Giảng viên : PGS-TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo
Lớp : CHT7CN2013
Học viên : Đỗ Nhật Thanh
Phan Hoàng Hảo
Lê Thị Lan
Đỗ Huỳnh Ngọc Minh
Lê Văn Minh
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Tiểu luận:
NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
TP. Hồ Chí Minh, 07/2014
1
MỤC LỤC
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3
1.1 Khái niệm nợ nước ngoài 3
1.2 Phân loại nợ nước ngoài 3
1.2.1 Phân loại theo chủ thể đi vay 3
1.2.2 Phân loại theo thời hạn vay 4
1.2.3 Phân loại theo loại hình vay 4
1.2.4 Phân loại nợ theo chủ thể cho vay 5
1.3 Vai trò của nợ nước ngoài 5
1.3.1 Đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư 5
1.3.2 Góp phần chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực quản lý 6
1.3.3 Ổn định tiêu dùng trong nước 6
1.4 Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài 6
1.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài 6
1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài 7
II. THỰC TRẠNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ
CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ 8
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 8
2.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 8
2.2.1 Tình hình chung 8
2.2.2. Lãi suất vay nợ v điều kiện vay nợ của Việt Nam hiện nay 14
2.2.3. Các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam một số năm gần đây 16
2.2.4. Hiệu quả sử dụng nợ vay 17
2.3. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam 22
2.4. Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 24
2.4.1. Quản lý nợ nước ngoi đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và thu hút nguồn
vốn ODA 24
2.4.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện 25
2.4.3. Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước được cải thiện 25
2.4.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao 25
2.5. Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay 26
2
2.5.1. Tồn tại trong vấn đề vĩ mô 26
2.5.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài 26
2.5.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài 27
2.5.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được cấp từ nợ nước
ngoài 27
2.6. Nguyên nhân 28
2.6.1. Yếu tố lịch sử 28
2.6.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ 28
2.6.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý 28
2.6.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn 29
2.6.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém 29
III. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAY NỢ TẠI VIỆT NAM 30
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài 30
3.1.1. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững 30
3.1.2. Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý 30
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối 30
3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ 31
3.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái 31
3.2.2. Ổn định lạm phát 31
3.2.3. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia 32
3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả 32
3.3.1. Kiểm soát nợ nước ngoài 32
3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả 35
3.4. Các biện pháp hỗ trợ 37
3.4.1. Ổn định môi trường thể chế 37
3.4.2. Cải thiện môi trường đầu tư 38
3.4.3. Phát triển nội lực nền kinh tế 39
3.4.4. Xây dựng môi trường tài chính hiệu quả 39
3
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1 Khái niệm nợ nước ngoài
Theo khoản 8 điều 2 Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005
của Chính phủ về việc Ban hành quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài thì: “Nợ
nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa
vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại
Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ
nước ngoài của khu vực tư nhân”.
Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn
của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể
nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình).
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng tái thiết quốc
tế
(BIS), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa nợ nước ngoài
một cách bao quát hơn như sau:
“Tổng vay nợ nước ngoài là khối lượng nghĩa vụ nợ vào một thời điểm nào đó đã
được giải ngân và chưa hoàn trả, được ghi nhận bằng hợp đồng giữa người cư trú về
việc hoàn trả các khoản gốc cùng với lãi hoặc không lãi, hoặc về việc hoàn trả các
khoản lãi cùng với gốc hoặc không cùng với các khoản gốc”
1.2 Phân loại nợ nước ngoài
Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc công
tác theo dõi, đánh giá và quản lý nợ có hiệu quả.
1.2.1 Phân loại theo chủ thể đi vay
Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh
Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và nợ của khu
vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyề n bảo lãnh được xác
định là các công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh
4
theo hợp đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với
bên nợ đó.
Nợ tư nhân
Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được
khu vực công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các
khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
1.2.2 Phân loại theo thời hạn vay
Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì
thời gian đ áo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường
không thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn
hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng
nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng
vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Nợ dài hạn
Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng
hoặc đã gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến
hạn khoản thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn
do khả năng tác động lớn đến nền tài chính quốc gia.
1.2.3 Phân loại theo loại hình vay
Vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Theo định nghĩa của OECD, hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các
chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc đa phương (từ các tổ
chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho
không.
Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi
về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển
chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển
5
chính thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy
các nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho
quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu
đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ
trợ phát triển chính thức đôi khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá
phải trả tăng lên đáng kể.
Vay thương mại
Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả về
lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài
chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương
mại thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của
Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi
không còn cách nào khác.
1.2.4 Phân loại nợ theo chủ thể cho vay
Nợ đa phương:
Chủ yếu đến từ các cơ quan của Liên hợp quốc, WB, IMF, các ngân hàng phát triển
trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ.
