộ đã chỉ rõ: “Bộ tài nguyên và Môi
trường là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài
nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn,
đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực
hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nứơc
trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường,
khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật”.
Tại điều 3 của nghị định này cũng quy định rõ cơ cấu tổ chức của bộ gồm hai bộ
phận cấu thành cơ bản, thứ nhất là các tổ chức giúp bộ trưởng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước gồm 16 bộ phận, thứ hai là các tổ chức sự nghiệp của bộ gồm 6 bộ
phận.
Đối với các tổ chức giúp bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước gồm: vụ
đất đai; vụ đăng ký và thống kê đất đai; vụ môi trường; vụ thẩm định và đánh giá tác
động môi trường; vụ khí tượng thuỷ văn;vụ khoa học-công nghệ; vụ kế hoạch-tài
chính; vụ hợp tác quốc tế; vụ pháp chế; vụ tổ chức cán bộ; cục quản lý tài nguyên
nước; cục địa chất và khoáng sản Việt nam; cục bảo vệ môi trường; cục đo đạc bản

đồ; thanh tra và văn phòng.
Các tổ chức sự nghiệp thuộc bộ gồm: trung tâm khí tượng thuỷ văn quốc gia; trung
tâm điều tra quy hoạch đất đai; trung tâm viễn thám; trung tâm thông tin; tạp chí tài
nguyên và môi trường; báo tài nguyên và môi trường.
Như vậy có thể khẳng định rằng, với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức mới,
vai trò quản lý Nhà nước về môi trường và tài nguyên thiên nhiên sẽ được tăng
cường phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
1.3. Các văn bản pháp lý hiện hành liên quan tới quản lý môi trường ở Việt
Nam
1.3.1. Hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường
Văn kiện Đại hội Đảng và Nghị quyết của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam có ý
nghĩa chiến lược chỉ đạo toàn bộ côngtác bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Luật bảo vệ môi trường ban hành 1/1993 là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt
động bảo vệ môi trường.
Ngoài luật bảo vệ môi trường, còn có một số luật khác liên quan đến môi trường,
được ban hành trước và sau luật bảo vệ môi trường
Luật Hàng hải
Luật Đất đai
Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng
Luật Lao động
Luật Dầu khí
Luật Tài nguyên nước
Luật Khoáng sản
Luật Bảo vệ Sức khoẻ của Nhân dân
Và các pháp lệnh:
Pháp lệnh thú y, Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Pháp lệnh bảo vệ đê điều,
Pháp lệnh bảo vệ và kiểm định.
Hệ thống pháp luật về Môi trường là cơ sở pháp lý quan trọng cho toàn bộ công tác
bảo vệ môi trường ở nước ta. Nó còn tạo cơ sở pháp lý cho toàn bộ hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội trên đất nước, đồng thời nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự

hợp tác quốc tế đầu tư, nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường.
1.3.2. Kế hoạch quốc gia về môi trường
Năm 1986, Việt Nam đã công bố "chiến lược quốc gia bảo vệ thiên nhiên. Xuất bản
dự thảo Chiến lược quốc gia về bảo tồn (sửa đổi theo quyết định số 246/HĐBT
ngày 20/9/1985)
Năm 1991, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thông qua Kế hoạch Quốc gia về môi
trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000 (chỉ thị 187/CT ngày
29912/6/1991). Năm 2000, Trình Chính phủ Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi
trường giai đoạn 2001 – 2010 (9/2000).
Các kế hoạch quốc gia về môi trường đề ra các mục tiêu về môi trường trong giai
đoạn và xây dựng chương trình hành động để đạt được mục tiêu đó.
1.3.3. Nghị định của chính phủ
- Ngày 18 - 10 - 1994, Chính phủ ban hành NĐ 175 CP "Về việc hướng dẫn thi
hành luật bảo vệ môi trường"
- 26 - 4 - 1996, Chính phủ ban hành NĐ 26/ CP "Xử phạt hành chính về vi phạm môi
trường"
- Năm 1995, Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam được ban hành
Ngoài ra, Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường đã có nhiều thông tư về hướng
dẫn công tác Đánh giá tác động môi trường, về công tác thanh tra môi trường, các
quyết định liên quan khác đến lĩnh vực quản lý nhà nước về môi trường.
1.3.4. Các chỉ thị, quyết định.
- 25-6-1998 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam ra Chỉ thị 36-
CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Thủ tướng chính phủ cũng đã có nh ững chỉ thị quan trọng như:
- Chỉ thị số 200/TTg ngày 29/4/1994 về đảm bảo nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn.
- Chỉ thị số 406/TTg ngày 8/8/1994 về việc cấm sản xuất và buôn bán pháo nổ.
- Chỉ thị số 199/TTg ngày 3/4/1997 về những biện pháp cấp bách trong công tác

quản lý chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghịêp.
- Chỉ thị số 29/1998 về tăng cường công tác quản lý việc sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật và các chất hữu cơ gây ô nhiễm khó phân huỷ.
Các quyết định đáng lưu ý liên quan đến quản lý nhà nước về môi trường trong thời
gian vừa qua như:
- Quyết định số 07/TTg ngày 3/1/1997 về thành lập ban điều hành quốc gia Quỹ môi
trường toàn cầu việt nam.
- Quyết định số 152/1999/QĐ-TTg ngày 10/7/1999 về việc phê duyệt Chiến lược
quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt nam đến 2020.
- Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/7/1999 của thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại.
- Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg ngày 26/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập, tổ chức hoạt động của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam.
1.3.4. Sự tham gia của Việt Nam vào các công ước quốc tế về môi trường
Như tuyên bố của chính phủ Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh RIO - 1992, Việt
Nam cam kết bảo vệ môi trường của nước mình và hợp tác cùng các nước trong khu
vực và trên thế giới để góp phần bảo vệ môi trường của khu vực và môi trường
chung của toàn cầu.
Vì vậy, chúng ta coi trọng việc hợp tác về môi trường để nâng cao năng lực bản thân,
nhằm giải quyết những vấn đề môi trường của mình và góp phần trong nỗ lực chung
của thế giới.
* Việt nam hợp tác với các tổ chức quốc tế và các chính phủ.
Nhiều tổ chức quốc tế đã hợp tác và giúp đỡ nước ta dưới các hình thức viện trợ, các
dự án trợ giúp kỹ thuật, chủ yếu nhằm nâng cao năng lực của ta trong hoạch định
chính sách, tìm hiểu và lựa chọn các biện pháp trong quản lý, điều hành, cũng như
giải pháp có tính công nghệ trong một số lĩnh vực về môi trường.
Đó là các tổ chức như: UNDP, UNEP, FAO, WHO, UNICEP, WWF, IUCN…
Việc hợp tác và trợ giúp quốc tế còn được thể hiện thông qua quan hệ song phương
giữa chính phủ ta với các chính phủ như: Thuỵ Điển, Phần Lan, Liên Xô (trước đây),
Pháp, Canađa, Hà Lan, CHLB Đức, Oxtraylia, Nhật Bản, Đan Mạch, Singapo, Thái

Lan…
* Việt Nam tham gia các công ước quốc tế:
Nước ta đã tham gia các công ước quốc tế sau đây:
- Công ước liên quan đến bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên thế giới 1972. Ký
ngày 19/10/1982.
- Công ước IAEA về thông báo sớm sự cố hạt nhân, 1985. Ký ngày 29/9/1987.
- Công ước về trợ giúp trong các trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về
phóng xạ, 1986. Ký ngày 29/12/1987.
- Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là
nơi cư trú của các loài chim nước RAMSAR, 1971. Ký ngày 20/9/1989.
- Thoả thuận về mạng lưới các trung tâm thuỷ sản ở châu á-Thái bình Dương,
1998. Ký ngày 02/2/1989.
- Công ước của LHQ về sự biến đổi môi trường. Ký ngày 26/8/1990.
- Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do tàu thuyền MARPOL. Ký ngày
29/8/1991.
- Công ước về buôn bán quốc tế những loài động, thực vật hoang giã có nguy cơ bị
đe doạ 1973 (Công ước CITES). Ký ngày 20/1/1994.
- Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô Zôn, 1987. Ký ngày
26/1/1994.
+ Bản bổ sung Luân Đôn cho Công ước Luân Đôn, 1990
+ Bản bổ sung Copenhagen, 1992
- Công ước Viên về bảo vệ tầng Ô zôn, 1985. Ký ngày 26/4/1994.
- Công ước của LHQ về Luật Biển, 1982. Ký ngày 25/7/1994.
- Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu, 1992. Ký ngày 16/11/1994.
- Công ước về Đa dạng sinh học (CBD), 1992. Ký ngày 16/11/1994.
- Công ước Bazen về kiểm soát và vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và
việc loại bỏ chúng, 1989. Ký ngày 13/3/1995.
- Công ước chống sa mạc hoá. Ký kết 11/1998.
- Tuyên ngôn quốc tế của Liên hợp quốc về sản xuất sạch hơn. Ký ngày
22/9/1999.

