Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nghiên cứu, xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá kết quảhọc tập môn Toán lớp 12 tại trường THPT Bến Tre, Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.17 KB, 62 trang )

Phân tích tác động của khoa học kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất lúa tại 2
địa bàn: Cần Thơ và Sóc Trăng
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Đặt vấn đề
Lúa được xem là cây trồng chủ yếu ở các nước Châu Á và sản phẩm lúa
gắn liền với đời sống con người gần 10.000 năm, riêng khu vực Châu Á với hơn
3 tỷ dân đang sản xuất và tiêu dùng hơn 90% sản lượng gạo của thế giới. Cuộc
cách mạng “xanh” đã giúp các nước Châu Á tránh được tình trạng thiếu lương
thực và cải thiện đời sống vùng nông thôn xuất phát từ việc giảm được 30% chi
phí sản xuất nhờ áp dụng kỹ thuật sản xuất cải tiến. Trong những năm gần đây,
sản lượng tiêu thụ gạo tại một số nước thuộc Châu phi, Châu mỹ và Châu âu có
xu hướng tăng lên mặc dù gạo không phải nguồn lương thực chính đối với họ.
Năm 2002, hơn 50% dân số thế giới phụ thuộc vào sản phẩm gạo và gạo trở
thành nguồn cung cấp calories và protêin hàng ngày cho con người (Oladele, O.I
và Sakagami, J-I, 2004).
Thực trạng sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã trì trệ ở thập niên 1960 và
tăng nhẹ vào những năm 1970, trong giai đoạn này không có sự mở rộng diện
tích cũng như tăng năng suất do ảnh hưởng của chiến tranh. Tuy nhiên, đến
những năm sau thập niên 1980, 1990 thì sản xuất lúa gạo đạt tốc độ tăng trưởng
cao bình quân 5%/năm trong giai đoạn 1980 – 2000; trong đó, tăng năng suất
đóng góp 3,5% và tăng diện tích canh tác chiếm 1,5% (Trần Thị Út, 2002). Với
tốc độ tăng trưởng trên đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong ba nước
xuất khẩu gạo lớn nhất của thế giới từ năm 1989; cụ thể năm 2005, sản lượng
gạo xuất khẩu trên 5,2 triệu tấn đạt kim ngạch trên 1,2 tỷ đôla (Thời báo Kinh tế
Việt Nam, 20/02/2006). Thành tựu về sản xuất lúa gạo trong thời gian xuất phát
từ những nguyên nhân sau đây: thứ nhất, chính sách mở cửa nền kinh tế khởi động từ năm
1986 đã tạo điều kiện cho cho việc tự do hóa sản xuất hướng theo thị trường; thứ hai, chính sách
xác định quyền sử dụng đất của nông hộ và miễn giảm thuế nông nghiệp (Irving, 1995;
Pingali. P và V.T. Xuân, 1992).
1
Ngày nay, xu thế phát triển của các hoạt động kinh tế đã và đang dẫn đến


việc đô thị hóa các vùng nông thôn chuyên sản xuất nông nghiệp. Điều này làm
giảm diện tích đất canh tác ở một số vùng trong cả nước cũng như ở khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng như Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền
Giang, Long An là các tỉnh điển hình. Đồng thời, theo báo cáo của Viện nghiên
cứu lúa quốc tế (IRRI) năm 2003, các chuyên gia nhận rằng diện tích đất canh
tác nông nghiệp sẽ bị giảm đáng kể và thậm chí sẽ không thể sử dụng để sản
xuất do bị ô nhiễm bởi chất thải và hóa chất được sử dụng trong sản xuất.
Do vậy, để có thể duy trì mức sản lượng nông sản, đặc biệt là lúa gạo
nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như ổn định mức sản lượng
gạo xuất khẩu thì các nước sản xuất nông nghiệp đều xem việc áp dụng kỹ thuật
mới theo hướng sản xuất bền vững là một trong những giải pháp ưu tiên được
chọn trong quá trình sản xuất nông nghiệp và ở Việt Nam. Điều này cũng đang
được thực hiện; đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu long.
Theo một số nghiên cứu trước đây cho thấy, việc áp dụng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất lúa có thể làm giảm chi phí khoảng 22% và là tăng thu nhập
khoảng 29% (Huỳnh Thanh Chí, 2004). Các mô hình kỹ thuật mới được áp dụng
phổ biến như IPM, sạ hàng, bảng so màu lá lúa… Bên cạnh đó, các nghiên cứu
khác cũng cho thấy rằng, một số địa phương thì áp dụng kỹ thuật mới mang lại
hiệu quả kinh tế, nhưng các địa phương khác lại thất bại. Thậm chí theo phát
biểu của các cán bộ nông nghiệp một số tỉnh như Sóc Trăng, An Giang cho rằng,
một số địa phương, hoặc nông hộ không muốn áp dụng kỹ thuật mới. Vì vậy,
vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải xem xét những yếu tố gì cũng như các chính
sách liên quan trước khi triển khai việc ứng dụng kỹ thuật mới cho nông hộ;
đồng thời phân tích việc khai thác các nguồn lực sẵn có của nông hộ trong quá
trình sản xuất.
Chúng ta có thể thấy rằng phân tích việc áp dụng khoa học kỹ thuật trở
thành là trong những vấn đề cần thiết hiện nay, nhằm mục đích chỉ ra những mặt
tích cực cũng như những hạn chế về mặt nguồn lực, chính sách trong quá trình
2
triển khai. Và cuối cùng là đưa ra các đề xuất thiết thực trong việc áp dụng kỹ

thuật phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế đối với nông hộ. Xuất phát từ hoạt động
sản xuất thực tiễn và những định hướng sản xuất mang tính bền vững trong
tương lai đối với nông hộ sản xuất nông nghiệp của vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, đề tài này sẽ đi vào “Phân tích tác động của khoa học kỹ thuật đến hiệu
quả sản xuất lúa tại 2 địa bàn: Cần Thơ và Sóc Trăng”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung: Phân tích thực trạng áp dụng khoa học kỹ thuật sản xuất
lúa của nông hộ, đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình áp dụng kỹ thuật
và phân tích những thuận lợi và rào cản trong quá trình sản xuất nhằm mục đích
đề xuất những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập
cho nông hộ.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
 Mô tả thực trạng sản xuất của nông hộ liên quan các nguồn lực sẵn có;
 Nhận định và phân tích các hoạt động hỗ trợ áp dụng kỹ thuật;
 Đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình áp dụng kỹ thuật; và
 Đề xuất các biện pháp phát huy các mặt tích cực và khắc phục những hạn
chế trong quá trình triển khai và áp dụng kỹ thuật đối với nông hộ.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Chọn địa bàn nghiên cứu:
Khảo sát nông hộ sản xuất lúa tại các huyện: Cờ đỏ, Ô môn (TP.Cần Thơ)
và Mỹ Tú (Sóc Trăng). Phương pháp chọn địa bàn khảo sát dựa theo các tiêu chí
sau:
- Tham khảo số liệu từ Niên giám thống kê cấp tỉnh và chọn huyện có diện
tích sản xuất lúa tương đối lớn.
3
- Địa bàn khảo sát gần với các trung tâm chuyển giao khoa học kỹ thuật như
Viện lúa ĐBSCL, Trung tâm khuyến nông… nhằm mục đích quan sát khả
năng chuyển giao cũng như việc tiếp cận thông tin kỹ thuật của nông dân.
- Cách chọn nông hộ để phỏng vấn theo hướng dẫn của cán bộ địa phương
và phân tầng số mẫu theo mô hình canh tác, qui mô sản xuất, số năm áp

dụng kỹ thuật, thu nhập của nông hộ.
Bảng 1-1 Mô tả địa bàn nghiên cứu và thông tin nông hộ
Tỉnh Địa bàn khảo
sát
Số
mẫu
Tỷ
trọng
Mô hình ứng
dụng
Thông tin thu thập
TP.Cần
Thơ
Thới Lai 65 24,90 IPM
1
, sạ
hàng, giống
mới, 3 giảm
– 3 tăng,
lúa - màu,
lúa - thủy
sản
Nguồn lực của nông hộ, khả
năng tiếp cận thông tin
KHKT, mức độ hưởng lợi
từ KHKT, hiệu quả sản xuất
của nông hộ đối với sản
xuất lúa và những chính
sách tác động
Thới Long