Nợ song phương:
Đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc tổ chức OECD và các
nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy
nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.3 Vai trò của nợ nước ngoài
Nguồn vốn vay từ nước ngoài chiếm vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
xã hội của mỗi quốc gia, vai trò của nó được thể hiện qua các đặc điểm như sau:
1.3.1 Đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư
Vốn vay nước ngoài đóng vai trò là một nguồn bổ sung cho nguồn vốn phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển luôn trong
6
tình trạng thiếu vốn. Với việc đi vay nợ nước ngoài, quốc gia đó có cơ hội đầu tư phát
triển ở mức cao hơn.
1.3.2 Góp phần chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực quản lý
Thông qua việc vay vốn nước ngoài, mỗi quốc gia sẽ góp phần bổ sung thêm nguồn
vốn về nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại cùng kỹ thuật tiên tiến từ nước ngoài.
1.3.3 Ổn định tiêu dùng trong nước
Khi xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính hoặc thiên tai bất ngờ làm ảnh hưởng
đến nền sản xuất, kinh tế của mỗi quốc gia thì bên cạnh các khoản viện trợ quốc tế thì
vay nợ nước ngoài đóng vai trò là biện pháp góp phần ổn định tiêu dùng trong nước ngắn
hạn, giúp nền kinh tế phục hồi.
1.3.4 Bù đắp cán thanh toán cân
Việc quản lí nợ nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động như hiện
nay là một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt quan tâm. Việc quản lí không chỉ dừng lại
ở việc sử dụng, giám sát các yếu tố nợ nước ngoài sao cho hợp lý mà còn phải đảm bảo
tính ổn định của yếu tố nợ nước ngoài.
1.4 Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài
Dựa trên quan trọng của vấn đề nợ nước ngoài trong việc xây dựng chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia, hệ thống đánh giá các chỉ số nợ nước ngoài đã
được đưa ra nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với nền an ninh
tài chính quốc gia.
1.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài
Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài:
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỉ lệ Tổng nợ/ Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ; nhằm phản nguồn thu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà một quốc gia có
thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Tuy nhiên việc sử dụng chỉ tiêu này gặp một số khó
khăn: nguồn thu xuất khẩu là một nhân tố biến động qua các năm và một quốc gia có thể
sử dụng nhiều biện pháp khác ngoài nguồn thu xuất khẩu để trả nợ nước ngoài.
7
Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia (Nợ/GNI)
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng trả nợ thông qua tổng thu nhập quốc dân, phản ánh
khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài của một quốc gia. Tuy nhiên, các nước đnag phát
triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỉ giá làm giảm tình
trạng trầm trọng nợ khiến cho việc sử dụng chỉ tiêu này không đánh giá đúng mức tình
trạng nợ.
Tỉ lệ trả nợ (Tổng nợ phải trả hàng năm/ Kim ngạch thu xuất khẩu)
Tiêu chí này phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đi vay.
Tỉ lệ trả lãi (Tổng lãi phải trả hàng năm/ Kim ngạch thu xuất khẩu)
Đây là chỉ tiêu hay được dùng nhất để đánh giá nợ vì không đề cập đến gánh nặng
nợ mà còn chỉ ra chi phí vay nợ, điều này có thể đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay có
cao hơn chi phí lãi vay hay không.
1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay
nợ. Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỉ trọng nợ ngắn hạn, tỉ lệ nợ thương mại và tỉ lệ nợ
song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:
Nợ ngắn hạn/ Tổng nợ:
Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong khoảng thời gian nhỏ hơn
một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn.
Nợ đa phương/ Tổng nợ:
Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ trợ, ít mưu cầu về lợi nhuận.
Do đó, việc tăng cường nợ đa phương trong tổng nợ phản ánh tình hình nợ nước ngoài
của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt.
8
II. THỰC TRẠNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - NGUYÊN NHÂN
VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Vi ệt Nam
Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam:
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển – có thể cho là các
quốc gia thiếu vốn - cần sự “giúp đỡ” từ yếu tố “ngoại sinh”, Chính phủ cần
phải huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ
cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất phát từ ba
nguồn chủ yếu sau đây:
Nợ ODA (Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi trong khoản
hỗ trợ phát triển chính thức ODA).
Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.
Phát hành trái phiếu quốc tế (một hình thức vay nợ nước ngoài vừa mới được
Chính phủ áp dụng).
