Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN Rèn luyện và phát triển kỹ năng nói cho học sinh qua hoạt động nhóm trong giảng dạy Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.7 KB, 25 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Lý do khách quan
Ông bà ta từng dạy: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Không phải
ngẫu nhiên mà “ học nói” được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều này cho
thấy nói là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên trên
thực tế, việc dạy học môn Ngữ Văn hiện nay không phải khi nào cả bốn kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết đều được chú trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông
thường, cả người biên soạn sách lẫn người dạy thường quá chú trọng vào việc
dạy các tri thức Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn hay đọc diễn cảm, đọc hiểu mà bỏ
qua nghe, nói,… Và có một thực tế nữa là nhiều thế hệ học sinh khi ra đời nhiều
khi không biết lắng nghe, thấu hiểu, không biết nói ra những điều mình nghĩ,
không truyền đạt chính xác thông tin hoặc không nói đúng theo quy tắc giao tiếp,
không biết cách đọc hiểu chính xác một văn bản
Để đạt được những mục tiêu của môn học và thực hiện theo yêu cầu của
phương pháp dạy học mới, người dạy cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các
biện pháp nhằm rèn cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết . Trong đó kĩ
năng nói là vô cùng quan trọng. Nói sao cho người nghe hiểu là điều không phải
ai cũng thực hiện tốt. Người nói khi đã chuẩn bị đầy đủ nội dung trong đầu sẽ
tìm cách bộc lộ, truyền đạt thông tin đó chính là “nói”. Muốn hoạt động nói có
hiệu quả trong giờ học Ngữ văn, người dạy phải hướng dẫn rèn luyện cho các
em, tập cho các em mạnh dạn trước tập thể. Vì thực tế, nhiều khi các em có dự
kiến trong đầu nhưng lại không nói ra được. Và như vậy người thầy sẽ không
1
nhận xét đánh giá đúng về sự tiếp thu, cảm thụ của các em trong giờ học Ngữ
văn .
Vậy rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực
vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn vừa hình thành phong
cách cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp
trong cuộc sống.


1.2. Lý do chủ quan
Trong thực tế giảng dạy ở trường THCS Phổ Minh, tôi nhận thấy:
- Về phía học sinh: đa số học sinh chưa có kỹ năng nói trước tập thể, rất
ngại nói, không tự tin khi nói trước đông người. Hơn nữa, thời gian học tập của
các em rất hạn chế, bởi vì các em đa số con nhà nông. Tâm lí các em có vẻ xem
nhẹ hoạt động nói trong giờ học.
- Đặc thù của môn học: thời gian thảo luận cũng như luyện nói còn ít so
với nội dung yêu cầu; sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng không có hướng
dẫn cụ thể ( nhất là ở tiết luyện nói ).
- Về phía giáo viên: một vài giáo viên chưa chú trọng khâu luyện nói cho
học sinh, chính vì thế mà hoạt động nói của học sinh chưa đáp ứng yêu cầu
mong muốn. Có nhiều giáo viên có sự chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song
còn lúng túng trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp.
Từ thực tế trên, là một giáo viên Ngữ văn trực tiếp đứng lớp, bản thân tôi
nghĩ rằng để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn
Ngữ văn của các em, trước hết người thầy giáo phải là người tìm ra được những
biện pháp tối ưu kích thích khả năng nói để HS nói ra được những điều mình tư
duy, cảm thụ trong giờ học văn bản cũng như trong tiết luyện nói. Từ đó nâng
cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. Vì vậy bản thân đã quyết định thực hiện
sáng kiến “ Rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh qua hoạt động
nhóm trong giảng dạy Ngữ văn 9” ở trường Trung học cơ sở Phổ Minh.
2
2. MỤC ĐÍCH VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu để giúp học
sinh học tốt các phân môn của Ngữ Văn như học tốt Văn, Tiếng Việt, hay Tập
làm văn ở tất cả các khối lớp. Thế nhưng lại chưa có một tài liệu nào đề cập đến
vấn đề nâng cao kỹ năng nghe nói cho học sinh. Do đó, đây là đề tài khá mới mà
bản thân tôi muốn tìm hiểu để tìm ra một giải pháp có thể rèn luyện và phát triển
kĩ năng nói của học sinh, nhất là học sinh lớp 9 được hiệu quả hơn.
Việc rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh qua hoạt động nhóm