96 36,78
Sóc Trăng
a
Phú Tâm 60 19,54
Hồ Đắc Kiện 40 15,33
Tổng 261 100,00
Nguồn: Kết quả khảo sát 261 nông hộ tại vùng nghiên cứu, 06/2006
a
Các xã thuộc huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) chỉ có các mô hình: IPM, giống mới, 3 giảm – 3 tăng
1.3.2. Số liệu thu thập
1.3.2.1. Số liệu thứ cấp
- Báo cáo tổng kết của các cơ quan, ban ngành
2
nông nghiệp năm 2005,
Trung tâm khuyến nông tỉnh Sóc Trăng, niên giám thống kê 2004, 2005,
các nghiên cứu liên quan.
- Một số nhận định, đánh giá của các nhà chuyên môn, quản lý trong lĩnh vực
nông nghiệp và kinh tế được thu thập thông qua phỏng vấn bán cấu trúc.
1.3.2.2. Số liệu sơ cấp:
Phỏng vấn trực tiếp 261 nông hộ trong địa bàn bàn nghiên cứu, gồm
+ 161 nông hộ tại TP.Cần Thơ (Ô Môn: Thới Long và Cờ Đỏ: Thới Lai)
+ 100 nông hộ tại Sóc Trăng (Mỹ Tú: Phú Tâm và Hồ Đắc Kiện)
1
Integateted Pest Management: Chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp do Tổ chức DANIDA của Đan Mạch tài
trợ và triển khai từ năm 1992.
2
Cơ quan ngành Nông nghiệp & PTNT cấp tỉnh, huyện, xã.
4
Nội dung phỏng vấn nông hộ, bao gồm:
+ Thông tin tổng quát về đặc điểm nguồn lực và sản xuất của nông hộ.

+ Các mô hình canh tác lúa mà nông hộ đang áp dụng.
+ Hình thức và khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật.
+ Các khoản mục, tiêu chí liên quan đến hiệu quả sản xuất.
+ Thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra, và những vấn đề liên quan
đến mô trường bên ngoài nông hộ như cơ sở hạ tầng, kênh tín dụng, chính sách
hỗ trợ…
+ Nhận định của nông dân về thuận lợi và khó khăn trong quá trình sản
xuất và áp dụng khoa học kỹ thuật.
1.3.3. Phân tích dữ liệu
- Phân tích mô tả: thực trạng sản xuất và áp dụng kỹ thuật của nông hộ
liên quan đến nguồn lực sẵn có; bao gồm các chỉ tiêu: diện tích đất canh tác,
nguồn lực lao động, vốn sản xuất, kinh nghiệm sản xuất.
- Phân tích định lượng: để đáp ứng mục tiêu về phân tích hiệu quả sản
xuất, trong nghiên cứu này sẽ trình bày mô hình ước lượng các yếu tố nhằm xác
định mối tương quan và giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
trong quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật. Mô hình ước lượng các yếu tố được
thể hiện dưới dạng tổng quát sau:
lnY = fln(X
1
, X
2
, X
3
,

X
4
, X
5
, X

6
)
Trong đó:
• lnY: Thu nhập của nông hộ (đồng/1.000m
2
)
• ln(X
1
, X
2
, X
3
,

X
4
, X
5
, X
6,
X
7
, X
8
): trình độ học vấn, năm kinh nghiệm,
lao động, chi phí giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuỷ lợi,
chuẩn bị đất.
- Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc được sử dụng nhằm tiếp thu các ý
kiến, nhận định của các nhà chuyên môn, quản lý nhằm làm cơ sở để đề xuất các
giải pháp cụ thể trong việc triển khai và áp dụng kỹ thuật đạt hiệu quả hơn.

5
1.4. Phạm vi nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu từ khảo sát nông hộ thực hiện các mô hình sản xuất lúa tại
hai địa phương gồm: TP. Cần Thơ và Sóc Trăng. Trong nghiên cứu này, các mô
hình sản xuất lúa áp dụng khoa học kỹ thuật được khảo sát: sạ hàng, IPM, ba
giảm – ba tăng, lúa – màu, lúa - thủy sản đối với vụ lúa Đông-Xuân 2005 –
2006.
- Kết quả nghiên cứu chỉ phản ánh hiệu quả sản xuất thông qua một số chỉ tiêu
như: thu nhập, lợi nhuận, chi phí trên diện tích canh tác, trên ngày công lao động
và so sánh, đánh giá giữa các mô hình áp dụng khoa học kỹ thuật.
1.5. Nội dung của đề tài
Chương 2 trình bày xu hướng áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất
nông nghiệp, các hình thức áp dụng như thay đổi giống, quy trình sản xuất, các
nguồn lực đầu vào, hoặc sản xuất kết hợp các loại cây trồng vật nuôi… Bên
cạnh, chương này còn chỉ ra những tác động của khoa học kỹ thuật đến hiệu quả
sản xuất trong nông nghiệp nói chung cũng như sản xuất lúa nói riêng, và một số
kết quả nghiên cứu có liên quan cũng được tổng hợp nhằm làm cơ sở minh
chứng và xây dựng mô hình phân tích thu nhập trong chương 4.
Chương 3 mô tả tổng quan về thực trạng sản xuất nông nghiệp và lúa của
vùng ĐBSCL nói chung và tại địa bàn nghiên cứu nói riêng. Hơn nữa, chương
này còn phản ánh khả năng về nguồn lực của nông hộ trong quá trình áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa như vốn, lực lượng lao động, kinh nghiệm
sản xuất, diện tích đất canh tác, hoạt động xã hội. Đồng thời, chương 3 sẽ trình
bày các mô hình và mức độ chấp nhận của nông dân tại địa bàn nghiên cứu, các
hoạt động chuyển giao kỹ thuật của các cơ quan chuyên ngành, và một số nhận
định, đánh giá về lợi ích khi áp dụng khoa học kỹ thuật của nông dân và cán bộ
chuyên ngành nông nghiệp.
Chương 4 trình bày kết quả phân tích hiệu quả sản xuất theo các mô hình
áp dụng kỹ thuật tại địa bàn nghiên cứu; trong đó, một số chỉ tiêu được phân tích
6