2.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.2.1 Tình hình chung
Ngày 8/11/2011, Quốc hội đã thông qua chỉ tiêu an toàn nợ công theo Chiến lược
nợ công và nợ nước ngoài giai đoạn 2011-2020 (bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính
phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương): Đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong
đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá
50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng
thu ngân sách nhà nước hàng năm không quá 25% và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của
quốc gia hàng năm dưới 25% giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Thực tế tình hình nợ
công và nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 đến nay như sau:
9
Bảng 1: các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của Vi ệt Nam
Chỉ tiêu
Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) (%)
56,3
54,9
55,7
Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP (%)
42,2
41,5
41,1
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài hạn của quốc gia so
với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
(%)
3,4
3,5
3,5
Dư nợ Chính phủ so với GDP (%)
44,6
43,2
43,3
Dư nợ Chính phủ so với thu ngân sách (%)
157,9
162
172
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách (%)
17,6
15,6
14,6
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách (%)
5,5
6,7
9,8
Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay
nước ngoài của Chính phủ (triệu USD)
2.000
3.500
3.500
Nguồn: Bản tin nợ công số 2 – Bộ Tài chính
Tổng số dư nợ công nước ta trong 3 năm 2010, 2011 và 2012 tương đương 56,3%
GDP, 54,9% GDP và 55,7 %GDP. Nợ nước ngoài của quốc gia tương đương với 42,2%
GDP năm 2010, 41,5% GDP năm 2011 và 41,1% GDP năm 2012. Dư nợ chính phủ so
với GDP là 44,6% GDP năm 2010, 43,2% GDP năm 2011 và 43,3% GDP năm 2012.
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách năm 2010 là 17,6%, năm 2011 là
15,6% và năm 2012 là 14,6%.
Cũng theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả
3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015 tại kỳ họp thứ 6
Quốc hội khóa XIII, ngày 21/10/2013, cho biết: “Đến cuối năm 2013, dư nợ công ước
khoảng 56,2% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 42,6% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc
gia khoảng 39,5% GDP”. Như vậy, với mức nợ công tương đương 56,2% GDP của năm
2013 cho thấy, mức nợ công hiện tại là phù hợp với tiêu chuẩn an toàn về nợ theo thông
lệ quốc tế.
10
Bảng 2: Vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ năm 2010-2012
(triệu USD, tỷ VND)
2010
2011
2012
USD
VND
USD
VND
USD
VND
Dư nợ (1)
28.008,30
530.253,02
32.032,50
666.372,68
34.872,20
726.317,61
Rút vốn trong
kỳ (2)
4.677,89
85.959,33
3.835,25
78.588,66
4.446,32
92.605,78
Tổng trả nợ
trong kỳ
1.125,59
20.843,37
1.288,83
26.185,79
1.418,86
29.549,62
Tổng trả nợ gốc
trong kỳ
718,11
13.312,70
800,03
16.277,75
880,88
18.345,50
Tổng trả lãi và
phí trong kỳ
407,48
7.530,67
488,80
9.908,04
537,98
11.204,12
(1)
Áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối kỳ
(2)
Áp dụng tỷ giá quy đổi tại ngày phát sinh giao dịch.
Nguồn: Bản tin nợ công số 2 – Bộ Tài chính
Bảng 3: Vay và trả nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh năm 2010-2012
(triệu USD, tỷ VND)
2010
2011
2012
USD
VND
USD
VND
USD
VND
Dư nợ (1)
4.732,97
89.604,65
5.611,41
116.734,15
7.229,82
150.582,72
Rút vốn trong kỳ (2)
1.044,89
19.536,45
1.257,31
25.892,40
2.283,95
47.569,32
Tổng trả nợ trong
kỳ
527,50
9.765,36
616,55
12.533,13
876,41
18.251,79
11
Tổng trả nợ gốc
trong kỳ
337,52
6.256,68
415,78
8.465,12
644,38
13.419,63
Tổng trả lãi và phí
trong kỳ
189,98
3.508,68
200,77
4.068,01
232,03
4.832,16
(1)
Áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối kỳ
(2)
Áp dụng tỷ giá quy đổi tại ngày phát sinh giao dịch
Nguồn: Bản tin nợ công số 2 – Bộ Tài chính
Theo thông lệ quốc tế, nghĩa vụ trả nợ hàng năm của Chính phủ tối đa chỉ bằng
25% thu ngân sách. Con số này trong năm 2012 là 14,6%, trong khi đó, năm 2013, con
số này đã lên tới 26,7% thu ngân sách. Nếu như năm 2010, ngân sách phải trả nợ
1.323,65 triệu USD và gần 24.503 tỷ đồng (cả lãi và phí), thì đến năm 2012, phải trả
2.673,75 triệu USD và hơn 50.520 tỷ đồng (cả lãi và phí). Năm 2013, việc ngân sách
phải huy động gần 300.000 tỷ đồng, tăng 100.000 tỷ đồng so với năm 2012 sẽ khiến áp
lực trả nợ đè nặng lên chính sách tài khóa năm 2014 và các năm tiếp theo. Trước mắt,
năm 2014 có khoảng 122.742 tỷ đồng trái phiếu chính phủ huy động các năm trước đến
hạn phải thanh toán, trong khi ngân sách năm 2014 dự toán thấp hơn năm 2013, buộc
ngân sách phải gia tăng vay nợ (phát hành trái phiếu chính phủ) không chỉ khiến nợ công
gia tăng, mà còn gây áp lực lên thị trường tiền tệ và ảnh hưởng đến việc tiếp cận vốn của
khu vực doanh nghiệp. Quý I/2014, tình hình trả nợ cả gốc lẫn lãi vẫn tiếp tục căng
thẳng, khi số tiền chi ra để trả nợ đã chiếm 12,8% tổng chi ngân sách nhà nước và chiếm
14,8% tổng thu ngân sách nhà nước, với số tuyệt đối là 29.155 tỷ đồng.