trong giảng dạy Ngữ văn 9 là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy-
học Ngữ văn đồng thời hình thành cho học sinh phong cách mạnh dạn trước tập
thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống. Trong quá trình giảng dạy tôi đã có sự
tìm tòi, học hỏi và vận dụng và đã thấy được hiệu quả. Khi viết sáng kiến này,
tôi muốn chia sẻ một số kinh nghiệm về việc hướng dẫn học sinh lớp 9 rèn luyện
và phát triển kĩ năng nói để đồng nghiệp tham khảo và góp ý cho tôi.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Thời gian: Từ tháng 8/2012 đến tháng 6/2014.
- Địa điểm: Trường THCS Phổ Minh
- Đối tượng: Học sinh 2 lớp: 9A, 9B trong 2 năm học: 2012- 2013, 2013-
2014.
4. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
- Tìm hiểu các tài liệu chuyên môn có đề cập đến vấn đề thảo luận nhóm và rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh.
- Thu thập những thông tin lý luận về nội dung chương trình môn Ngữ văn và
các cách rèn luyện, phát triển kĩ năng nói cho học sinh.
- Quan sát kĩ năng nói của học sinh ở trong cũng như ngoài nhà trường.
- Nghiên cứu kết quả học tập của học sinh.
3
- Trò chuyện, trao đổi, học tập kinh nghiệm với các đồng nghiệp dạy Ngữ văn.
- Điều tra bằng số liệu để xác định thực trạng và hiệu quả của sáng kiến, thống
kê số liệu
4
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao
tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các
môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những

căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực
nghe, nói, đọc, viết.
Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông
tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt
thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Trong những năm học qua, giáo viên bộ môn Ngữ văn dần dần tiếp cận và
nắm vững phương pháp dạy học mới. Người thầy không chỉ đóng vai trò chủ đạo
hướng dẫn học sinh chủ động khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm văn chương mà
còn hình thành cho các em năng lực: nghe, nói, đọc, viết( năng lực giao tiếp
tiếng Việt )
Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám
phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học ( học sinh) phải tự mình bộc
lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản. Muốn cho người
nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc,
5
logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm
lượng… Vì thế, rèn luyện và phát triển kĩ năng nói là việc rất quan trọng trong
quá trình dạy- học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của
giờ dạy học Ngữ văn. Có kĩ năng nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ
giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.
6
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Qua nhiều năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, ở bộ môn
Ngữ văn, hoạt động nói qua thảo luận nhóm, đặc biệt là tiết dạy “ luyện nói”,
mặc dầu nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hết sức nhưng cũng ít người thành
công qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa
nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Học sinh không tự tin khi nói trước đám
đông. Thời gian luyện nói lại có hạn ( 45 phút) không tạo được điều kiện cho tất
cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc

dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập trung vào
những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười sẽ thụ động, không phát huy
được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ngồi im. Kết quả
yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết Luyện nói,
nhất là với những học sinh ở vùng nông thôn có trình độ như học sinh trường
THCS Phổ Minh. So với yêu cầu của phương pháp dạy mới và những định
hướng của sách giáo viên thì tiết dạy “luyện nói” và hoạt động nói qua phần
thảo luận nhóm còn nhiều lúng túng chưa đạt yêu cầu.
Học sinh khối 9 trường THCS Phổ Minh cũng như học sinh khối 9 cả
nước là khoá học cuối cấp THCS. Chính vì lẽ đó đây là khoá học sinh được chú
ý nhất, được rèn luyện “bài bản” không chỉ về phương pháp học tập mà còn rèn
luyện về kĩ năng giao tiếp. Thực tế qua ba năm học trước các em đã quen với
việc rèn luyện kĩ năng nói qua các hoạt động nhóm nhưng nếu đến lớp 9 người
thầy giáo không chú ý thì cũng không thể tiếp tục rèn luyện ở các em những gì
đã tích luỹ được ở ba lớp dưới.
7
Từ những gì mà bản thân tìm hiểu được, cứ bước vào năm học mới, tôi bắt
đầu thực hiện sáng kiến. Bước đầu là khảo sát thực trạng của 2 lớp đang giảng
dạy. Cụ thể :
Năm học 2012-2013
* Kết quả học lực( khảo sát đầu năm)
Lớp HS
G K TB Y Kém
TS % TS % TS % TS % TS %
9A 29 1 3,4 8 27,6 17 58,6 3 10,4 0 0
9B 29 2 6,9 7 24,1 17 58,6 3 10,4 0 0
* Khảo sát kĩ năng nói:
Mức độ
Chưa thành
thạo