và so sánh chi tiết giữa các mô hình như năng suất, giá lúa tiêu thụ, chi phí sản
xuất, thu nhập và lợi nhuận. Ngoài ra, một số đánh giá của nông dân về hiệu quả
sản xuất và thuận lợi, khó khăn trong quá trình áp dụng mô hình cải tiến cũng
được đề cập trong chương này.
Chương 5 tổng hợp một số vấn đề nổi bật trong quá trình áp dụng khoa
học kỹ thuật của nông hộ tại vùng nghiên cứu. Từ đó, một số đề xuất được đưa
ra nhằm góp phần phổ biến vai trò của khoa học kỹ thuật cũng như nâng cao
hiệu quả sản xuất đối với nông dân trong sản xuất lúa.
CHƯƠNG 2. XU HƯỚNG ÁP DỤNG KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG
NÔNG NGHIỆP
7
2.1. Khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp
Từ những năm 50 của thế kỷ 20, các tác giả như Schultz (1953),
Grilleches (1958) đã từng nghiên cứu về sự đóng góp của công tác khuyến nông
vào sự tăng trưởng nông nghiệp. Cho đến nay, có hàng trăm công trình nghiên
cứu ở các mức độ khác nhau về đóng góp của khoa học kỹ thuật đối với sự phát
triển của nông nghiệp và nông thôn.
Phát triển nông nghiệp tác động đến cả kinh tế, xã hội và môi trường. Vì
thế, khi đánh giá sự đóng góp của khoa học kỹ thuật, chúng ta thường mong
muốn xem xét tác động của nó đến cả ba bộ phận trên. Tuy nhiên, hầu hết các
nghiên cứu được tiến hành phần lớn tập trung vào đánh giá tác động của khoa
học kỹ thuật về mặt kinh tế.
Trên thế giới các nghiên cứu về tác động của khoa học kỹ thuật rất khác
nhau. Theo không gian, phạm vi tác động của khoa học kỹ thuật được xem xét ở
các cấp độ như đồng ruộng, từng nông trại, từng cộng đồng, từng vùng và cả
nước. Theo đối tượng ứng dụng của khoa học kỹ thuật, tác động của nó được
xem xét ở phạm vi từng sản phẩm riêng biệt (lúa, sản phẩm thịt) hay nhóm sản
phẩm như lương thực, thực phẩm hay cả nền nông nghiệp.
Trong phạm vi từng sản phẩm, khoa học kỹ thuật được thể hiện dưới các
dạng chủ yếu như: áp dụng giống mới, thay đổi quy trình, kỹ thuật sản xuất, thay

đổi các nguồn lực đầu vào, hoặc kết hợp các mô hình trong quá trình sản xuất
3
.
Các nhà kinh tế cho rằng khoa học kỹ thuật là một tập hợp những kỹ thuật sẵn
có hoặc trình độ kiến thức về mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng
đầu ra bằng vật chất nhất định. Còn đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến
thức sau cho nâng cao được năng lực sản xuất để có thể làm ra nhiều sản phẩm
hơn với số lượng đầu vào như cũ hoặc làm ra một lượng sản phẩm như cũ với
khối lượng đầu vào ít hơn. Nhiều đổi mới công nghệ trong nông nghiệp còn
nhằm để tiết kiệm lao động, tiết kiệm đất đai.
3
Frank Ellis, (2000). “Peasant Economics – Farm households and agrarian development”, Second Edition, tr.
224-227.
8
Phần lớn những tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất đều tạo ra khả năng
đạt được mục tiêu kinh tế do xã hội đặt ra như năng suất, đồng thời nó cũng tạo
ra những hiệu quả xã hội khác như cải thiện điều kiện sống, cải tạo môi trường
sinh thái.
Vì vậy, nội dung của nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích tác động
của khoa học kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất của các mô hình sản xuất có áp
dụng kỹ thuật, bao gồm: sử dụng giống mới, ba giảm – ba tăng, sạ hàng, IPM,
lúa - thủy sản, lúa – màu.
2.2. Tác động của khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa
Sự phát triển ngày càng mạnh của việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào các hoạt động kinh tế, xã hội, y tế nói chung cũng như áp dụng vào
trong quá trình sản xuất nói riêng; một mặt là nhằm tăng năng suất sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, mặt khác tạo ra những sản phẩm mang tính cạnh
tranh cao so với sản phẩm của nhà sản xuất khác trong nền kinh tế thị trường
hiện nay. Vì vậy, việc đầu tư, nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào trong quá trình sản xuất là cần thiết. Do đó, các nhà kinh tế trong quá trình

đánh giá hiệu quả sản xuất, họ cũng ước lượng những yếu tố tác động của tiến
bộ khoa học kỹ thuật theo thời gian và đưa các yếu tố này vào hàm sản xuất.
Áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất là xu thế của các nhà sản xuất trong
quá trình hội nhập kinh tế. Kết quả của sự ứng dụng là năng suất sản xuất được
nâng cao cũng như chất lượng sản phẩm được cải tiến. Tại Việt Nam cho đến
nay, nhiều ý kiến cho rằng sự đóng góp của khoa học kỹ thuật vào tốc độ tăng
trưởng nông nghiệp là khoảng 30%. Tuy nhiên, đây chỉ là ý kiến ước đoán của
các chuyên gia hơn là dựa vào các kết quả nghiên cứu. Nhiều tác giả cũng đã chỉ
ra rằng chính sách đổi mới có tác động làm tăng năng suất và sản lượng lúa một
cách rõ rệt. Cụ thể là trường hợp áp dụng mô hình IPM trên ruộng lúa cho thấy, chi
phí sản xuất sẽ giảm 22,85% và thu nhập ròng tăng 33% so với không áp dụng mô
hình (Báo cáo của Câu lạc bộ IPM, xã Viên An, Mỹ Xuyên, Sóc Trăng, 2004).
9
Hơn nữa, theo nhận định của Ông Bùi Bá Bổng - Thứ trưởng Bộ Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn- ngành nông nghiệp trong những thập kỷ gần đây
đạt tốc độ tăng trưởng khá, trong đó có sự đóng góp đáng kể của khoa học kỹ
thuật, công nghệ. Theo kết quả tính toán của tác giả dựa theo mô hình Solow
cho thấy tốc độ tăng trưởng nông nghiệp của ĐBSCL trong giai đoạn 1995 –
2003 bình quân 6,3%; trong đó, sự đóng góp của khoa học kỹ thuật là 15,74%,
và các yếu tố khác chiếm 84,26%. Bên cạnh đó, diện tích canh tác lúa đã tăng từ
6.042.800 ha năm 1990 lên 7.443.800 ha (2004), những năm qua với sự chuyển
đổi các giống mới và mô hình canh tác cải tiến đã tác động đến năng suất tăng từ
40,2 tạ/ha (1995) lên đến 48,6 tạ/ha (2004); nên sản lượng lúa tăng gần gấp hai
lần trong giai đoạn 1990 – 2004 từ 19,2 triệu tấn lên 35,8 triệu tấn.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng ưu điểm của ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp nói chung và cây lúa nói riêng đã tạo ra khối
lượng hàng hóa rất lớn, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và tăng
kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, tồn tại một vấn đề đó là thu nhập của
người sản xuất lúa tương đối thấp (khoảng 700.000 đồng/công/vụ) bởi vì trong
thời gian qua việc ứng dụng khoa học kỹ thuật theo chiều rộng nghĩa là nâng cao