Áp lực trả nợ ngày càng căng thẳng hơn, do chi thường xuyên cho bộ máy hành
chính đang tăng dần so với tổng chi, từ mức 50,4% năm 2005 lên 61,7% năm 2012,
trong đó các khoản chi cho lương, phụ cấp và các khoản chi theo lương đã chiếm 50%
tổng chi thường xuyên (tương đương 30% tổng chi ngân sách). Còn trong 3 tháng đầu
12
năm 2014, ngân sách đã phải dành ra 145.468 tỷ đồng để chi thường xuyên, chiếm tới
62,66% tổng chi ngân sách (232.160 tỷ đồng).
Ngày 27/3 vừa qua, đồng hồ nợ công thế giới của tạp chí The Economist đã điểm
nợ công của Việt Nam vượt con số 80 tỷ USD, với tổng dư nợ cả năm tăng 11,2%, chiếm
48% GDP. Tính trên dân số 90,535 triệu người, mỗi người Việt hiện đang gánh trên vai
trung bình 887,51 USD, tương đương gần 20 triệu đồng/người.
Ngày 07/04/2014, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 477/QĐ-
TTg phê duyệt kế hoạch vay và trả nợ trong nước của Chính phủ và nợ nước ngoài của
quốc gia. So với Chương trình quản lý nợ trung hạn giai đoạn 2013 - 2015 theo Quyết
định 689/QĐ-TTg ngày 4/5/2013, thì kế hoạch vay mới ban hành đã có một số thay đổi.
Thứ nhất, chỉ tiêu vay nợ của Chính phủ được điều chỉnh tăng 52,4% so
với kế hoạch trước đó và tăng 59,1% so với kế hoạch năm 2013. Trong đó, các khoản
vay trong nước được điều chỉnh tăng 61,7%, trong khi vay nợ nước ngoài được điều
chỉnh tăng thấp hơn, ở mức 24,9% so với kế hoạch trước đó. Đối với các khoản nợ trong
nước, số tiền vay để bù đắp thâm hụt ngân sách tăng 32,2%.Vay để đầu tư đã được điều
chỉnh tăng 122,2% để thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ nhằm thực hiện mục
tiêu tăng trưởng GDP ở mức 5,8% trong năm nay. Kế hoạch này được hiện thực hóa
bằng việc phát hành 170.000 tỷ đồng trái phiếu trong giai đoạn 2014 - 2016.
Thứ hai, các khoản nợ trong nước được Chính phủ bảo lãnh đã được điều
chỉnh giảm 21,7% so với kế hoạch trước đó. Thay vào đó, Chính phủ tăng tổng các
khoản vay nợ thêm 52,4%, một phần để bù đắp cho việc giảm các khoản nợ được Chính
phủ bảo lãnh do chi phí vay nợ của Chính phủ luôn thấp hơn so với các tổ chức khác,
như Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam và Tổng
công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam.
Thứ ba, đối với vay ròng nước ngoài, tổng hạn mức vay của quốc gia đã
tăng thêm 11,2% so với kế hoạch trước đó. Trong khi giới hạn cho vay thương mại nước
13
ngoài không được Chính phủ bảo lãnh vẫn giữ nguyên, thì giới hạn vay nước ngoài của
Chính phủ và vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh đã tăng 18% so với kế hoạch đưa
ra trước đó.