- Công ước Stockholm về các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (POP). Ký
ngày 23/11/2001.
Để thực hiện các công ước quốc tế, nước ta đã từng bước đưa những nội dung có liên
quan vào kế hoạch hành động. Đối với một số công ước quan trọng, Chính phủ đã
phê duyệt và cho thực hiện những kế hoạch hoặc chương trình hành động có tính
quốc tế như:
* Kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam.
* Chương trình quốc gia về biến đổi khí hậu.
* Chương trình quốc gia nhằm loại trừ dần các chất làm suy giảm tầng Ô zôn.
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của tất cả mọi người. Quản lý môi trường chính là
phải giác ngộ, huy động và tổ chức tất cả mọi người thực hiện trách nhiệm đó, vì lợi
ích của bản thân mình, lợi ích của mọi người và lợi ích của các thế hệ tương lai.
Cũng chính vì vậy mà quản lý chất Nhà nước về bảo vệ môi trường không thể đơn
độc, chỉ dựa vào pháp luật và cưỡng chế mà cần có các hình thức quản lý xã hội phi
Nhà nước khác phải được phát huy và vận dụng.

Chương 2: Khái quát về quản lý môi trường doanh
nghiệp
2.1. Định nghĩa về quản lý môi trường doanh nghiệp
Quản lý môi trường ở doanh nghiệp
"Quản lý môi trường ở doanh nghiệp" là phân tích toàn diện về vai trò của doanh
nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Tài liệu này giới thiệu tình hình và những vấn
đề chung, sau đó xem xét một cách kỹ lưỡng và chi tiết tất cả những công cụ chủ
chốt trong quản lý môi trường ở doanh nghiệp, bao gồm: các hệ thống quản lý môi
trường và các tiêu chuẩn quản lý môi trường; các chính sách môi trường, những
nguyên tắc chỉ đạo và các quy định; hệ thống kiểm tra môi trường; đánh giá chu kỳ
biến đổi; đánh giá công tác môi trường và báo cáo môi trường. Tài liệu này chú trọng
đến quản lý môi trường có hệ thống và cũng xem xét sự phối hợp hành động giữa
chính quyền địa phương với các công ty cỡ vừa và nhỏ. Sau đó, sẽ mở rộng ra để bàn
về công tác quản lý môi trường liên tục, tiến đến xây dựng một hồ sơ môi trường của

doanh nghiệp và tiếp tục theo hướng phát triển bền vững.
Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý môi trường.
Theo một số tác giả, thuật ngữ về quản lý môi trường bao gồm hai nội dung chính:
quản lý Nhà nước về môi trường và quản lý của các doanh nghiệp, khu vực dân cư về
môi trường. Trong đó, nội dung thứ hai có mục tiêu chủ yếu là tăng cường hiệu quả
của hệ thống sản xuất (hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000) và bảo vệ sức
khỏe của người lao động, dân cư sống trong khu vực chịu ảnh hưởng của các hoạt
động sản xuất.
Phân tích một số định nghĩa, có thể thấy quản lý môi trường là tổng hợp các biện
pháp thích hợp, tác động và điều chỉnh các hoạt động của con người, với mục đích
chính là giữ hài hòa quan hệ giữa môi trường và phát triển, giữa nhu cầu của con
người và chất lượng môi trường, giữa hiện tại và khả năng chịu đựng của trái đất
-“phát triển bền vững”.
Như vậy, “Quản lý môi trường là một lĩnh vực quản lý xã hội, nhằm bảo vệ
môi trường và các thành phần của môi trường, phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững
và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và xã hội”. Quản lý môi trường được thực
hiện bằng tổng hợp các biện pháp: luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công
nghệ, xã hội, văn hóa, giáo dục Các biện pháp này có thể đan xen, phối hợp, tích
hợp với nhau tùy theo điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra. Việc quản lý môi trường
được thực hiện ở mọi quy mô: toàn cầu, khu vực, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ sở sản
xuất, hộ gia đình,
2.2. Mục tiêu quản lý môi trường
Mục tiêu của quản lý môi trường là PTBV, giữ cho được sự cân bằng giữa
phát triển kinh tế xã hội và BVMT. Nói cách khác, phát triển kinh tế xã hội tạo ra
tiềm lực kinh tế để BVMT, còn BVMT tạo ra các tiềm năng tự nhiên và xã hội mới
cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội trong tương lai. Tùy thuộc vào điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục tiêu phát triển ưu tiên của từng quốc gia,
mục tiêu quản lý môi trường có thể thay đổi theo thời gian và có những ưu tiên riêng
đối với mỗi quốc gia.
Theo Chỉ thị 36 CT/TW của Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam, một số mục tiêu cụ thể của công tác quản lý môi trường Việt
Nam hiện nay là:
Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong các
hoạt động sống của con người. Trong giai đoạn hiện nay, các biện pháp khắc phục và
phòng chống ô nhiễm chủ yếu là:
+ Thực hiện nghiêm chỉnh quy định của Luật Bảo vệ môi trường về báo cáo đánh giá
tác động môi trường trong việc xét duyệt cấp phép các quy hoạch, các dự án đầu tư.
Nếu báo cáo đánh giá tác động môi trường không được chấp nhận thì không cho
phép thực hiện các quy hoạch, các dự án này.
+ Đối với các cơ sở kinh doanh đang hoạt động, căn cứ vào kết quả đánh giá tác
động môi trường, từ đó các bộ, các ngành, các tỉnh, các thành phố tổ chức phân loại
các cơ sở gây ô nhiễm và có kế hoạch xử lý phù hợp.
+ Trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần ưu tiên áp dụng các công nghệ sạch,
công nghệ ít phế thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng lượng bằng cách trang bị, đầu
tư các thiết bị công nghệ mới, công nghệ tiên tiên, cải tiến và sản xuất các thiết bị
tiêu hao ít năng lượng và nguyên vật liệu.
+ Các khu đô thị, các khu công nghiệp cần phải sớm có và thực hiện tốt phương án
xử lý chất thải, ưu tiên xử lý chất thải độc hại, chất thải bệnh viện như: đốt rác thải
bệnh viện ở nhiệt độ cao, xử lý nước thải bệnh viện.
+ Thực hiện các kế hoạch quốc gia ứng cứu sự cố dầu tràn trên biển, kế hoạch khắc
phục hậu quả chất độc hóa học dùng trong chiến tranh, quản lý các hóa chất độc hại
và chất thải nguy hại.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản luật pháp bảo vệ môi trường, ban hành các chính sách
về phát triển kinh tế xã hội phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành
luật bảo vệ môi trường.
Để thực hiện mục tiêu trên cần quan tâm đến các biện pháp cụ thể:
+ Rà soát và ban hành đồng bộ các văn bản dưới luật, các quy định về luật pháp khác
nhằm nâng cao hiệu lực của luật.
+ Ban hành các chính sách về thuế, tín dụng nhằm khuyến khích việc áp dụng các
công nghệ sạch.

+ Thể chế hóa việc đóng góp chi phí bảo vệ môi trường: thuế môi trường, thuế tài
nguyên, quỹ môi trường,…
+ Thể chế hóa việc phối hợp giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế với bảo vệ môi
trường: trong các kê hoạch phát triển kinh tế xã hội phải có các chỉ tiêu, biện pháp
bảo vệ môi trường. Tính toán hiệu quả kinh tế, so sánh các phương án phải tính toán
cả chi phí bảo vệ môi trường.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa
phương, công tác nghiên cứu, đào tạo cán bộ về môi trường:
+ Nâng cấp cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đủ sức thực hiện tốt các nhiệm
vụ chung của đất nước.
+ Xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia, vùng lãnh thổ và gắn chúng
với hệ thống các trạm quan trắc môi trường toàn cầu và khu vực. Hệ thống này có
chức năng phản ánh trung thực chất lượng môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ.
+ Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu môi trường quốc gia, quy chế thu thập và trao
đổi thông tin môi trường quốc gia và quốc tế.
+ Hình thành hệ thống cơ sở nghiên cứu và đào tạo cán bộ chuyên gia về khoa học và
công nghệ môi trường đồng bộ, đáp ứng công tác bảo vệ môi trường của quốc gia và
từng ngành.
+ Kế hoạch hóa công tác bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương, các bộ,
các ngành.
Thí dụ: kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường trong ngân sách nhà nước, trong các
ngành.
- Phát triển đất nước theo các nguyên tắc phát triển bền vững được hội nghị Rio-92
thông qua:
+ Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
+ Cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
+ Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất.
+ Giữ vững trong khả năng chịu đựng của trái đất.
+ Thay đổi thái độ, hành vi và xây dựng đạo đức mới vì sự phát triển bền vững.
+ Tạo điều kiện để cho các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình.