năng suất, tăng sản lượng dẫn đến tình trạng trúng mùa rớt giá cho nên để giúp
cho người sản xuất nâng cao thu nhập thì cần chuyển hướng ứng dụng khoa học
kỹ thuật theo chiều sâu nghĩa là nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của nông
sản như Thái lan đã thực hiện.
Hiệu quả sản xuất của tiến bộ khoa học kỹ thuật là một bộ phận của hiệu
quả kinh tế - xã hội, nó là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, nó gắn liền với
hiệu quả sử dụng ruộng đất, với việc lợi dụng tối đa các điều kiện khí hậu - thời
tiết, gắn liền với việc tác động chủ quan của con người thông qua việc áp dụng
các kỹ thuật tiến bộ vào kinh tế, vào sản xuất.
Thực chất của việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiến bộ là đầu tư bổ
sung trên đơn vị diện tích. Thông thường các yếu tố đầu tư bổ sung có chất lượng
cao hơn, hoàn thiện hơn và nâng cao hiệu quả hơn các yếu tố đầu tư đã sử dụng
10
trước đó. Sự tác động này có thể trực tiếp – thông qua việc nâng cao số lượng và
chất lượng các yếu tố đầu tư bổ sung, hoặc có thể tác động gián tiếp – thông qua
bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý hơn, hay là áp dụng phương pháp phù hợp hơn.
Kết quả áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiến bộ có thể biểu hiện bằng sản
phẩm hữu hình và sản phẩm vô hình bao gồm:
- Số lượng, chất lượng và giá trị sản phẩm tăng thêm
- Chi phí trên một đơn vị sản phẩm giảm
- Cải thiện điều kiện lao động cho nông dân
- Cải thiện đời sống cho người lao động
- Cải tạo môi trường sinh thái.
2.3. Một số kết quả nghiên cứu liên quan
Khuda. B, Ishtiaq. H và Asif. M (2005) đã nghiên cứu về tác động của
mô hình Zero-tillage trong sản xuất lúa mì của 80 nông hộ tại Lahore, Pakistan
cho thấy năng suất cao hơn mô hình sản xuất truyền thống khoảng 7,1% và chỉ
tiêu về hiệu quả đầu tư đạt đến 2,28 lần so với 1,81 lần của mô hình truyền
thống. Cụ thể là chi phí sản xuất giảm xuống 22%, nhưng lợi nhuận tăng lên
22,4% so với mô hình truyền thống. Hơn nữa, các tác giả cũng đã áp dụng mô

hình hồi qui tương quan để ước lượng các yếu tố tác động đến thu nhập như sau:
Y = f(X
1
, X
2
, X
3
,

X
4
, X
5
, X
6
)
Trong đó:
• Y: Thu nhập
• X
1
, X
2
, X
3
,

X
4
, X
5

, X
6
: Chi phí gieo sạ, thuỷ lợi, phân bón, chăm sóc, số
năm kinh nghiệm, và biến dummy (1: có áp dụng kỹ thuật; 0: chưa áp
dụng)
11
Kết quả ước lượng cho thấy lợi nhuận có quan hệ tỷ lệ thuận với một số
yếu tố trong mô hình ước lượng như chi phí thuỷ lợi, phân bón, công chăm sóc
và có áp dụng mô hình Zero-tillage với mức ý nghĩa thống kê 0,05.
Flordeliza H.Bordey (2004) Viện nghiên cứu lúa Philippines, đã trình bày
kết quả đánh giá về khía cạnh kinh tế - xã hội của việc áp dụng giống lúa lai
trong sản xuất tại Philippines, mục tiêu của nghiên cứu là xác định rõ các yếu tố
ảnh hưởng đến sự chấp nhận sản xuất các giống lúa lai. Kết quả cho thấy rằng
năng suất của giống lúa lai cao hơn so với các giống lúa truyền thống và giá lúa
lai cũng được trả cao hơn trên thị trường. Tuy nhiên, chi phí sản xuất của mô
hình lúa lai lại cao hơn do giá giống và mức độ sử dụng vật tư nông nghiệp cũng
cao hơn. Nhìn chung, mô hình lúa lai được khuyến cáo áp dụng rộng rãi bởi vì
thu nhập và lợi nhuận từ mô hình vẫn cao hơn so với giống truyền thống khoảng
15% và 8% tương ứng.
Chengappa. P.G, Aldas. J và Srinivasa Gowda.M.V (2003) đã nghiên cứu
về lợi ích của mô hình canh tác các giống lúa lai tại Karnataka. Mục tiêu của
nghiên cứu này nhằm đánh giá lợi ích của các giống lúa lai và xác định các yếu
tố ảnh hưởng năng suất cũng như sự chấp nhận áp dụng của nông dân tại
Karnataka. Kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí sản xuất khi áp dụng các giống
lúa lai cao hơn so với giống thường do có sự gia tăng chi phí giống, phân bón và
lao động. Tuy nhiên, năng suất của các giống lúa lai cao (8,41 tấn/ha) so với
giống thường (7,42 tấn/ha) dẫn đến chênh lệch về thu nhập khoảng 5%. Nghiên
cứu này còn cho thấy có quan hệ chặt chẽ giữa năng suất lúa và các yếu tố chi
phí như giống, phân bón, lao động; đồng thời, các tác giả cũng đã phát hiện các
nguyên nhân dẫn đến quyết định áp dụng các giống lúa mới như: hỗ trợ của nhà

nước về giá giống, khuyến nông, tính kháng sâu bệnh, rầy tốt, tính thích nghi và
năng suất cao.
Nguyễn Kim Chung (2004) đã chỉ ra rằng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất lúa tác động làm phân biệt hiệu quả sản xuất giữa hộ có áp
dụng mô hình và không áp dụng. Khi nông hộ sử dụng giống đạt năng suất cao
12
sẽ giúp họ tăng lợi nhuận từ 1.100.000 – 1.600.000 đồng/ha; và nếu như nông hộ
ứng dụng phương pháp sạ hàng thì chi phí giống chỉ còn ở mức 73% so với các
mô hình khác và thuốc bảo vệ thực vật chỉ còn 35-60% kết quả được thực hiện
tại Long Điền B, vụ lúa Đông Xuân.
Huỳnh Thanh Chí (2004) đã phân tích hiệu quả sản xuất của các mô hình
tại xã Viên An, Mỹ Xuyên, Sóc Trăng cũng cho thấy kết quả tương tự, đó là lợi
nhuận của những hộ có áp dụng mô hình kỹ thuật tiến bộ tăng từ 20-30%.
Nguyễn Văn Luật (2001), Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL, kết quả nghiên
cứu của tác giả cho thấy rằng phương pháp sạ hàng được triển khai với qui mô
10 ngàn ha tại ĐBSCL đã giúp nông dân không những tiết kiệm bình quân ít
nhất 100-150kg giống/ha, mà còn tạo điều kiện tốt cho các loại cá tự nhiên trên
ruộng phát triển, giảm thiệt hại do dịch bệnh và năng suất tăng khoảng 20%.
CHƯƠNG 3. TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN LỰC
CỦA NÔNG HỘ SẢN XUẤT LÚA
13
3.1. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
ÐBSCL chẳng những làm tròn nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia mà còn hướng mạnh vào thị trường xuất khẩu với những sản phẩm chủ
lực như lúa, cá, tôm sú... Ðiều đó cho thấy nền kinh tế ÐBSCL đã chuyển động
đúng hướng và tăng trưởng nhanh. Cơ cấu kinh tế vùng đã chuyển dịch theo
hướng tích cực trong những năm qua. Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp từ 61,8% năm 1995 giảm còn 51,38% năm 2000 và 45,9% vào năm
2005; khu vực 2: công nghiệp và xây dựng từ 11,7% năm 1995 tăng lên 19,5%
vào năm 2000 và 23% vào năm 2005; khu vực 3: dịch vụ từ 21,3% vào năm