Bảng 4: Kế hoạch vay nước ngoài năm 2014
Nguồn: Quyết định 477/QĐ-TTg ngày 07/04/2014
Mặc dù các ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc mở rộng hoạt động tín dụng,
song Chính phủ dường như vẫn thiên về vay nước ngoài vì các khoản vay này có thể có
lãi suất thấp hơn, hơn nữa, Chính phủ cũng không muốn tạo quá nhiều áp lực lên lãi suất
đồng nội tệ (lãi suất VND có thể cao hơn nếu số lượng trái phiếu chính phủ phát hành
tăng lên). Tuy nhiên, việc tăng thêm quá nhiều khoản vay vốn nước ngoài có thể tạo ra
áp lực về việc mở rộng cung tiền, tăng lạm phát, lãi suất VND và tỷ giá hối đoái. Nếu
vay bằng ngoại tệ để tài trợ cho các dự án có thu nhập bằng VND sẽ tạo ra rủi ro ngoại
hối và những biến động trong báo cáo thu nhập. Để giảm áp lực trả nợ bằng ngoại tệ,
Chính phủ đã và sẽ phải giữ tỷ giá không tăng quá nhiều, để có thể làm cho VND tăng
giá thực so với USD (sau khi điều chỉnh lạm phát). Khi VND tăng giá thực, hàng nhập
khẩu sẽ có giá rẻ hơn và khu vực xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm sức cạnh tranh hơn
trên thị trường cả trong và ngoài nước. Hơn nữa, nếu có bất kỳ sự suy giảm nào trong
14
đánh giá định mức rủi ro tín dụng Chính phủ sẽ có thể dẫn đến việc bên cho vay yêu cầu
trả nợ trước hạn, ngay cả khi các hoạt động kinh doanh của công ty tiến triển tốt.
Cùng với kế hoạch vay, Thủ tướng cũng quyết định kế hoạch trả nợ của Chính
phủ năm 2014 là 208.883 tỷ đồng, trong đó, trả nợ nước ngoài là 49.200 tỷ đồng, trong
đó, nghĩa vụ trả nợ của các chương trình, dự án được cấp phát từ ngân sách nhà nước là
26.427 tỷ đồng và chi trả nợ của các khoản vay về cho vay lại là 22.773 tỷ đồng.
Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay không phải quá nhiều, nhưng vẫn cần theo
dõi xu hướng để đảm bảo tình hình không xấu đi.
2.2.2. Lãi suất vay nợ v điều kiện vay nợ của Việt Nam hiện nay
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng
tăng lên. Điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu
nhập trung bình cũng như việc uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một số bất ổn của
kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin.
Phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có thời hạn dài với lãi suất ưu
đãi (vay ODA). Các khoản vay từ Ngân hàng Thế giới có thời hạn 40 năm trong đó có 10
năm ân hạn, không lãi và phí quản lý là 0,75%/năm; khoản vay của ADB có thời hạn 30
năm, 10 năm ân hạn và có lãi suất từ 1% -1,5%/năm; các khoản vay của Nhật Bản có
thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn và mức lãi suất khoảng từ 1-2%/năm
Cùng với việc trở thành nước có mức thu nhập trung bình, nền kinh tế đang bộc lộ
những rủi ro ngày càng rõ nét sẽ khiến Việt Nam khó có thể tiếp tục thu hút được những
khoản nợ lãi suất thấp trong thời gian tới. Thực tế cũng cho thấy, lãi suất vay nợ của Việt
Nam đang có xu hướng tăng lên cả do Việt Nam đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập
nhóm nước có thu nhập trung bình, cũng như do ít nhiều giảm cả mức tín nhiệm quốc gia
(theo một vài đánh giá cá biệt là từ BB+ xuống BB) vì những e ngại bất ổn của kinh tế vĩ
mô và sự kiện Vinashin
15
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các
quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ, một
chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa
với kém an toàn về nợ.
2.2.2.1. Cơ cấu nợ vay của Việt Nam
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều
này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi
có biến động trên thị trường tài chính thế giới.
Phần lớn nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu định giá bằng các động tiền mạnh
như JPY, SDR, USD và EUR. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,95%) và
JPY (38,25%) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có
xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD.
Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận
thấy xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây. Nế u tiếp tục xu
hướng này và không có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ
nướcngoài trở nên không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết
kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong
nước thấp và mức đầu tư tăng cao.
Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu
tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan
hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay
mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước
vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài
cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm
soát nhập khẩu.
16
2.2.3. Các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam một số năm gần đây
Phân theo chủ nợ của khoản nợ chính thức ta có các chủ nợ song phương và đa
phương.
Chủ nợ song phương là các quốc gia như Angeri, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc,
Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản… Chủ nợ đa phương là các tổ chức như EIB, IBRD, IDA,
IFAD, IMF, NDF, NIB, OPEC, ADB…
Nợ song phương: theo số liệu thống kê năm 2012, các chủ nợ lớn nhất của
Việt Nam là Nhật Bản (34,5% tổng nợ), WB (28,8%) hay ABD (15,5%) và Đức (9,8%).
Như vậy, phần lớn nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu định giá bằng các động tiền
mạnh như JPY, SDR, USD và EUR.