+ Tạo ra một cơ cấu quốc gia thống nhất thuận lợi cho việc phát triển bền vững.
+ Xây dựng khối liên minh toàn thê giới về bảo vệ và phát triển.
+ Xây dựng một xã hội bền vững.
- Xây dựng các công cụ hữu hiệu về quản lý môi trường quốc gia, các vùng lãnh thổ
riêng biệt
như:
+ Xây dựng các công cụ quản lý thích hợp cho từng ngành, từng địa phương tùy
thuộc vào trình độ phát triển.
+ Hình thành và thực hiện đồng bộ các công cụ quản lý môi trường (luật pháp, kinh
tế, kỹ thuật công nghệ, các chính sách xã hội,…).
2.3. Các nguyên tắc chung về quản lý môi trường
Tiêu chí chung của công tác quản lý môi trường là đảm bảo quyền được sống trong
môi trường trong lành, phục vụ sự PTBV của đất nước, góp phần gìn giữ môi trường
chung của loài người trên trái đất. Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi
trường bao gồm:
1. Hướng tới sự phát triển bền vững
Nguyên tắc này quyết định mục đích của việc quản lý môi trường. Để giải quyết
nguyên tắc này, công tác quản lý môi trường phải tuân thủ những nguyên tắc của
việc xây dựng một xã hội bền vững. Nguyên tắc này cần được thể hiện trong quá
trình xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, luật pháp và chính sách nhà nước,
ngành và địa phương.
2. Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư trong
việc quản lý môi trường: Môi trường không có ranh giới không gian, do vậy sự ô
nhiễm hay suy thoái thành phần môi trường ở quốc gia, vùng lãnh thổ sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp tới quốc gia khác và các vùng lãnh thổ khác. Để thực hiện được
nguyên tắc này, các quốc gia cần tích cực tham gia và tuân thủ các công ước, hiệp
định quốc tế về môi trường, đồng thời với việc ban hành các văn bản quốc gia về luật
pháp, tiêu chuẩn, quy định. Việc kết hợp các mục tiêu này được thực hiện thông qua
các quy định luật pháp, các chương trình hành động, các đề tài hợp tác quốc tế và
khu vực.

3. Quản lý môi trường xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống và cần được thực
hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp đa dạng và thích hợp
Các biện pháp và công cụ quản lý môi trường rất đa dạng: luật pháp, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, khoa học, kinh tế, công nghệ, v.v Mỗi loại biện pháp
và công cụ trên có phạm vi và hiệu quả khác nhau trong từng trường hợp cụ thể. Ví
dụ, để BVMT trong nền kinh tế thị trường, công cụ kinh tế có hiệu quả tốt hơn.
Trong khi đó, trong nền kinh tế kế hoạch hóa thì công cụ luật pháp và chính sách có
các thế mạnh riêng. Thành phần môi trường ở các khu vực cần bảo vệ thường rất đa
dạng, do vậy các biện pháp và công cụ BVMT cần đa dạng và thích hợp với từng đối
tượng.
4. Phòng ngừa tai biến, suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc phải xử lý
hồi phục môi trường nếu để xảy ra ô nhiễm
- Phòng ngừa là biện pháp ít tốn kém hơn xử lý, nếu để xảy ra ô nhiễm. Ví dụ: phòng
ngừa bướu cổ bằng biện pháp sử dụng muối iốt ít tốn kém hơn giải pháp chữa bệnh
bướu cổ khi nó xảy ra với dân cư.
- Ngoài ra, khi chất ô nhiễm tràn ra môi trường, chúng có thể xâm nhập vào tất cả các
thành phần môi trường và lan truyền theo các chuỗi thức ăn và không gian xung
quanh. Để loại trừ các ảnh hưởng của chất ô nhiễm đối với con người và sinh vật,
cần phải có nhiều công sức và tiền của hơn so với việc thực hiện các biện pháp
phòng tránh.
5. Người gây ô nhiễm phải trả tiền (Polluter Pays Principle - PPP)
Đây là nguyên tắc quản lý môi trường do các nước OECD đưa ra. Nguyên tắc được
dùng làm cơ sở xây dựng các quy định về thuế, phí, lệ phí môi trường và các quy
định xử phạt hành chính đối với các vi phạm về quản lý môi trường. Dực trên nguyên
tắc này, các nước đưa ra các loại thuế như thuế năng lượng, thuế cacbon, thuế SO2
Nguyên tắc trên cần thực hiện phối hợp với nguyên tắc người sử dụng trả tiền, với
nội dung là người nào sử dụng các thành phần môi trường thì phải trả tiền cho việc
sử dụng và các tác động tiêu cực đến môi trường do việc sử dụng đó gây ra. Phí rác
thải, phí nước thải và các loại phí khác là các ví dụ về nguyên tắc người sử dụng phải
trả tiền.

2.4. Nội dung công tác quản lý môi trường
Nội dung công tác quản lý nhà nước về môi trường của Việt Nam được thể hiện
trong Điều 37, Luật Bảo vệ Môi trường, gồm các điểm:
• Ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về bảo vệ môi
trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
• Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế
hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự
cố môi trường.
• Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, các công trình có liên
quan đến bảo vệ môi trường.
• Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng
môi trường, dự báo diễn biến môi trường.
• Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ
sở sản xuất kinh doanh.
• Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
• Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về bảo vệ môi trường, xử lý vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
• Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường.
• Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường.
• Thiết lập quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
2 5. Công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công tác
quản lý môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công
cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: Công cụ
điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ mô là
luật pháp và chính sách. Công cụ hành động là các công cụ có tác động trực tiếp tới
hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử phạt v.v và

công cụ kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức môi
trường trong công tác bảo vệ môi trường. Thuộc về loại này có các công cụ kỹ thuật
như GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm toán môi trường, quan trắc môi
trường. Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo bản chất thành các loại cơ
bản sau:
• Công cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc
gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách môi trường quốc
gia, các ngành kinh tế, các địa phương.
• Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả
trong nền kinh tế thị trường.
• Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước
về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô
nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các đánh
giá môi trường, minitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng
chất thải. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công
trong bất kỳ nền kinh tế phát triển như thế nào.
Chương 3: Hệ thống quản lý môi trường cho doanh
nghiệp , tiêu chuẩn ISO 14000
3.1. Giới thiệu Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
Hệ thống quản lý môi trường là một cơ cấu quản lý về khía cạnh môi trường của
cấu trúc quản lý tổng thể của một tổ chức (doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp, cơ quan,
đơn vị sản xuất,…), bao gồm các phương pháp tổ chức, các thủ tục, nguồn nhân lực,
vật lực và những trách nhiệm … đủ khả năng thực thi môi trường trong suốt quá
trình hoạt động của tổ chức, đánh giá tác động môi trường ngắn hạn và dài hạn của
sản phẩm, dịch vụ và hoạt động của tổ chức mình.
Hệ thống quản lý môi trường là thiết yếu, không thể thiếu được để tổ chức có
khả năng nhìn thấy trước sự tiến triển thực thi môi trường sẽ diễn ra và bảo đảm sự
tuân thủ các yêu cầu quốc gia và quốc tế về bảo vệ môi trường. Hệ thống quản lý môi
trường thu được kết quả tốt khi mà công việc quản lý môi trường được tiến hành