Thành thạo Rất thành thạo
Trong tiết
Đọc- hiểu văn
bản
9A
( 29)
16 55,2% 8 27,6% 5 17,2%
Trong tiết
luyện nói
( TLV)
9B
( 29)
15 51,7% 8 27,6% 6 20,7%
Năm học 2013-2014
* Kết quả học lực( khảo sát đầu năm)
Lớp HS
G K TB Y Kém
TS % TS % TS % TS % TS %
9A 37 2 5,4 8 21,6 22 59,5 5 13,5 0 0
8
9B 36 1 2,8 7 19,4 22 61,2 6 16,6 0 0
* Khảo sát kĩ năng nói:
Mức độ
Chưa thành
thạo
Thành thạo Rất thành thạo
Trong tiết Đọc-
hiểu văn bản
9A
( 37)

20 54,1% 12 32,4% 5 13,5%
Trong tiết
luyện nói
( TLV)
9B
( 36)
17 47,2% 13 36,1% 6 16,7%
Từ những thực trạng trên, để giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nói trong giờ
học Đọc- hiểu cũng như thực hành luyện nói trong giờ Tập làm văn, từ đó nâng
cao chất lượng bộ môn mình đang giảng dạy, sáng kiến chủ yếu tập trung vào
những yêu cầu cụ thể như việc chuẩn bị như thế nào để trong giờ học ngữ văn,
học sinh có thể rèn luyện kĩ năng giao tiếp, cách đưa ra câu hỏi thảo luận, cách
giáo viên hướng dẫn, theo dõi, đánh giá kĩ năng nói của các em
CHƯƠNG 3
CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
9
3.1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI HỌC SINH
Ngay từ đầu năm học, tôi phổ biến những qui định đối với môn Ngữ văn
nói chung và cho kĩ năng luyện nói nói riêng để học sinh có tâm thế chuẩn bị :
3.1.1. Dụng cụ
- Đầy đủ sách giáo khoa, sách bài tập
- Vở : Vở học, vở soạn, vở bài tập
- Dụng cụ học tập: Bảng phụ ( 4 em có một bảng phụ: Bảng phụ các em
có thể là giấy dán decan màu trắng), một cây bút lông, nam châm.
3.1.2. Chia nhóm
Để tiện việc hoạt động, thảo luận nhóm, tôi chia lớp làm 8 nhóm, ( thường 1
lớp 4 tổ, mỗi tổ chia thành 2 nhóm) cho câu hỏi thảo luận ngắn trong một tiết học
văn bản hoặc tiếng việt.
Đối với tiết luyện nói, trong mỗi nhóm cử ra nhóm trưởng, thư kí chịu trách
nhiệm ghi vào bảng phụ sau khi đã thống nhất ý kiến trong nhóm. Các em còn lại

trong nhóm đều ghi vào vở soạn của mình ý kiến thống nhất của tổ.
3.1.3. Cách học
- Chuẩn bị bài mới ở nhà: Tự tay em soạn bài mới, không phải dùng vở
soạn cũ của anh, chị để lại; học phân môn nào soạn theo phân môn đó. Đặc biệt
tiết Luyện nói phải soạn một dàn ý chi tiết và phải dự kiến lời nói dựa vào dàn ý
đó. Các em tự mình đứng trước gương để tập nói khi ở nhà
- Hoạt động trong giờ học: thảo luận nhóm, phát biểu xây dựng bài.
3.1.4. Truy bài 15 phút
- Trong sinh hoạt 15 phút, ngoài việc làm bài tập, câu hỏi khó ở bài
soạn, lớp trưởng phải kiểm tra tình hình soạn bài của lớp qua tổ trưởng.
10
- Cán sự bộ môn Ngữ văn sẽ giải đáp những câu hỏi khó để cả lớp tham
khảo và sửa vào vở
- Trước khi vào tiết học, lớp trưởng báo cáo tình hình chuẩn bị bài cho
giáo viên. Nếu giáo viên kiểm tra phát hiện một trường hợp không chuẩn bị bài
mà lớp trưởng không báo cáo thì lớp trưởng và tổ trưởng của em đó chịu trách
nhiệm ( trừ điểm thi đua )
3.1.5. Phiếu đánh giá nhận xét ( dành cho phần luyện nói)
Mỗi em phải có phiếu nhận xét trong sổ tay. Sổ này dùng cho suốt năm học.
- Ngày :
- Môn :
- Họ và tên :
Phần nhận xét, đánh giá :
- Tác phong nói :
- Giọng nói :
- Nội dung nói :
3.2. YÊU CẦU ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN
- Chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi lên lớp nói chung và nhất là cho
những tiết rèn cho học sinh kĩ năng nói
- Dặn dò học sinh cụ thể các nội dung chuẩn bị cho bài học mới