Ngoài ra Việt Nam còn vay nợ từ các tổ chức đa phương chức trên thế giới
như sau:
17
Bảng 5: Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam
(Đơn vị tính: Triệu USD)
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
ADB
2.009,66
2.421,22
2.623,58
3.860,99
4.174,44
IBRD
700
IDA
3.593,14
4.608,97
4.863,11
6.441,29
6.930,41
IFAD
77,04
90,94
95,49
115,96
128,38
IMF
188,54
170,58
135,58
92,78
50,01
NDF
14,07
16,63
17,22
31,97
30,77
NIB
184,12
204,79
231,88
241,15
223,16
OPEC
33,55
37,69
40,15
46,12
52,71
EIB
48,09
68,62
131,33
Tổng
6.100,11
7.550,82
8.048,07
10.898,98
12.421,25
Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 7 – tháng 07/2011 – Bộ Tài Chính
Qua các bảng trên ta thấy nợ song phương và đa phương của Việt Nam qua các
năm đều tăng lên đáng kể. Nhật Bản và IDA là hai chủ nợ lớn nhất của Việt Nam.
2.2.4. Hiệu quả sử dụng nợ vay
Trong thời gian qua, ODA có mặt ở hầu hết các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và
xã hội. Các công trình sử dụng vốn ODA đã góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện
đời sống của nhân dân. Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, một số dự
án trọng điểm quan trọng được triển khai như hệ thống tưới Phan Rí-Phan Thiết, giảm
thiểu lũ và hạn hán vùng sông Mê Kông mở rộng, hệ thống thủy lợi Phước Hòa, chống lũ
18
Sài Gòn, chương trình 5 triệu hécta rừng, chương trình 135, dự án giảm nghèo các tỉnh
vùng núi phía Bắc, dự án phát triển sinh kế miền Trung
Trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp, nguồn vốn này đã hỗ trợ cải tạo, nâng
cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn, điển hình là
Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công
suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy
nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600
MW
Cũng nhờ nguồn vốn này mà lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông
đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường
không, đường biển và đường thủy nội địa. Điển hình là các tuyến đường như: Hệ thống
đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí
Minh - Long Thành - Dầu Giây, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài,
hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng
Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần
Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.
Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc phát triển các
ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, nguồn vốn này đã hỗ trợ cho việc thực hiện cải
cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề) Các dự án vốn vay ODA điển hình là
dự án xây dựng Trường Đại học Việt Đức (WB); dự án xây dựng Trường Đại học Khoa
học và Công nghệ Hà Nội (ADB).
Bên cạnh đó, nhờ nguồn vốn ODA, hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực
thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt. Các
thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng hiện đang
19
triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị quan trọng, quy mô
lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất thải rắn
Từ những gì đã xảy ra trong thực tiễn, chúng ta cũng nhìn nhận lại những gì mà
bội chi ngân sách với những đầu tư quá hoang phí mà không cần nghĩ đến rủi ro hay
không đong đo được rủi ro. Ví như vụ Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
Vinashin với số nợ lên tới 86.000 tỷ VND nhưng thực chất là tới 120.000 tỷ VND.
Trong báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư thì con số GDP bình quân đầu người
năm 2010 tại Việt Nam ước khoảng 1.200 USD, tức GDP của cả nước năm 2010 ước đạt
khoảng 103 tỉ USD thì khoản nợ của Vinashin được xác định tương đương 6% GDP của
cả nước năm 2010. Con số GDP trên đây chỉ là ước tính, tức là có thể đạt, có thể không
đạt, từ đó tỉ lệ nợ Vinashin trên GDP cả nước có thể cao hơn 6%.
Riêng một mình Vinashin mà khoản nợ đã chiếm tỉ lệ 6% GPD, trong khi đó, khối
Doanh Nghiệp nhà nước với tiềm năng tài chính và nguồn lực to lớn nhưng mức độ lợi
nhuận thấp, thậm chí có doanh nghiệp lỗ nhiều năm liền. Do đó, mức nợ của các doanh
nghiệp nhà nước thực sự là một mối lo ngại cho nền kinh tế.
Hơn nữa, trong những năm tới, nếu những dự án đang cần rất nhiều vốn như dự
án đường sắt cao tốc Bắc – Nam (56 tỉ USD), dự án xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà
máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận (hơn 10 tỉ USD)… được thực hiện thì mức nợ công sẽ
còn tăng cao.
20
Tình hình sử dụng vốn ODA của các lĩnh vực
Như vậy có thể thấy vấn đề nợ công chưa được quan tâm đúng mức; cách tính bội
chi chưa rõ ràng. Việc vay nợ của các tập đoàn có tính vào bội chi ngân sách hay không?
Từ bài học của Vinashin cho thấy nếu tập đoàn này bị phá sản thì Chính phủ phải can
thiệp và chịu trách nhiệm với các khoản vay của tập đoàn. Tảng băng ngầm trong những
món nợ “tư” đã bắt đầu “nổi” lên và có ít nhất 300 triệu USD nợ của riêng Vinashin đã
biến thành “nợ” của quốc gia.