cùng với các ưu tiên hàng đầu khác của tổ chức.
Công nghiệp hóa nhanh và hiện đại đã đem lại cho người dân mức sống cao hơn
nhưng mặt trái của nó là môi trường sống bị tàn phá, hủy hoại nghiêm trọng. Số liệu
thống kê của Cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm môi trường – Bộ Công an cho
thấy, tính đến giữa năm 2010, cả nước đã phát hiện 3.600 vụ vị phạm trong đó các vụ
xả nước không qua xử lý. PGS.TS Nguyễn Đắc Hy – Viện trưởng Viện Sinh thái và
Môi trường cho rằng, trong câu chuyện làm ăn của doanh nghiệp Việt Nam, dù là
doanh nghiệp lớn hay nhỏ cũng có một “tá” các lợi ích đi kèm, tuy nhiên một trong
những lợi ích có thể giúp doanh nghiệp phát triển bền vững và thực hiện bảo vệ môi
trường thị lại không được nhiều doanh nghiệp mặn mà, thậm chí là né tránh”
Có nhiều ý kiến cho rằng bảo vệ môi trường là một hoạt động đầu tư tốn kém, để có
lợi nhuận và lợi thế cạnh tranh về giá cả, doanh nghiệp phải “hoãn” vấn đề môi
trường sang một bên. Tuy nhiên, nếu có cách tiếp cận đúng và lựa chọn được phương
pháp hiệu quả, với một nguồn đầu tư thích hợp doanh nghiệp vẫn có thể đáp ứng tốt
yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Tuy bảo vệ môi trường là một vấn đề còn mới, nhưng tỷ lệ thuận với tốc độ xuống
cấp của môi trường, các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này đã từng bước
được hoàn chỉnh, thể chế hoá vào hầu hết các ngành luật.
Hệ thống pháp luật quy định về bảo vệ môi trường ở nước ta từ năm 1993 đến nay đã
điều chỉnh tương đối đầy đủ các yếu tố tạo thành môi trường. Các văn bản quy phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường đã quy định từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi
tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường.
Hệ thống tiêu chuẩn về môi trường cũng đã được ban hành, làm cơ sở pháp lý cho
việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ thể trong việc bảo vệ môi trường. Các
quy định pháp luật đã chú trọng tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề môi trường.
Thời gian vừa qua, một loạt hoạt động gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của các
tổ chức, doanh nghiệp đã bị người dân, báo chí, các cơ quan chức năng phát hiện,
thậm chí có doanh nghiệp đã phải tạm thời đóng cửa.
Vấn đề môi trường đã và đang nhận được sự quan tâm đặc biệt lớn từ phía cơ quan

quản lý và cộng đồng. Đó sẽ là "biển cấm" đối với các doanh nghiệp thể hiện trách
nhiệm yếu trước vấn đề này.
Hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001:2004 là một công cụ hữu hiệu giúp
doanh nghiệp nâng cao năng lực kiểm soát đầu vào và quá trình sản xuất để giảm
thiểu chất thải, chủ động phòng ngừa ô nhiễm môi trường thay vì đối phó thụ động
thực hiện các yêu cầu pháp lý. Áp dụng ISO 14001 không chỉ nâng cao hình ảnh
doanh nghiệp trong con mắt khách hàng và người tiêu dùng mà còn giúp doanh
nghiệp vượt qua những rào cản kỹ thuật khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, so với số lượng khoảng 6.000 doanh nghiệp đã được chứng nhận về hệ
thống quản lý chất lượng ISO 9001 thì số lượng các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn
về quản lý môi trường còn rất nhỏ. Điều này cho thấy tại Việt Nam, các doanh
nghiệp/tổ chức vẫn chưa quan tâm đúng mức tới vấn đề môi trường và bảo vệ môi
trường. Có thể liệt kê ra đây một số khó khăn trong việc áp dụng ISO 14001:
Mặc dù có sự quan tâm trong công tác bảo vệ môi trường nhưng cho tới nay, Nhà
nước chưa có chính sách cụ thể và nhất quán để hỗ trợ/ ưu đãi các doanh nghiệp
trong nước áp dụng hệ thống QLMT theo tiêu chuẩn ISO 14001 mà chủ yếu do áp
lực từ phía khách hàng. Ngược lại mong thu hút đầu tư, nhà nước lại lới lỏng quản lý
môi trường với các doanh nghiệp FDI nước ngoài, đặc biệt là công tác thực thi yêu
cầu pháp luật trong bảo vệ môi trường còn thiếu hiệu quả, dẫn tới nản lòng và thiệt
thòi cho những tổ chức quan tâm và đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường.
Doanh nghiệp nước ngoài áp dụng ISO 14001 nhiều hơn là do đáp ứng yêu cầu của
khách hàng và chuỗi cung ứng và văn hóa tập đoàn và cũng không xuất phát từ ý
thức đầu tư để bảo vệ môi trường nước sở tại. Do đó việc áp dụng ISO 14000 nhiều
khi còn mang tính hình thức và đối phó. VD, Vedan “giết” sông Thị Vải do xả nước
chưa qua xử lý nhưng thực tế Vedan vẫn có chứng chỉ ISO 14001.
Khoản đầu tư cải thiện cơ sở vật chất lớn cũng là một trở ngại thúc đẩy doanh nghiệp
áp dụng ISO 14001. Muốn thực hiện ISO 14001, cần có những điều kiện tối thiểu: cơ
sở hạ tầng đáp ứng các yêu cầu để đảm bảo công tác quan trắc môi trường đạt yêu
cầu. Cân đối với lợi nhuận ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay thì khoản đầu tư
này là một thách thức không nhỏ, do đó xuất hiện tình trạng nếu không thật sự cần

thiết (không có yêu cầu của khách hàng, để ký kết hợp đồng…) thì có doanh nghiệp
trong nước không áp dụng ISO 14001 để tránh những khoản đầu tư nhất định.
Ngoài ra, không kể đến chi phí cho việc vận hành của các hệ thống xử lý nước thải,
khí thải và bồi dưỡng nguồn nhân lực cũng gân không ít tốn kém cho doanh nghiệp
trong quá trình duy trì. Đây cũng là nguyên nhân khiến một số doanh nghiệp mặc dù
có hệ thống xử lý nước thải, khí thải nhưng không vận hành thường xuyên mà chỉ
vận hành khi có đợt kiểm tra của cơ quan chức năng. Tung Twang (Hải Dương) là
một VD điển hình.
Một trong những yếu điểm dễ thấy của doanh nghiệp Việt Nam là vấn đề hoạch đinh,
định hướng, việc định hướng pháp triển chung của doanh nghiệp còn yếu kém thì
việc định hướng cho hoạt động bảo vệ môi trường còn mờ nhạt hơn nữa.
Việc xây dựng chính sách môi trường đến nay vẫn rất hình thức và chung chung, đôi
khi sử dụng luôn ý tưởng của chuyên gia tư vấn khiến cho chính sách môi trường
không nhất quán với chính sách phát triển dài hạn của doanh nghiệp. Có nhiều tổ
chức áp dụng ISO 14001 nhưng cán bộ và công nhân không hiểu thậm chí không biết
đến chính sách môi trường thì không thể phát huy được sự tham gia của mọi người
trong công ty trong công tác bảo vệ môi trường.
Khi lựa chọn và đưa ra các mục tiêu môi trường liên quan tới yếu tố môi trường quan
trọng, tổ chức phải có trách nhiệm đảm bảo các mục tiêu này sẽ được thực hiện, qua
đó giảm thiểu tác động và hoạt động quản lý môi trường của tổ chức sẽ dần được
hoàn thiện.
Tương tự như với chính sách môi trường, xác định mục tiêu một cách phù hợp, hiệu
quả, vừa gắn kết với mục tiêu phát triển chung vừa nhất quán với chính sách môi
trường lại là vấn đề nhiều tổ chức còn yếu.
VD: được sự hướng dẫn của chuyên gia tư vấn, sau một năm, doanh nghiệp đã đạt
được mục tiêu môi trường đề ra năm đầu tiên, nhưng năm tiếp theo tư vấn đã rút đi,
doanh nghiệp lại loay hoay không biết lựa chọn mục tiêu môi trường nào, hoặc lựa
chọn mục tiêu môi trường không khả thi (khó thực hiện hoặc tốn nguồn lực) hoặc
không nhất quán với chính sách môi trường đề ra.
Lời khuyên cho những doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng này là hãy tìm hiểu kỹ