1995 tăng lên 29% vào năm 2000 và lên 31% vào năm 2005. ÐBSCL chuyển từ
kinh tế thuần nông sang nền kinh tế đa dạng, nông nghiệp chất lượng cao và
đang hướng tới nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Rõ nhất là trên lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp. Nếu như trước đây, các tỉnh trong vùng thiên về phát triển lúa
trên diện rộng, chạy theo số lượng thì đến năm 2005, diện tích trồng lúa toàn
vùng giảm gần 300 nghìn ha nhưng sản lượng lúa vẫn tiếp tục tăng 14,3%, đạt
18,287 triệu tấn, giá trị kinh tế đạt 20,2 triệu đồng/ha/năm (2000), tăng lên 28
triệu đồng (2005)
4
.
Cùng với sự phát triển nông nghiệp, tại ĐBSCL các ngành nghề có liên
quan như công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, tiểu thủ công nghiệp - ngành
nghề nông thôn, thương mại dịch vụ nông nghiệp thời gian qua đã không ngừng
khởi sắc, tạo nên diện mạo kinh tế năng động của vùng. TP. Cần Thơ và Sóc
Trăng là hai địa phương thuộc ĐBSCL có điều kiện tự nhiên thuận lợi đối với
sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Dân số của hai địa phương này
chiếm 13,93% dân số của vùng, trong đó, riêng TP.Cần Thơ là 1,12 triệu người
và Sóc Trăng là 1,26 triệu người. Diện tích tự nhiên của hai địa phương chiếm
11,6% diện tích của vùng; trong đó, TP. Cần Thơ có 1.390 km
2
và Sóc Trăng có
3.223 km
2
(xem tại www.gso.gov.vn).
4
Trích từ bài “Ðể đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng kinh tế động lực” Báo điện tử Kiên Giang; có thể
xem tại
14
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2005 của hai địa
phương đạt 15,7% (TP.Cần Thơ) và 15% (Sóc Trăng), cơ

cấu kinh tế chuyển dần từ khu vực 1 sang khu vực 2 và
3 phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của vùng theo Nghị quyết 21 của Bộ chính trị
về việc phát triển kinh tế - xã hội theo hướng chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ. Trong đó, TP.Cần Thơ được xem là một trong
những địa phương trọng điểm của vùng có tốc độ phát
triển công nghiệp cao 17,3% /năm so với mức bình quân
15,4% của vùng và 15,9% của Sóc Trăng (Niên giám thống
kê 2004, tr.276).
Hình 3-1 Cơ cấu kinh tế của vùng, TP.Cần Thơ và Sóc Trăng, 2004
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê, 2004
Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của vùng trong giai
đoạn đến năm 2010 xác định: Đồng bằng sông cửu long vẫn là vùng sản xuất,
cung cấp lương thực cho cả nước và xuất khẩu; trong đó, lúa vẫn được xem là
chủ yếu. Trên cơ sở, các địa phương đã tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp
theo hướng nâng cao năng suất và chất lượng bằng cách bố trí cơ cấu mùa vụ
từng vùng một cách hợp lý, thay đổi các giống lúa cũ, thoái hóa bằng những
giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao.
Hơn nữa, từ trước đến nay, sản xuất nông nghiệp của Cần Thơ và cả vùng
ĐBSCL chỉ làm nhiệm vụ sản xuất ra nông sản hàng hóa như lúa gạo, tôm cá,
15
trái cây... phục vụ cho người tiêu dùng. Các loại nông sản hàng hóa này có giá
trị thấp, hiệu quả sản xuất không cao, nên đời sống nông dân còn khó khăn. Khi
chuyển sang nền sản xuất nông nghiệp đô thị, nghĩa là tạo ra những sản phẩm có
giá trị kinh tế cao như cây cảnh, hoa, cá kiểng... để cung cấp cho các đô thị trong
nước và xuất khẩu. Kết quả thực tế từ nền sản xuất nông nghiệp đô thị như
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt đã thực hiện cho thấy hiệu quả kinh tế cao gấp
nhiều lần so với sản xuất nông sản hàng hóa thông thường. Tuy nhiên, nền sản
xuất nông nghiệp đô thị cần nhiều vốn và đòi hỏi phải áp dụng những tiến bộ

của khoa học kỹ thuật vào sản xuất mới mang lại hiệu quả
5
.
Sóc Trăng là một trong các tỉnh trong vùng có thế mạnh về sản xuất nông
nghiệp; đặc biệt là cây lúa với những giống lúa mới đạt năng suất cao. Diện tích
tự nhiên là 3.223 km
2
, trong đó diện tích phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm
81,9%. Bên cạnh đó, diện tích canh tác lúa là 161.608 ha (tương ứng diện tích
gieo trồng là 315.205 ha) chiếm 73,2% tổng diện tích canh tác nông nghiệp
(xem tại www.gso.gov.vn). Cơ cấu mùa vụ trong năm khá đa dạng phụ thuộc
vào điều kiện sinh thái khác nhau của từng vùng mà nông dân có thể canh tác
lúa 3 vụ, 2 lúa – 1 màu, 1 lúa- 1 tôm… Theo Ông Huỳnh Ngọc Vân – GĐ Trung
tâm Giống Sóc Trăng, khoảng 95% giống lúa do nông dân tự cung cấp và giống
lúa cũng rất đa dạng phụ thuộc vào loại đất và thị trường tiêu thụ; hơn nữa, nông
dân phải thường xuyên thay đổi giống lúa từng vụ sản xuất do sự thoái hóa hoặc
lẫn tạp chất nếu sử dụng lại giống cũ.
Sóc Trăng là một trong các tỉnh đi đầu trong vùng về việc nghiên cứu,
triển khai và ứng dụng các giống lúa mới đạt năng suất cao như OM3238,
OM576, ST3, ST5, Jasmin… trong năm 2005 Trung tâm giống cây trồng tỉnh đã
cung cấp 720 tấn giống lúa mới cho nông dân trong địa bàn tỉnh; ngoài ra, Trung
tâm giống cây trồng còn thực hiện liên kết với các Viện, trường đại học để
nghiên cứu cập nhật những giống lúa mới và tư vấn, hỗ trợ nông dân trong việc
5
Trích từ bài “Nông nghiệp đô thị - Động lực để Cần Thơ phát triển nhanh và bền vững”
có thể xem tại
16
ứng dụng trên đồng ruộng. Kết quả của việc triển khai khoa học kỹ thuật đã tác
động đến năng suất ổn định bình quân từ 7 – 8 tấn/ha
6

.
Song song đó, nông hộ ở TP. Cần Thơ có điều kiện thuận lợi để khai thác
các lợi thế phát triển nền nông nghiệp, trải qua nhiều thập niên và thế hệ gắn liền
với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông dân Cần Thơ nói riêng cũng như cả
vùng đã tự tích lũy được nhiều kinh nghiệm, mặt khác việc tăng cường tuyên
truyền và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân thời gian gần đây đã giúp
bà con nâng cao trình độ và khả năng tiếp nhận, ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất. Trường hợp chuyển giao giống mới của Viện Lúa ĐBSCL
hợp tác với Công ty Mekong là một minh chứng cụ thể; hoạt động này đã giúp
hàng trăm nông hộ ở huyện Cờ Đỏ trực tiếp tham gia sản xuất ra lúa giống xác
nhận để cung cấp cho các vùng nguyên liệu của công ty này. Những hộ tham gia
sản xuất lúa giống cho công ty Mekong đều đạt mức lợi nhuận cao và rất thành
thạo việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Hơn nữa, ÐBSCL đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh năng
động và hiệu quả như Nông trường sông Hậu, phong trào hợp tác hóa trên quy
mô ấp ở các địa phương. Trong đó, cụm nhà máy xay xát và đánh bóng gạo tại
huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ trở thành đầu mối thu gom lúa hàng hóa
các tỉnh ÐBSCL và chiếm từ 30% đến 50% lượng gạo xuất khẩu cả nước
7
. Việc
hình thành và đầu tư xây dựng chợ đầu mối chuyên doanh lúa gạo khu vực tại
huyện Thốt Nốt sẽ dự báo xu hướng phát triển mạng lưới kinh doanh cũng như
nâng cao giá trị sản phẩm gạo của vùng trong thời gian tới.
Bảng 3-1 Tình hình sản xuất lúa của vùng, TP.Cần Thơ và Sóc Trăng, 1995 – 2004
Địa
phương
ĐBSCL TP. Cần Thơ Sóc Trăng
Năm DT NS SL DT NS SL DT NS SL
1995 3.190,6 40,2 12.831,7 401,8 42,6 1.710,7 275,6 39,5
1.088,