Trên đấy mới chỉ là đơn cử một trường hợp điển hình về Vinashin. Ngoài ra, Việt
Nam còn rất nhiều những tài trợ công không hiệu quả. Chính phủ đi vay nợ để đầu tư
nhưng lại không làm cho đồng tiền sinh lợi để thu lợi nhuận và trả lãi. Quá ưu ái những
“đứa con cưng”, những tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước mà Chính phủ đã khiến cho
tình trạng nợ công của Việt Nam ngày một trầm trọng. Nếu Nhà nước vẫn tiếp tục tài trợ
nợ công kiểu này thì chắc chắn Việt Nam sẽ sớm vượt ngưỡng an toàn về nợ công mà
hiện chúng ta đang ở ngưỡng cảnh báo.
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải
vào các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh
tế
bền
vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao,
thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Theo báo cáo của WB,
hiện nay tốc độ giải ngân của Việt Nam vẫn chỉ đạt khoảng 50%. Đây chính là một
25
23.4
16.3
9
6.8
8
11.5
Giao thông vận tải
Phát triển hệ thống nguồn điện,
mạng lưới chuyền tải và phân phối
điện
Phát triển nông nghiệp và nông
thôn
Cấp thoát nước và bảo vệ môi
trường
Y tế và xã hội
Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ
Các lĩnh vực khác
21
trong những vấn đề mà các nhà tài trợ mong muốn Việt Nam cần quan tâm cải thiện.
Việc chậm giải ngân đồng nghĩa với tiến trình thực hiện chậm, các công trình dự án thi
công dở dang, chậm tiến độ, thậm chí phải ngừng lại. Những năm vừa qua, nguyên
ngân chủ yếu dẫn đến việc giải ngân vốn ODA chậm ở Việt Nam là do thiếu vốn đối
ứng. Tỷ lệ bình quân chung tại các dự án ODA là 80% vốn vay và 20% vốn đối ứng.
Cho nên những dự án có kết cấu hạ tầng lớn như những đường cao tốc, quốc lộ…lên
đến vài tỷ USD thì vốn đối ứng cũng cần đến hàng trăm tỷ đồng. vì thế, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề này để cải thiện tốc độ giải ngân,
đảm bảo tiến độ các dự án.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR liên tục tăng
mạnh trong giai đoạn 2008-2010 (6,15%-8%). Chỉ số ICOR thể hiện tỷ lệ vốn trên sản
lượng tăng thêm. Tỷ lệ này cao tức là cần số vốn nhiều hơn để tạo ra thêm 1 đơn vị sản
lượng tăng thêm, cũng có nghĩa là hiệu quả đầu tư thấp dần. Tuy nhiên, trong giai đoạn
2011-2013 thì chỉ số này đã có chuyển biến tích cực hơn và có xu hướng giảm xuống
còn 5,53%.
Nguyên nhân hiệu quả đầu tư tại Việt Nam thấp là do các dự án hiện nay vẫn
theo cơ chế xin – cho, mà đây chính là mảnh đất màu mỡ cho tham những và lợi ích
ICOR Việt Nam qua các giai đoạn
3.5
4.8
5.24
5.04
6.15
8
5.53
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2003
2004-
2006
2007-
2008
2009-
2010
2011-
2013
22
nhóm. Ngoài ra thì còn do việc đầu tư dàn trải, thiếu trọng điểm dẫn đến thất thoát, lãng
phí nguồn vốn đầu tư.
2.3. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay có 3 cơ quan tham gia quản lý nợ nước ngoài là Bộ tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước.
Bộ Tài chính mà cụ thể là Vụ Tài chính đối ngoại và Quỹ Hỗ trợ phát triển, thực
hiện các chức năng như đàm phán các hiệp định vay nợ, ký kết hiệp định, theo dõi giải
ngân và chuyển các đề nghị thanh toán chi trả nợ cho Kho bạc nhà nước và chuẩn bị
các báo cáo nợ trên cơ sở các thông tin được đăng ký khác và các báo cáo này về các
khoản vay nợ trực tiếp, được bảo lãnh và cho vay lại.
Ngân hàng nhà nước: thay mặt Chính phủ, đàm phán các khoản nợ đa phương với
3 tổ chức tài chính quốc tế (IFI) là ADB, IMF, WB và chuyển các hiệp định chính thức
đã ký sang Bộ Tài chính; quản lý vay, trả nợ của các doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: sẽ lập dự thảo nhu cầu hàng năm về vay ODA, xây dựng
danh mục các dự án chương trình được phê duyệt, đàm phán và ký kết các hiệp định
khung về ODA và chuyển cho Bộ Tài chính để dàn xếp các hiệp định vay nợ cụ thể.