trước khi lựa chọn đối tác tư vấn, đặc biệt là những cam kết và phương pháp tiếp
cận thực hiện dự án tư vấn để đảm bảo sao cho sau khi chuyên gia tư vấn đã rút đi,
doanh nghiệp và các nhân sự chủ chốt có đủ năng lực để tự duy trì phát triển được
hệ thống QLMT đã được xây dựng.
Đánh giá nội bộ là một hoạt động quan trọng, cần được triển khai định kỳ nhằm xác
định hiệu lực cũng như tìm ra các cơ hội để cải tiến hiệu quả của hệ thống Quản lý.
Tuy quan trọng như vậy nhưng hiện nay, hoạt động đánh giá nội bộ cũng là yếu điểm
của các doanh nghiệp. Một số nguyên nhân thường gặp:
 Sự quan tâm của lãnh đạo chưa thực sự đầy đủ và sâu sát,
 Không được hoặc không biết cách xây dựng chương trình đánh giá nội bộ
hiệu quả,
 Năng lực của đánh giá viên nội bộ không đáp ứng,
 Tâm lý cả nể trong quá trình đánh giá và lập báo cáo đánh giá,
 Đánh giá nội bộ mang tính hình thức, lấy lệ để có hồ sơ,
 …
Vì vậy các phát hiện trong đánh giá nội bộ đôi khi chưa mang lại giá trị thực sự cho
việc cải tiến công tác bảo vệ môi trường.
Lời khuyên cho những doanh nghiệp tránh khỏi tình trạng này là hãy tìm hiểu kỹ và
yêu cầu chuyên gia tư vấn xây dựng chương trình đào tạo, cung cấp tài liệu và lập
kế hoạch cụ thể cho việc huấn luyện đánh giá viên nội bộ một cách cụ thể và khả thi
trong việc tích lũy kiến thức cũng như kinh nghiệm đánh giá.
Tóm lại, mặc dù việc áp dụng ISO 14001 ở các doanh nghiệp hiện nay chưa thực sự
tương ứng với các vấn đề môi trường diễn biến ngày càng phức tạp, tuy nhiên với
những chính sách hỗ trợ của một số địa phương trong thời gian gần là cơ hội tốt cho
các doanh nghiệp thực sự mong muốn áp dụng ISO 14001 một cách hiện quả để góp
phần mang lại màu xanh cho thế giới.
Một số chính sách của Nhà nước liên quan đến việc áp dụng ISO 14001:
• Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt "Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng" (Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg)

• Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 về
việc phê duyệt chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia năm 2010 và định
hướng đến năm 2020.
• Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ 26/2007/CT-TTg ngày 26/11/2007 về việc
theo dõi, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về tài
nguyên- môi trường và phát triển bền vững.
• UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 3746/QĐ – UBND Quy
định hỗ trợ doanh nghiệp, bệnh viện, cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành phố
Hà Nội áp dụng hệ thống quản lý môi trường (HTQLMT) theo tiêu chuẩn ISO
14000 nhằm thúc đẩy việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 14000.
• Quảng Ninh và Hải Phòng là hai địa phương có mức hỗ trợ tương đối cao
cho các doanh nghiệp trên địa bàn áp dụng ISO 14000.
3.2. Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi
trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường. Một
khi chuẩn mực hoặc giới hạn các tác nhân gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn thì ở đó
có thể xem là bị ô nhiễm mặc dù chưa có bằng chứng về tác hại của các chất gây ô
nhiễm. Tiêu chuẩn môi trường được quy định cụ thể cho từng vùng và không giống
nhau ở mọi nơi, mọi mục đích sử dụng. Tiêu chuẩn môi trường xác định các mục tiêu
môi trường và đặt ra các giới hạn số lượng hay nồng độ cho phép của các chất được
thải vào khí quyển, nước, đất hay được phép tồn tại trong các sản phẩm tiêu dùng.
ISO 14000 là bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường , có cấu trúc tương tự
như bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng ISO900, ISO 14001 có thể được áp
dụng trong mọi loại hình doanh nghiệp, tổ chức, bất kể với qui mô nào. Có gần 20
tiêu chuẩn được công bố chính thức dưới dạng bản thảo trong nhóm tiêu chuẩn ISO
14000.
Ví dụ: ISO 14001: Hệ thống quản lý môi trường - Mô tả, hướng dẫn sử dụng
ISO 14004: Hệ thống quản lý môi trường - Hướng dẫn chung về nguyên tắc,
hệ thống các kỹ thuật hỗ trợ.

ISO 14010: Hệ thống quản lý môi trường - Các nguyên tắc chung
ISO 14011: Hệ thống quản lý môi trường - Các thủ tục kiểm toán - Kiểm toán
hệ thống quản lý môi trường….
Trong thời gian gần đây vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm
trọng, nó không bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, một khu vực mà là vấn đề được
cả thế giới đặc biệt quan tâm.
Việt Nam với cơ chế thị trường đã có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Do tốc
độ phát triển ở mức cao việc khai thác các nguồn tài nguyên thiếu tính toán, quá trình
đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra nhanh, chưa có một quy hoạch đô thị và khu
công nghiệp hoàn chỉnh đã làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề môi trường như: ô
nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm chất thải rắn và độc hại.v.v…
Ngăn cản ô nhiễm môi trường là việc làm cần thiết và cấp bách nhưng phải
đảm bảo duy trì tốc độ phát triển kinh tế. Để đạt được điều đó cần phải có biện pháp
quy hoạch và quản lý môi trường thích hợp.
Những hậu quả đắt giá do phát triển công nghiệp mạnh mẽ mà không quan
tâm đầy đủ đến quản lý môi trường đô thị trong thời gian trước thập niên 1970, cụ
thể là làm gia tăng ô nhiễm không khí và nước, xử lý chất thải rắn và lỏng không có
hiệu quả, môi trường đô thị xuống cấp rõ rệt, đã làm môi trường cuả nhiều quốc gia
trên thế giới bị ô nhiễm trầm trọng và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cuả con người.
Để trở thành một đất nước xanh và sạch. Cần có một chiến lược quản lý môi
trường hợp lý, đồng thời chú trọng quản lý hạ tầng cơ sở đi đôi với việc ban hành
luật và kiểm tra giáo dục nghiêm ngặt. Nội dung quan trọng cuả chiến lược này là:
- Hoạch định chiến lược quản lý môi trường hợp lý.
Chiến lược bảo vệ môi trường đô thị gồm bốn khâu thành phần: phòng ngừa, cưỡng
bách, kiểm soát và giáo dục. Những vấn đề cơ bản về phòng ngừa ô nhiễm được thực
hiện thông qua kế hoạch sử dụng đất đai hợp lý, chọn địa điểm công nghiệp thận
trọng, kiểm soát gắt gao việc phát triển xây dựng, tăng cường trang bị phương tiện
thu gom và xử lý chất thải. Một khi đã thực hiện biện pháp phòng ngừa thì bắt buộc
phải kiểm tra nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo các phương tiện thu gom và xử lý chất
thải được sử dụng và bảo trì hợp lý. Việc kiểm soát thường xuyên môi trường không

khí và môi trường nước trong đất liền và trên biển cũng được thực hiện để tiếp cận
các chương trình kiểm tra ô nhiễm môi trường một cách đầy đủ và có hiệu quả. Việc
thực hiện nhiều chương trình giáo dục dân chúng tham gia bảo vệ và quản lý môi
trường cũng là một nội dung quan trọng trong chiến lược chung này. Khi kiểm soát
môi trường, thường kết hợp xem xét vấn đề lưu vực trữ nước và chọn địa điểm xây
dựng công nghiệp. Do vậy, đã giải quyết tốt vấn đề thoát nước chung và giải quyết
thích đáng mâu thuẫn giữa phát triển khu công nghiệp và ô nhiễm môi trường khu
dân cư
- Thực hiện tốt kế hoạch hóa sử dụng đất đai.
Đất đai sử dụng vào các mục đích khác nhau phải được bảo vệ nhằm thực hiện phát
triển xã hội và kinh tế, đồng thời, duy trì một môi trường có chất lượng cao. .
- Kiểm soát chặt chẽ
Sau khi đã kiểm tra dự án phát triển xây dựng, Vụ kiểm soát môi trường tiến hành
thanh tra trước khi thuyết minh cho Ban kiểm tra xây dựng để cấp phép tạm thời
hoặc chứng chỉ hoàn tất hợp pháp để thực thi xây dựng. Các công trình xây dựng
công nghiệp phải có giấy phép hoặc chứng chỉ xác nhận của Vụ kiểm soát ô nhiễm
mới được khởi công.
- Xử lý chất thải toàn diện
Hai vấn đề lớn được chú trọng là quản lý hệ thống thoát nước và quản lý chất thải
rắn. Đó là việc cung cấp hệ thống thoát nước toàn diện để thu gom, xử lý nước thải
sinh hoạt, nước thải sản xuất; tổ chức một hệ thống quản lý chất thải rắn rất có hiệu
quả. Nước thải công nghiệp đều được xử lý và đạt tiêu chuẩn quy định (20mg/l về
hàm lượng ôxyt hóa sinh và 30g/l về hàm lượng chất lơ lửng) trước khi đưa vào
mạng đường ống chung. Về quản lý chất thải rắn, cần có một hệ thống thu gom rác
hoàn thiện và hiệu quả. Mọi chất thải rắn đều được thu gom và xử lý hàng ngày.
- Ban hành luật lệ và giáo dục nghiêm ngặt.
Việc ban hành luật lệ và giáo dục về bảo vệ môi trường đóng vai trò quan trọng trong
việc kiểm soát ô nhiễm để bảo vệ môi trường. Các biện pháp nêu trong luật thường
xuyên đươc xem xét định kỳ để bổ sung cho chặt chẽ và hợp lý hơn. Sự nhận thức
của cộng đồng về môi trường là yếu tố quan trọng nhất làm cơ sở để duy trì và phát