1
6
Báo cáo của Trung tâm giống cây trồng tỉnh Sóc Trăng, 2005
7
Ibid
17
1996 3.442,7 40,1
13.818,
8 405,8 44,4 1.803,1 320,2 35,9 1.150,4
1997 3.480,6 39,8
13.850,
0 389,4 44 1.713,0 330,7 35,7 1.181,2
1998 3.760,6 40,7 15.318,6 433,7 43,7 1.894,7 343,6 40,2 1.381,5
1999 3.985,2 40,9 16.294,7 466,6 42,4 1.979,6 356,5 42,3 1.507,5
2000 3.945,8 42,3 16.702,7 413,4 45,5
1.882,
8 370,4 43,7
1.618,
0
2001 3.792,0 42,2 15.997,5 441,1 44,3 1.954,4 348,8 43,7 1.525,7
2002 3.834,8 46,2 17.709,6 456,6 48,5 2.216,2 354,9 46,3 1.642,8
2003 3.787,3 46,8
17.528,
0 453,4 47,3 2.142,4 349,6 46,1 1.610,2
2004
a
3.809,4 48,6
18.520,
2 229,9 52,0 1.194,7 315,2 48,1 1.516,3
Nguồn: Niên giám thống kê, 2005 (có thể xem tại www.gso.gov.vn)

DT: ha; NS: tạ/ha; SL: 1.000 tấn
a
năm 2004, Tỉnh Cần Thơ được chia tách thành TP.Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang
Nhìn chung, thực trạng sản xuất lúa của cả vùng được thể hiện ở bảng 3-1
cho thấy, diện tích sản xuất lúa tại hai địa phương trong những năm gần đây có xu
hướng giảm chủ yếu đối với vụ Xuân Hè và Thu Đông, nguyên nhân do chuyển đổi
cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang trồng màu và nuôi thuỷ sản và do nạo vét các
công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, lúa vẫn là cây lương thực chủ yếu của vùng, đây là
ngành hàng có thể nói điều kiện thị trường tương đối ổn định so với các sản phẩm
nông nghiệp khác vì tính thiết yếu của sản phẩm gạo, năm 2005 giá lúa phổ biến ở
mức 2.200-2.300 đồng/kg
8
.
Trong quá trình khảo sát cho thấy nông dân sản xuất lúa chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm tập quán của họ và thông tin thị trường về sản phẩm hạn chế. Từ
năm 1994 một số giống lúa mới đã được đưa vào sản xuất đặc biệt sự đóng góp
của các giống lúa mới có năng suất cao như OM3238, PSBRc20, OM3242…
Chúng ta có thể lấy trường hợp của tỉnh Sóc Trăng làm minh chứng, năng suất lúa
8
Trích bài viết “Thực trạng áp dụng khoa học kỹ thuật tại phường Thới Long, Ô Môn, Cần Thơ” của Ngô Thị
Ngọc Giàu, Luận văn tốt nghiệp đại học ngành Kinh tế nông nghiệp. Khoa Kinh tế - QTKD, Đại học Cần Thơ,
(2006). tr 27.
18
tăng bình quân từ 43,7 tạ/ha năm 2000 lên đến 48,1 tạ/ha năm 2004 so với năng
suất bình quân của TP.Cần Thơ là 52 tạ/ha và của vùng là 48,6tạ/ha năm 2004.
3.2. Đánh giá thực trạng sản xuất lúa của nông hộ
3.2.1. Nguồn lực sản xuất của nông hộ
Đất sản xuất: kết quả khảo sát 261 nông hộ sản xuất lúa tại vùng nghiên
cứu cho thấy nguồn lực của nông hộ giữa hai địa phương có nhiều tiêu chí tương
đồng nhau. Diện tích canh tác của nông hộ bình quân 11,6 công, trong đó diện

tích sản xuất lúa đạt 10,7 công (chiếm 92,3% tổng diện tích canh tác của nông
hộ). Khoảng 10% trong số những hộ được hỏi cho rằng diện tích sản xuất họ có
thay đổi trong những năm gần đây phần lớn do họ mở rộng thêm diện tích từ
việc cải tạo đất chưa sản xuất hoặc mua đất từ những người khác.
Lực lượng lao động tham gia hoạt động sản xuất bình quân khoảng 3
người trong nông hộ gồm 5 thành viên, bởi vì các thành viên khác là những
người phụ thuộc như người lớn tuổi, hoặc trẻ em trong độ tuổi đi học. Kết quả
phỏng vấn 261 người đại diện nông hộ (chủ yếu chủ hộ) cho thấy họ chỉ đạt
trình độ văn hóa ở bậc tiểu học chiếm đến 52,11%; tỷ lệ này ở Cần Thơ đạt đến
54,7%. Hơn nữa, nông dân là người Khmer tại địa bàn nghiên cứu của Sóc
Trăng cho thấy 92,3% trong số họ chỉ hoàn thành bậc tiểu học và 7,7% không
đến trường do tạo quán cư trú của người Khmer chủ yếu ở vùng sâu, xa, điều
kiện giao thông nông thôn hạn chế và cả gia đình thường xuyên đi làm thuê (cắt
lúa, làm đất…) ở các địa phương khác nên ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập
của các thành viên trong gia đình.
Phần lớn nông hộ trong địa bàn khảo sát có kinh nghiệm sản xuất lúa trên 10
năm (trên 90% trong số 261 hộ), bình quân hộ tham gia sản xuất lúa hơn 27 năm
đây là yếu tố quan trọng giúp cho nông hộ có thể tiếp cận và áp dụng kỹ thuật
thuận lợi hơn (xem Phụ lục 1). Ngoài sản xuất lúa thì nông hộ còn tham gia vào
một số hoạt động tạo thu nhập khác như: nuôi thủy sản, nuôi heo, gia cầm và hoạt
động phi nông nghiệp.
Bảng 3-2 Đặc điểm về nguồn lực sản xuất của nông hộ
Chỉ tiêu ĐVT Cần Thơ Sóc Trăng
19
(N = 161) (N = 100)
Diện tích đất công/hộ 10,56 13,49
Diện tích canh tác lúa công/hộ 9,40 13,07
Thành viên gia đình người/hộ 5,31 5,04
Lao động gia đình người/hộ 2,78 2,15
Vốn sản xuất 1.000 đồng/hộ 6.163 4.409