Theo dõi đánh giá việc sử dụng ODA và tiến hành báo cáo về ODA.
Hiện tại nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu vẫn là vay ODA và vay từ IDA
theo điều kiện ưu đãi (Việt Nam sẽ tiếp tục được vay từ IDA 4 tỷ đô la Mỹ cho giai đoạn
2014 - 2017. Như vậy, liên tục trong vòng 9 năm từ 2008 đến 2017, Việt Nam là nước
được nhận nguồn vốn vay ưu đãi IDA lớn thứ hai trên thế giới). Do vậy, trong thời gian
tình hình vay, trả nợ của Việt Nam còn chưa thực sự diễn ra phức tạp, nhưng không có
nghĩa là Việt Nam không cần có các hệ thống quản lý nợ hữu hiệu. Bởi các khoản dự nợ
song phương hiện hành có thể không hẳn đã là ưu đãi vì lãi suất trên thế giới cũng đã
23
giảm nhiều. Ngay bây giờ, cần phải đánh giá các rủi ro về đồng tiền vay và lãi suất của
các khoản vay hiện tại và các khoản vay mới trong tương lai từ nguồn ODA. Việc tìm ra
các phương pháp mới về tài trợ thâm hụt là một nhu cầu cấp bách. Hiện tại cần xây dựng
hệ thống quản lý nợ để có thể đáp ứng được các thách thức trong tương lai gần.
Đánh giá tính ổn định của nợ nước ngoài:
Một quốc gia được coi là có công tác quản lý nợ tốt khi mức độ ổn định và bền
vững của nợ cao, thỏa mãn mức giới hạn an toàn của các tổ chức thế giới. Theo phương
pháp của WB, để đánh giá mức độ ổn định và bền cũng của nợ sẽ dựa vào các tiêu chí
như: tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu, tỷ lệ nợ nước ngoài/thu NSNN, nợ/GDP.
Bảng 6: Tiêu chí đánh giá tính bền vững của nợ của WB
Tiêu chí (%)
Không bền vững
Trung bình
Bền vững
Nợ/GDP
50
40
30
Nợ nước ngoài/xuất khẩu
200
150
100
Nợ nước ngoài/thu NSNN
300
250
200
Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á
Bảng 7: Tính bền vững của nợ Việt Nam
Tiêu chí (%)
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Đánh giá
Nợ/GDP
31,4
32,5
29,8
39
42,2
41,5
41,1
Trung bình
Nợ nước
ngoài/xuất khẩu
62
63
65
76
79
51,9
31,67
Bền vững
Nợ nước
ngoài/thu NSNN
145
147
151
155
157,9
162
172
Bền vững
Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 7 – Bộ Tài Chính; Tổng cục thống kê
24
Theo như kết quả trên có thể nói nợ của Việt Nam có tính ổn định và bền vững,
đáp ứng được ngưỡng an toàn của các tổ chức thế giới. Mặc dù vẫn có những tồn tại
trong việc quản lý nợ nhưng đây có thể coi là sự cố gắng của các cơ quan quản lý
trong việc nâng cao chất lượng quản lý nợ.
Tuy nhiên về sức mạnh thể chế và chính sách trong quản lý nợ của Việt Nam lại
đang bị đánh giá ở mức yếu kém. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có khả
năng chống đỡ được mức nợ cao hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. Nguyên nhân sự
yếu kém trong vấn đề quản lý nợ là do chúng ta chưa có một cơ quan thống nhất về
quản lý nợ dẫn đến sự chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý.
Điều này gây ra sự thiếu nhất quán, không đồng bộ trong vấn đề quản lý nợ. Thêm vào
đó, các văn bản pháp lý về quản lý nợ nước ngoài cũng chưa thống nhất, chưa điều
chỉnh đầy đủ các đối tượng trong việc quản lý nợ nước ngoài.
2.4. Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt
Nam
2.4.1. Quản lý nợ nước ngoi đã góp phần quan trọng vo phát triển
kinh tế v thu hút nguồn vốn ODA
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, trong đó nổi bật là các ngành xuất khẩu, đã tạo điều
kiện rất thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) từ các nước công nghiệp phát triển. Cùng với chiến lược tăng trưởng và chủ động
hội nhập, Chính phủ đã có những chính sách có hiệu quả trong việc thu hút nguồ n
vố n ưu đãi, mà kết quả là những cam kết hỗ trợ ngày càng tăng của các nhà tài
trợ. Những hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện cải các h hành chính,
đặc biệt là những nỗ lực trong việc xây dựng chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xoá đói giảm nghèo, đã khẳng định năng lực làm chủ sở hữu và sử dụng nguồn vốn một
cách có hiệu quả của Việt Nam.