triển môi trường đô thị thích hợp. Bộ môi trường thường xuyên làm việc với các tổ
chức xã hội để thực hiện những chiến dịch giáo dục tới tận các cộng đồng dân cư, tới
công chức và tư nhân. Các chương trình giáo dục về môi trường bao gồm từ tiểu học,
trung học đến đại học. Các trường học thường tổ chức nhiều cuộc triển lãm để tuyên
truyền về nhận thức môi trường và tái chế chất thải.
3.3. Chương trình EMS
Trước những áp lực của luật pháp, các cơ hội "Marketing xanh ", áp lực ngày càng
tăng từ quần chúng, những quan tâm mang tính chất đạo đức và cam kết của chính
quyền trung ương cũng như chính quyền địa phương về chương trình hành động 21,
rất nhiều tổ chức đã lựa chọn chính sách môi trường và triển khai công tác triển khai
môi trường. Tuy nhiên, nếu các cam kết được vạch ra trong những chính sách này và
những yêu cầu, khuyến nghị nói trên có hiệu lực, các tổ chức này sẽ phải đối mặt với
vấn đề làm sao để tìm một phương thức có hệ thống nhằm thực hiện những cam kết
về quản lý môi trường trong nội bộ tổ chức của mình. Trong thực tế, nhiều tổ chức
vốn đã soạn thảo chính sách môi trường của riêng mình và đã triển khải bước đầu
công tác kiểm tra môi trường, đã gặp nhiều khó khăn trong việc biến những yêu cầu
khuyến nghị trên thành hành động. Sadgrove (1992, trang 215) viết
bản trong quản lý môi trường của một số tổ chức như: Phòng thương mại Quốc tế,
Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững và Nghiệp đoàn Công nghiệp Anh,
trong đó nêu lên những giai đoạn cơ bản của một hệ thống quản lý môi trường như
sau:
• Soạn thảo một chính sách bao gồm các cam kết về cải tạo môi trường, bảo vệ và
bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên; Một loạt các kế hoạch chương trình nhằm thực
hiện các chính sách trong và ngoài phạm vi doanh nghiệp đó; Ðưa những kế hoạch
này vào hoạt động hàng ngày và vào quá trình phát triển của doanh nghiệp đó; •
Ðánh giá, kiểm tra, xem xét công tác quản lý môi trường của doanh nghiệp đó trên
cơ sở những chính sách, kế hoạch, chương trình đã đặt ra.
• Tiến hành công tác giáo dục đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết các vấn đề về môi
trường trong nội bộ doanh nghiệp;
Và công khai hóa về công tác môi trường của doanh nghiệp đó.

Gilbert 1993 trang 7-8
Các giai đoạn kiểm tra đã tập hợp được những yếu tổ của các hệ thống quản lý môi
trường vốn đã và đang được phát triển để đảm bảo rằng những hoạt động chính sách
và các quy trình quy phạm của doanh nghiệp vẫn luôn tuân theo những yêu cầu chất
lượng cụ thể. Những hệ thống này được sử dụng chủ yếu trong những hợp đồng làm
ăn giữa khách hàng và nhà cung cấp trong đó nhà cung cấp đảm bảo với khách hàng
về một hệ thống cần thiết để chuyển giao sản phẩm hoặc dịch vụ. Các hệ thống quản
lý chất lượng như BS 5750 và ISO 9000 đang được áp dụng rộng rãi và việc thực
hiện các tiêu chuẩn này được đánh giá một cách độc lập.
Hệ thống TQM đã phát triển thêm khái niệm này bằng cách cung cấp những hướng
dẫn cả về lý thuyết và thực hành cho doanh nghiệp để đảm bảo rằng chúng được phát
triển và sử dụng một cách có hiệu quả để đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp.
TQM đã chuyển trọng điểm của doanh nghiệp từ những trọng điểm của nội bộ thành
mối quan tâm của bên ngoài, đánh giá công tác của mình thông qua sự hài lòng của
khách hàng. Nói cách khác, khách hàng - những người tiếp nhận hàng hóa hoặc dịch
vụ đó - sẽ đưa ra những phán quyết cuối cùng về công tác của doanh nghiệp đó.
TQM yêu cầu tất cả mọi người trong doanh nghiệp đều phải chịu trách nhiệm về chất
lượng hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp mình và yêu cầu phải liên tục phân
tích, đánh giá và cải tiến công tác thông qua một quy trình chất lượng.
Một doanh nghiệp có thể tham gia vào quy trình chất lượng này ở bất cứ đâu, miễn là
tuân theo các bước nhằm cải tiến công tác dựa trên một cơ sở bền vững.
Rất nhiều tổ chức đã thiết lập các chính sách môi trường và tiến hành công tác kiểm
tra môi trường nay lại quanh trở về biện pháp quản lý chất lượng này để đảm bảo các
cam kết đã nêu trong chính sách và những khuyến nghị sau khi tiến hành kiểm tra
môi trường được thực hiện nghiêm chỉnh.
Về mặt lý thuyết, sự liên hệ chủ yếu giữa EMS và TQM là cả 2 hệ thống đều nhằm
mục đích đạt được một quy trình cải tiến liên tục thông qua những cam kết của toàn
doanh nghiệp. Theo Welford và Gouldson, EMS cần phải học tập TQM trong các
vấn đề về môi trường (tương đương với các vấn đề chất lượng của TQM ) trong mọi
giai đoạn của quá trình sản xuất, ở cả trong nội bộ và ngoài doanh nghiệp. Cũng

giống như TQM, EMS muốn thành công cần có những cam kết có hiệu quả, kế
hoạch, vai trò lãnh đạo, các mối quan hệ, tổ chức, công tác kiểm soát giám sát chặt
chẽ.
Theo Spedding et al (1993), khi áp dụng TQM và các vấn đề môi trường, khách hàng
được thay thế chất lượng hàng hóa dịch vụ chất lượng môi trường. Theo Welford và
Gouldson (1993), mục tiêu của TQM nhằm loại bỏ hoàn toàn những sai sót về chất
lượng có thể kết hợp với mục tiêu loại bỏ những tác động tiêu cực đối với môi
trường. Do đó, có mối tương quan mật thiết giữa các mục tiêu của TQM và mục tiêu
củng cố phát triển công tác môi trường.
Một doanh nghiệp muốn đạt được những mục tiêu của công tác môi trường thông
qua một quy trình như trên cần xác định trách nhiệm quản lý môi trường, triển khai
các nguồn lực để đảm bảo giải quyết các vấn đề môi trường, đào tạo nhân viên để
nâng cao nhận thức của họ về trách nhiệm môi trường, giám sát công tác môi trường
và kiểm tra hệ thống cải tiến môi trường. Cơ sở của các hoạt động trên là một cam
kết tiếp tục cải thiện môi trường và một chính sách môi trường. Hai giai đoạn đầu
tiên của một hệ thống quản lý môi trường điển hình được nêu ở sơ đồ 3.
Tuy nhiên, việc thực hiện những cam kết trên còn là cả một vấn đề nan giải, đặc biệt
là ngay trong nội bộ những doanh nghiệp mà không suy nghĩ thấu đáo về tính thực tế
của những áp dụng này về nguồn lực cần có, về khó khăn trong quá trình hoà nhập
của họ vào cơ cấu quản lý của doanh nghiệp. Ketola(1993) chỉ rõ rằng các chính sách
môi trường không phải bao giờ cũng được soạn thảo ra theo cách tốt nhất có thể có
hay bởi những cá nhân kiệt xuất nhất và những chính sách đó có thể phản ánh mối
quan tâm của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định chứ không hoàn toàn là đưa
ra cho họ một chính sách quản lý môi trường thường xuyên và lâu dài. Do đó, một
vấn đề quan trọng là phải đưa ra được một chính sách khả thi, thực tế và dễ hiểu đối
với toàn bộ công nhân trong một doanh nghiệp cũng như dư luận xã hội.
Gray(1993)đưa ra ý kiến cho rằng các chính sách nên bao gồm cả các vấn đề khó
khăn và đầy thử thách đề cập đến hoạt động mô trường của các doanh nghiệp.
Hiện nay, ngày càng có nhiều lời phê phán đối với các doanh nghiệp phát triển chính
sách về môi trường cho mục đích làm Marketing, và công dụng của chúng là những