Kinh nghiệm sản xuất lúa năm 27,61 27,30
Nguồn: Kết quả khảo sát 261 hộ tại vùng nghiên cứu, 2006
Vốn sản xuất: Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm đạt mục tiêu nâng cao
giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác như cánh đồng 30, 50 triệu, nông
hộ sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng trong địa bàn
nghiên cứu đã thay đổi tạp quán canh tác lúa từng bước ứng dụng những giống
lúa mới đạt năng suất cao cũng như hình thức canh tác như sạ hàng, IPM, 3 giảm
– 3 tăng hoặc tăng vụ. Cho nên, nhu cầu đầu tư vốn cho các khâu chuẩn bị sản
xuất cũng tương đối cao bình quân trên 5 triệu đồng; nhu cầu vốn đối với nông
hộ tại địa bàn của Cần Thơ là 6,1 triệu đồng so với Sóc Trăng là 4,4 triệu đồng.
Tỷ lệ nông hộ có nhu cầu vốn sản xuất từ 500 ngàn đến 10 triệu đồng chiếm khá
cao (63,6%) do diện tích sản xuất lúa của nông hộ chủ yếu từ 5 – 10 công chiếm
đến 40,6% trong tổng số 261 hộ được khảo sát (xem chi tiết ở Phụ lục 2).
Khi được hỏi đến khả năng nguồn vốn của nông hộ trong quá trình sản
xuất, 110 trong số 258 nông hộ trong vùng nghiên cứu cho biết họ phải vay vốn
để phục vụ sản xuất lúa chiếm 42,6%. Trong đó, nông dân vay chủ yếu từ Ngân
hàng nông nghiệp & PTNT chiếm 82,7%, bởi vì, lãi suất cho vay của Ngân hàng
20
Hình 3-2 Nhu cầu vốn sản xuất của nông hộ
Nguồn: Kết quả khảo sát 261 hộ tại vùng nghiên cứu, 2006
63,60%
24,90%
9,96%
1,53%
Dưới 10 triệu Trên 10 - 20 triệu
Trên 20 - 30 triệu Trên 30 triệu
nông nghiệp & PTNT chỉ ở mức bình quân 1,2%/tháng (dao động từ 0,5% đến
2,0%) thấp hơn các tổ chức tín dụng khác như Ngân hàng đầu tư & phát triển,
Ngân hành TMCP lãi suất cho vay bình quân ở mức 1,3%/tháng và lãi suất cho

vay của Quỹ tín dụng nhân dân, hoặc các tổ chức xã hội ở mức bình quân
1,25%/tháng.
Hơn nữa, trong một số trường hợp cụ thể thì Ngân hàng Nông nghiệp &
PTNT có thể cho vay với thời hạn đến 5 năm đối với hoạt động cải tạo vườn tạp;
tuy nhiên, thời hạn cho vay chủ yếu là 12 tháng. Điều kiện vay vốn sản xuất là
nông dân phải thế chấp giấy tờ có giá trị như giấy quyền sử dụng đất, 92,5%
nông dân vay từ Ngân hàng nông nghiệp phải thế chấp quyền sử dụng đất, tỷ lệ
còn lại vừa thế chấp và tín chấp, hoặc tín chấp với sự bảo lãnh của tổ chức xã
hội ở địa phương. Một số trường hợp cụ thể ở tỉnh Sóc Trăng, nông dân còn thế
chấp cả sổ chứng nhận bảo trợ xã hội như gia đình liệt sĩ… để vay vốn phục vụ
cho sản xuất cũng như tiêu dùng. Mặc dù, phần lớn lượng vay được đáp ứng bởi
Ngân hàng nông nghiệp & PTNT, một số nông dân tại địa bàn Sóc Trăng cho
rằng thời gian làm thủ tục vay tương đối lâu bình quân khoảng 10 ngày, nhưng
định mức cho vay đối với cây lúa thấp hơn so với các hoạt động khác, chỉ có
300.000 đồng/công.
Hoạt động xã hội: Ngoài thời gian tham gia sản xuất thì thành viên của
nông hộ còn tham gia hoạt động của các tổ chức chính quyền, đoàn thể và xã hội
tại địa phương. Theo kết quả điều tra 261 hộ cho thấy có đến 33% trong số họ
21
Hình

3-3
Nguồn tín dụng đối với nông hộ
Nguồn: Kết quả khảo sát 261 nông hộ tại vùng nghiên cứu, 2006
0
2.000
4.000
6.000
8.000
10.000

12.000
14.000
NN & PTNT
(N=92)
TMCP (N=11) Quỹ tín dụng
(N=8)
1.000 đ

ng
1,14
1,16
1,18
1,20
1,22
1,24
1,26
1,28
1,30
%
Lượng vay đồng Lãi suất %
tham gia các tổ chức xã hội như Hội nông dân (24,42%), Tổ chức chính quyền
địa phương (23,26%), Hợp tác xã, hoặc tổ hợp tác (11,63), Hội Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh… Khi được hỏi về lợi ích khi tham gia các tổ chức trên họ cho rằng
tổ chức là nơi để trao đổi thông tin sản xuất, thị trường đối với thành viên Hội
nông dân, hoặc giúp họ có thể tiếp cận nguồn tín dụng phi chính thức không
phải thế chấp như Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, đối với những thành viên
tham gia tổ chức chính quyền giúp cho họ có thể tiếp cận thông tin sớm hơn so
với nông dân bình thường bởi vì thông tin được truyền đạt theo chiều dọc của hệ
thống quản lý. Kết quả khảo sát này phù hợp với nghiên cứu về tiếp cận tín dụng
của tác giả Nguyễn Văn Ngân

9
.
3.2.2. Thực trạng áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa
3.2.2.1. Các mô hình sản xuất phổ biến tại vùng nghiên cứu
Nhằm đáp ứng khả năng đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia cũng như sản lượng gạo xuất khẩu, đặc biệt là
nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường thế giới. Trong những năm gần
đây, quá trình sản xuất nông nghiệp nói chung và sản
xuất lúa nói riêng đã và đang chuyển sang giai đoạn
mới đó là phát triển sản xuất phải gắn với ứng dụng
khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng
nông sản, tăng năng suất, tăng hiệu quả sản xuất và
cải thiện môi trường của người sản xuất và cộng đồng.
Khu vực Đồng bằng sông cửu long là vùng trọng điểm phổ biến và ứng
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa như chương trình IPM
do Tổ chức lương thực thế giới (FAO) tài trợ từ những năm đầu của thập niên 90
của thế kỷ 20 và đến năm 1998 thì chương trình này được phổ biến rộng rãi cho
nông dân
10
. Theo kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, phần lớn
nông hộ thực hiện những mô hình cải tiến kỹ thuật chiếm 80,1%, tương ứng với
9
Theo nghiên cứu về "Các yếu tố tác động đến việc tiếp cận các hình thức tín dụng của nông hộ". của Ths.
Nguyễn Văn Ngân, (2005). tr.23, cho thấy những người có vị trí xã hội như chủ tịch xã, trưởng ấp, chủ nhiệm
clb, chủ tịch các Hội… thường tiếp cận nguồn tín dụng, các chương trình tài trợ của các tổ chức phi chính phủ
nhanh và dễ dàng hơn.
10
Chi cục bảo vệ thực vật Sóc Trăng, (2005). “Hiệu quả cánh đồng ba giảm ba tăng”, Tạp chí Nông nghiệp Sóc
Trăng, tr. 19.