mệnh đề chẳng hạn như "Tiến hành tại đâu thì kinh tế nhất" hay nói cách khác thì đó
là tính thực dụng của chính sách bên cạnh những cam kết môi trường. Tuy nhiên nó
cũng có thể chỉ rõ ra rằng một chính sách cụ thể thì bao hàm những điều gì. Nó nên
làm cho một doanh nghiệp trở nên có trách nhiệm xã hội hơn, và là một nền tảng căn
bản cho vấn đề cải thiện môi trường, trách nhiệm và hoạt động nội bộ doanh nghiệp,
và không cần phải chỉ ra là cam kết môi trường nên giới hạn ở đâu.
Một đánh giá về môi trường thường đưa ra một bức tranh ngắn gọn về các hoạt động
môi trường của một doanh nghiệp theo một số dạng vấn đề như sau: sự chuẩn bị cho
hoạt động quản lý môi trường; biến cố và kế hoạch khẩn cấp; thông tin; quản lý năng
lượng; các tác động môi trường; đầu tư; các yêu cầu về mặt pháp lý; các uỷ ban địa
phương; bảo vệ thiên nhiên; các quá trình xử lý; mua bán; sản phẩm; tiêu thhụ nguồn
lực; giảm thiểu chất thải và quản lý nguồn nước.Các dữ liệu rút ra từ bản đánh giá sẽ
khuyến khích phát triển các chính sách và đề xuất thực tế có liên quan đến các vấn
đề, tác động và mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp.
Rõ ràng là có rất nhiều sự khác nhau trong nội dung của các đánh giá về môi trường
mà luôn phụ thuộc vào chức năng , các nguyên tắc xử thế và giá trị văn hoá trong nội
bộ doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp dường như chỉ tập trung vào các vấn đề thuộc
về nguyên tắc, các cách mà môi trường ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp chẳng hạn như các vấn đề liên quan đến việc quản lý năng lượng,nguồn nước
và chất thải. Một số doanh nghiệp lại chỉ tập trung vào các tác động trực tiếp đến môi
trường, trong khi một số khác lại xem xét đánh giá các tác động dịch vụ. Các doanh
nghiệp linh hoạt nhất lại đưa ra các khía niệm bền vững sinh thái cho giai đoạn đánh
giá này nhằm đánh giá các tác động của danh nghiệp lên những vấn đề toàn cầu
(Callenbach et al 1994, Welfrd 1993, Wheeler 1994 ).
Tính thấu đáo của một đánh giá về môi trường có thể thay đổi giữa một cuộc đánh
giá tổng hợp trên tất cả các khía cạnh của hoạt động môi trường của doanh
nghiệpcùng với các chỉ số đã được xác định và những mục tiêu đ ề ra hay chỉ là sự
chuẩn bị cho một đánh giá về các tác động môi trường chủ yếu của doanh nghiệp. Có
nhiều đánh giá sử dụng phân tích SWOT nhưng nhìn chung cái khác giữa doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác chính là phạm vi và chiêù sâu của đánh

giá,phương pháp và công cụ nghiên cứu được mang ra áp dụng, các kiến nghị rút ra
từ đó .v.v.
Nhiều doanh nghiệp sử dụng các thông tin nội bộ để đưa ra các đánh giá về môi
trường mặc dù nố có thể có những hậu quả tiêu cực như việc chuyển các kiến nghị
thành hành động thực sự. Nhìn chung các đánh giá được lập ra bởi các nhân viên
trong nội bộ công ty dưới sự chỉ đạo của một nhà quản lý môi trường, một điều phối
viên hay một nhómđánh giá môi trường, những người phân tích và báo cáo những tác
động của doanh nghiệp đến môi trường. đánh giá chính là một qua strình học hỏi đối
với doanh nghiệpvà phương pháp tiếp cận nội bộ này có thể đảm bảo cho các doanh
nghiệp hiểu rõ hơn về vấn đề hoạt động môi trường và làm thế nào để quản lý một
cách có hiệu quả nhất.
Về việc thiết lập một chính sách môi trường, đối với các công ty thì sự chuẩn bị theo
những đánh giá đánh giá nhất định có thể phù hợp trong việc ưu tiên các vấn đề về
môi trường. Tuy nhiên nó cũng có thể được chỉ rõ ràng rằng việc đánh giá càng sâu
sắc và rộng rãi bao nhieu thì doanh nghiệp càng dễ dàng chính xác tỉ mỉ trong việc
đưa ra các ưu tiên và mục tiêu môi trường , soạn thảo hoặc tổng kết các chính sách
thiết thực hoặc phát triển một hệ thống quản lý môi trường.
Những khám phá trong một bản tổng kết không tự nhiên biến thành hành động, và
trong một giai đoạn mà các doanh nghiệp đều có thể tự tìm thấy,đấu tranh cho cả sự
phát triển lẫn nguồn lực và tiếp đó là đình lại bởi vì không có một cơ chế nào để thực
thi các sáng kiến quản lý môi trường đầy thực tế và có cơ sở này cả.Các sáng kiến
(phát hiện) này do đó phải được két hợp chặt chẽ với một tổ chức hệ thống quản lý
môi trường(EMS) để khuyến khích thực thi, cải thiện và khuôn khổ thực thi. Ðiều
này có thể thực hiện được bằng những kiến nghị rõ ràng và các mục tiêu dựa trên
những phát hiện mới.
Thành công của hệ thống EMS chính là sự phụ thuộc tuyệt đối vào việc đào tạo để
khuyến khích một sự hiểu biết những vấn đề có liên quan giữa những người lao đông
với nhau, và để phát triển sự hiểu biết về vai trò và trách nhiệm của họ trong quá
trình xanh hoá như Roome (1992 trang 15) đề xuất:
Ðể cải thiện hệ thống quản lý cần phải nhận ra giá tri của việc xây dựng niềm tin và

các cam kết của lực lượng lao động đối với một chính sách môi trường.
Ðể có thể thay đổi môi trường văn hoá nội bộ doanh nghiệp-một yêu cầu cần thiết
cho một hệ thống EMS thành công-thì đào tạo có thể phải đống một vai trò then chôt
trong việc gia tăng nhận thức của mọi ngươi về các vấn đề môi trường, và đạt được
một mức hiểu biết nhất định về các vấn đề như phương pháp quản lý năng lượng và
chất thải công nghiệp giữa các cá nhânvới nhau. Ðào tạo luôn giữ một vai trò quan
trọng trong tất cả các cấp của một doanh nghiệp.Nó sẽ bao gồm cả những nhân viên
quản lý có thâm niên cao-là những người có những quyết định then chốt để đạt được
sự hậu thuẫn choviệc quản lý môi trường ; Các nhân viên quản lý bậc trung -là những
người luôn bị các vấn đề về môi trường tác động tới;và tất cả những nhân viên của
doanh nghiệp-là những người tác động thường xuyên đến các quá trình và hoạt động
của doanh nghiệp mà những quá trình này có ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường.Gilbert (1993) tuyên bố rằng việc thiết lập một chương trình đào tạo về môi
trườnglà rất cần thiết để xoá bỏ đi những nghi ngờ về quản lý môi trường giữa những
người lao động với nhau và khuyến khích sự thay đổi trong các chiến lược quản lý
cần thiết chovấn đề thực thi môi trường.
Netherwood(1995) cho thấy rằng đứng về hoạt động quản lý môi trường thì lĩnh vực
trì trệ nhất trong nhiều doanh nghiệp chính là việc quản lý trung gian. Ðiều này cho
thấy rằng chúng nên được đặc biệt hướng vào mục tiêu phổ biến thông tin và đào tạo
cho các nhân viên điều hành của họ về các kỹ năng quản lý môi trường. Các phương
pháp đào tạo khác bao gồm việc sử dụng các thông tin tư vấn từ bên ngoài, các kỹ
năng đào tạo nội bộ, làm việc theo tổ, sử dụng video, và sử dụng các sách tra cứu
quản lý.Công tác đào tạo cũng nên khuyến khích tính làm chủ trong quá trình quản lý
môi trường giữa những người lao động với nhau. Hệ thống quản lý EMS có thể sẽ
thực hiện tốt hơn chức năng của nó nếu những người có liên quan cảm thấy rằng sự
đóng góp của họ thực sự tạo ra sự khác biệt và những điều họ nghĩ về hoạt động của
doanh nghiệp chính là sự phản hồi đến hệ thống quản lý và nó sẽ được ghi nhận .
Một vài doanh nghiệp lựa chọn loại hình đào tạo quản lý môi trường tự nguyện trong
khi những doanh nghiệp khác lại thấy rằng đào tạo bắt buộc lại là cần thiết để thu hút
lao động vào quá trình quản lý EMS. Cái mà người ta phải xem xét đánh giá trong

quá trình thực hiện một chương trình đào tạo là cả một loạt quan điểm thái độ đối với
môi trường mà sẽ được thể hiện trong doanh nghiệp, và cần phải các thông tin sơ cấp
đó vào đúng vị trí của nó kể cả về sự hiẻu biết lẫn tính cơ bản của vấn đề.
Welford&Gouldson (1993) cho rằng đào tạo phải là một quá trình luôn tiếp diễn và
không phải là cái mà người ta học để rồi quên. Mục tiêu của quá trình đào tạo nên
luôn luôn khẳng định lại tầm quan trọng của các vấn đề môi trường với nhân viên
cũng như khẳng định trách nhiệm của bản thân họ đối với vấn đề quản lý môi trường
trong một doanh nghiệp.
Xác định và đưa ra các tài liệu bằng văn bản của tất cả các cấp có thẩm quyền liên
quan đến việc quản lý môi trường cũng khá quan trọng trong giai đoạn này của hệ
thống quản lý EMS. Việc phân chia thẩm quyền quản lý thực hiện và hậu thuẫn có
hiệu quả của các sáng kiến quản lý môi trường. Chẳng hạn như các nhà quản lý môi
trường có thể nhận thấy rằng họ không có quyền lực hay thẩm quyền thực sự để điều
hành công việc thực sự mà thiếu sự chuẩn y của các nhân viên cấp trên thì hiệu quả
công việc của các nhà quản lý này bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng .Nhân tố quyền lực
có mối liên quan rất lớn đến tình trạng của hoạt động quản lý môi trường trong một
doanh nghiệp khi so sánh với các vấn đề quản lý khác mà đến lượt nó tác động đến
thái độ hành vi và các bước thành công tiếp theo của quá trìmh quản lý EMS. Có một
vài cơ chế để đảm bảo rằng quản lý thực sự thực thi các trách nhiệm về môi trường
cũng là một vấn đề quan trọng.Ðiều này có thể thực hiện được bởi việc xác định số
lượng hoạt động bắt nguồn từ trách nhiệm của mỗi cá nhân ; chẳng hạn như viviệc
chuẩn bị tài liệu hay cung cấp thông tincho nhân viên cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho các giai đoạn sau của quá trình EMS có liên quan đến kiểm tra và đánh giá. Do
đó nếu phân chia trách nhiệm diễn ra suôn sẻ và hiệu quả thì sau đó sẽ có một sự
phân định rõ ràng và không có một khoảng trống nào trong cơ cấu tổ chức doanh
nghiệp ,lĩnh vực ( nơi ) mà Welford&Gouldson (1993) cho là chỗ yếu nhất và EMS
thường xuyên phá vỡ.
Từ những đánh giá về môi trường, các doanh nghiệp cần phải xác định một số mục
tiêu có tính thực tế và khả thi. Các mục tiêu nên đ]ợc xác định phù hợp như trong
ngắn hạn nó phải trở thành một vài dấu hiệu và trong dài hạn thì phù hợp để cho

phép đo lường hiệu quả của việc cải thiện môi trường.
BS7550 (British Standards Institute, 1995, trang 6) xác định mục tiêu môi trường bao
gồm:
Yêu cầu thực hiện chi tiết, lượng hoá tất cả những gì có thể được, có thể thích ứng
được với doanh nghiệp hay các phần của nó, phải được xuất phát từ các mục tiêu môi
trường và cần được sắp xếp để đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Gilbert(1993) đề xuất rằng các mục tiêu cần thiết để đưa ra động lực, sự thoả mãn và
cảm quan thành công khi tiếp xúc với chúng.Trong thực tế rất khó có thể đạt được
một sự cân bằng như vậy, tuy nhiên cái mà Gilbert đề xuất đó là việc mỗi cá nhân có
liên quan đến quản lý môi trường thông qua tổ chức nên tự đặt ra những mục tiêu cụ
thể cho mình để đạt tới. Các mục tiêu này có thể được đưa ra trong các buổi thảo
luận tổ với sự có mặt của các cấp lãnh đạo trong doanh nghiệp, đó chính là nơi mà tất
cả các nhân viên cùng làm việc để tìm ra mục tiêunào có thể đạt được trong một
khoảng thời gian nhất định , làm thế nào để đạt được mục tiêu đó , và nó sẽ được đo
lường và trình bày như thế nào.
Các mục tiêu phải dễ hiểu đối với tất cả nhân viên, Phải phân bổ mức thời gian tương
đối để tạo điều kiện lập và thực thi kế hoạch. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp thấy khó
khăn trong việc phát triển một hệ thống chỉ số hoạt động môi trường , đặc biệt là các
thông tin về hoạt động cải thiện môi trường thường mang đặc tính thay đổi về chất
hơn là về lượng. Bất kỳ chỉ số thực hiện nào được xác định thì điều quan trọng là
chúng phải đễ hiểu theo các mục tiêu có liên quan, và hệ thống nhân viên phải có thể
làm việc được với chúng.
Một kế hoạch hành động được tạo ra để thực hiện những kiến nghị trong các bản
tổng kết hay thích ứng với các mục tiêu đặt ra. Kế hoạch này cần được lập ra với
những hoạt động thích hợp, trách nhiệm và cơ chế đo lường cụ thể. Gilbert cho rằng
chương trình hoạt động này có thể được thiết lập trong khi thảo luận tại tổ (nhóm) để
xác định mục tiêu của kế hoạch , và chương trình đó phải được chuyên môn hoá đến
từng phòng ban. Chương trình này có thể bao gồm những phần sau:
• Việc xác định vấn đề môi trường thông qua suy xét việc lựa chọn các thông tin
thích hợp;

• Việc phân tích vấn đề để xác định nguyên nhân thực sự của vấn đề;
• Việc phát triển các giải pháp cho từng vấn đề cụ thể;
• Việc thực hiện các giải pháp ; và
• Việc đánh giá và trình bày các hoạt động đẫ được tiến hành.
Gilbert nói rằng bộ phận này của hệ thống EMS nên bao hàm các vấn đề dẫn chứng
một số các hoạt động và hệ thống mà đảm bảo tất cả các hoạt động quản lý môi
trường và việc đạt được các mục tiêu có liên quan đều được tiến hành trong điều kiện
giám sát chặt chẽ. Hiểu theo cách khác thì hoạt động kiểm soát điều hành chính là sự
đánh giá và thẩm định lại những hoạt động dự định thực hiện đã được tiến hành
chưa, và xem xét tính chuẩn xác của hoạt động nếu nó chưa hoàn toàn đúng.
Văn kiện báo cáo rõ ràng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động này.Các báo
cáo này cũng cần phải công bố cho toàn bộ nhân viên của hệ thống EMS, làm sáng tỏ
trách nhiệm của họ, chỉ ra những thành tích nào vẫn được giữ, và mô tả những bước
tiến hành các hoạt động quản lý môi trường. Nó cũng tạo điều kiện thuận lợicho các
yêu cầu đào tạo , đưa ra cơ sở cho hoạt động kiểm tra, tổng kết và đánh giá hệ thống
EMS cũng như đưa ra một thông tin cho các khách hàng rằng hệ thống EMS vẫn
đang thực hiện tốt các chức năng của nó. Nhiều doanh nghiệp phát triển một hệ
thống sổ sách báo cáo quản lý để bao quát được cả những chức năng và yêu cầu này.
*Kiểm tra tính hiệu quả của chương trình quản lý.
Ðây là việc đánh giá thường xuyên và có hệ thống theo hiệu quả trong việc đạt được
các mục tiêu đề ra.Việc kiểm tra này được tiến hành trên quy mô toàn doanh nghiệp,
xem xét cơ cáu tổ chức doanh nghiệp, vai trò và trách nhiệm của môi trường , các
hoạt động điều hành và thực hiện việc quản lý môi trường, các hoạt động và quá
trình có liên quan đến việc quản lý môi trường, các thủ tục và chỉ tiêu đang được sử
dụng để cải thiện hoạt động môi trường của doanh nghiệp.
Kiểm tra có thể tự tiến hành nội bộ hay đi thuê, tuy nhiên yêu cầu chung là phải có
tính khách quan nhất định trong các báo cáo do đó những người làm công tác này cần

×