22
209 trong số 261 nông hộ được hỏi; trong đó, mức độ áp dụng khoa học kỹ thuật
tại địa bàn nghiên cứu của Sóc Trăng đạt 90% so với 73,9% của Cần Thơ. Một
số mô hình sản xuất lúa ứng dụng khoa học kỹ thuật được trình bày ở bảng 3-3.
Bảng 3-3 Mức độ tham gia các mô hình sản xuất lúa
Mô hình ứng dụng KHKT Tần số % Xếp hạng
Giống mới 174 32,28 1
Sạ hàng 135 25,05 2
Ba giảm ba tăng 125 23,19 3
IPM 45 8,35 4
Lúa - thủy sản 36 6,68 5
Lúa – Màu 24 4,45 6
Nguồn: Kết quả khảo sát 209/261 hộ có áp dụng KHKT tại vùng nghiên cứu, 2006
Từ bảng số 3-3 cho thấy, 209 hộ có áp dụng khoa
học kỹ thuật được hỏi có đến 543 trả lời rằng họ thực
hiện kết hợp nhiều mô hình cải tiến kỹ thuật như sử
dụng giống mới (chiếm 32,28%) chủ yếu sử dụng các
giống lúc xác nhận đạt năng suất cao, giá lúa hàng hóa
cao hơn các giống lúa thường. Trong đó, Sóc Trăng là
địa phương có hoạt động sản xuất mạnh các loại giống
lúa năng suất cao cho nên mức độ ứng dụng giống mới
của nông hộ trong địa bàn nghiên cứu khá cao, đạt
48,33% so với 24,24% của Cần Thơ; hơn nữa, các giống
lúa mới hiện nay giúp nông dân có thể tăng năng suất
tăng 20-30% so với năm 1994 đạt bình quân từ 6-7
tấn/ha (theo đánh giá của cán bộ khuyến nông Phường
Thới Long, Ô Môn, TP.Cần Thơ).
Bên cạnh đó, trước áp lực tăng giá của các nguồn
lực đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, nhiên liệu…
nên nông dân rất quan tâm và áp dụng mô hình ba giảm

ba tăng trong sản xuất lúa, có đến 23,19% trong số
những áp dụng khoa học kỹ thuật chọn mô hình này nhằm
giảm chi phí sản xuất và tăng năng suất lúa; kế đến là
mô hình IPM đây là một những mô hình được phổ biến
sớm nhất không chỉ riêng cho cây lúa do giảm lượng
thuốc trừ sâu, phân bón trên đồng ruộng; trong khi đó,
các mô hình như sạ hàng, kết hợp lúa – màu hoặc lúa -
thủy sản thì mức độ áp dụng của nông hộ chưa cao bởi
23
vì đòi hỏi phải thỏa mãn các điều kiện về độ bằng
phẵng của mặt ruộng cũng như nguồn nước tưới tiêu.
Tuy nhiên, khi xét về tỷ lệ thu hồi sản phẩm sau chế biến hay tiêu chuẩn
về phẩm chất thì chưa đáp ứng yêu cầu thị trường, nguyên nhân là trình độ sản
xuất của đại bộ phận nông dân chưa đồng bộ từ bố trí lịch thời vụ, thời gian
xuống giống kéo dài 10 đến 20 ngày, thiếu trang thiết bị phục vụ sản xuất. Trong
số 261 hộ được khảo sát có đến 57,5% hộ có tham gia tập huấn kỹ thuật trước
khi áp dụng kỹ thuật mới, nhưng khả năng áp dụng một cách đúng đắn và triệt
để theo hướng dẫn của cán bộ nông nghiệp còn hạn chế.
Nhìn chung, sự phát triển của hệ thống thông tin và truyền thông đại
chúng đã và đang giúp nông dân dần dần thay đổi từ tạp quán sản xuất truyền
thống, chủ yếu dựa vào nguồn lực sẵn có đến việc ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu của thị trường đây là một trong
những dấu hiệu tốt khi mà yêu cầu thị trường ngày càng cao về chất lượng cũng
như đảm bảo sản phẩm sạch. Ngoài ra, nông dân tham gia thực hiện các mô hình
cải tiến với sự khuyến khích và hỗ trợ của cơ quan nông nghiệp, trường hợp khi
nông dân sử dụng giống lúa mới của Trạm khuyến nông thì họ được hỗ trợ 40%
chi phí giống. Do đó, đây là yếu tố quan trọng tác động đến quyết định lựa chọn
mô hình sản xuất bởi vì nông dân có thể giảm được phần chi phí sản xuất (bình
quân chi phí giống chiếm gần 10% trong tổng chi phí sản xuất, tương đương
575.000 đồng/ha vụ Đông Xuân 2005-2006). Bên cạnh đó, 14% trong số 213 hộ

cho rằng giá lúa đối với các giống mới như Jasmine, OM2514, OM2717,
OM2718, OMCS2000 khi bán trên thị trường được mức giá khoảng 2.424
đồng/kg so với 2.353 đồng/kg đối với các giống thường; trong đó, giống
Jasmine được nhiều hộ ứng dụng ở vụ Đông Xuân, còn giống OM1490 chủ yếu
cho vụ Thu Đông vì khả năng kháng bệnh cao, phù hợp với điều kiện của vùng.
Ngoài ra, nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất lúa xuất phát từ những
yếu tố như học hỏi kỹ thuật mới, kinh nghiệm sản xuất để tăng năng suất lúa,
giảm chi phí sản xuất và tăng thu nhập cho nông hộ.
24
Hình 3-4 Lí do áp dụng KHKT của nông hộ
Nguồn: Kết quả khảo sát 209/261 nông hộ có áp dụng KHKT, 2006
Khuyến khích
của địa phương
20.13%
Khác
24.51%
Thiếu lao động
1.53%
Theo phong trào
9.63%
Giá lúa đang
tăng
14.00%
Diện tích sản
xuất lớn
3.50%
Yêu cầu thị
trường
26.70%
3.2.2.2. Khả năng tiếp cận thông tin khoa học kỹ thuật của nông hộ

Khi được hỏi về nguồn cung cấp thông tin khoa học
kỹ thuật, kết quả khảo sát 261 nông hộ có đến 680 ý
kiến cho rằng họ tiếp cận thông tin chủ yếu từ các
phương tiện thông tin đại chúng như radio, chương
trình nhịp cầu nhà nông, các chương trình khuyến nông,
khuyến ngư hàng tuần…chiếm 26,76%; kênh thứ hai mà
nông dân có thể tiếp cận đối với từ cán bộ của Trạm
khuyến nông tại địa phương bởi vì hầu hết những tiến
bộ kỹ thuật do cán bộ Trạm khuyến nông thực nghiệm và
triển khai; ngoài ra, nhân viên công ty thuốc bảo vệ
thực vật cũng là đối tượng mà nông dân tiếp cận chủ
yếu các nhân viên giới thiệu và hướng dẫn sử dụng các
loại thuốc tương ứng với các mô hình sản xuất; hơn
nữa, nông dân tại địa bàn nghiên cứu cho thấy họ còn
có thể tiếp cận thông tin về khoa học kỹ thuật từ các
nguồn khác như Hội nông dân, cán bộ trường đại học Cần
Thơ hoặc viện lúa ĐBSCL…
Bảng 3-4 Nguồn cung cấp thông tin KHKT cho nông dân
Nguồn Tần số % Xếp hạng
Phương tiện thông tin đại chúng 182 26,76 1
Cán bộ khuyến nông 145 21,32 2
Nhân viên Cty BVTV 90 13,24 3
Người quen 81 11,91 4
Cán bộ Hội Nông dân 72 10,59 5
Cán bộ trường, viện nghiên cứu 47 6,91 7
Tham quan hội chợ 7 1,03 8
Khác 56 8,24 6
Nguồn: Kết quả khảo sát 261 hộ tại vùng nghiên cứu, 2006
3.2.2.3. Chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân
25

×