- Chú ý theo dõi và ghi chép những vấn đề cần nhận xét đối với học sinh
trong quá trình luyện nói
- Luôn tìm ra những ưu điểm trong phần trình bày của từng học sinh và
khen các em kịp thời trước lớp để động viên tạo hứng thú nói cho cả lớp
- Đối với những em còn rụt rè, nhút nhát hoặc nói nhỏ, giáo viên cho nói
những phần có nội dung đơn giản dễ trình bày và nên cố phát hiện ra những ưu
11
điểm của các em trong tác phong, lời nói để khen. Nếu có những điểm chưa hài
lòng thì nhắc nhở thật khéo léo, tế nhị để các em tự tin hơn ở lần nói sau.
- Sau mỗi lần trình bày nói trước lớp giáo viên khuyến khích bằng những
tràn vỗ tay để tạo không khí sôi nổi cho giờ học
- Chọn những em nói tốt trình bày cả bài luyện nói để tạo ấn tượng cho cả
lớp khi sắp kết thúc tiết học. Đó sẽ là điều kích thích niềm mong muốn được nói
hay như bạn ở nhiều đối tượng để các em chuẩn bị thật kĩ cho bài luyện nói ở
những bài sau.
- Cho điểm khuyến khích đối với những em nói tốt, những em có sự cố
gắng trong quá trình luyện nói.
- Có thể nói mẫu cho học sinh tham khảo( với những bài khó)
3.3. RÈN KĨ NĂNG NÓI QUA HOẠT ĐỘNG THẢO LUẬN NHÓM
TRONG TIẾT ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
3.3.1. Các bước tiến hành
Thường trong một tiết học Ngữ văn sẽ có ít nhất 1 câu hỏi thảo luận nhóm,
thời gian thảo luận có thể từ 2 phút đến 5 phút( tùy câu), thường là dạng câu hỏi
mở. Đây là những câu hỏi ngắn, học sinh tư duy trả lời :
- Trước hết cá nhân trình bày quan điểm của mình trước nhóm: Các em cần
đọc kỹ câu hỏi, xác định nội dung yêu cầu của câu hỏi, suy nghĩ và viết ra trong
vở của mình, sau đó trình bày ra nhóm, nêu ý kiến của mình giống bạn thì nhất
trí khỏi phải nói lại mất thời gian .Từ các ý kiến, nhóm trưởng khái quát lại nội
dung mà nhóm đã nhất trí, mỗi em trong nhóm phải nắm vững nội dung đó. Em
được cử ghi chép sẽ ghi vào bảng phụ.

- Trình bày ý kiến của nhóm trước lớp : Hết thời gian thảo luận giáo viên có
thể gọi bất kỳ một em trong nhóm trả lời. Các nhóm còn lại sẽ nhận xét ý kiến
về phần trình bày của tổ bạn
12
- Giáo viên hướng dẫn nhận xét: Cần chú ý hai mặt :
+ Nội dung nói : phải đáp ứng yêu cầu của câu hỏi thảo luận nhóm: không
thiếu, không thừa, tránh dàn trải, lan man thiếu tập trung.
+ Kĩ năng nói : trình bày lưu loát, mạch lạc làm nổi rõ vấn đề, giọng nói
tự nhiên, to rõ dễ nghe, dễ theo dõi, tránh đọc ê a, hoặc nói quá nhỏ, nói nhát
gừng
Thảo luận nhóm là một hình thức hoạt động dạy học tạo môi trường thuận
lợi cho học sinh trao đổi, bàn bạc một cách tự nhiên trước những thành viên
đồng trang lứa có quan hệ bè bạn gần gũi về những vấn đề nội dung, ý nghĩa, giá
trị nghệ thuật của văn bản văn học. Các em có sự đoàn kết hợp tác để từ đó phát
triển khả năng nhận thức cảm thụ về văn học, mạnh dạn giải quyết các vấn đề đặt
ra trong quá trình khai thác phân tích văn bản. Đặc biệt là qua thảo luận nhóm, kĩ
năng nói của học sinh của học sinh được học sinh rèn luyện dần dần một cách
chắc chắn, hiệu quả
3.3.2. Một số ví dụ minh họa cho câu hỏi thảo luận nhóm để luyện kĩ
năng nói cho học sinh trong tiết Đọc -hiểu văn bản ( Thời gian thảo luận là
2-4 phút)
Ở bài : “ Chuyện người con gái Nam Xương”, cuối giờ ta có thể cho HS
thảo luận câu : “ Một con người có phẩm chất tốt đẹp, khát khao hạnh phúc gia
đình như Vũ Nương đã từ chối nhân gian. Điều đó giúp em hiểu gì về hiện thực
cuộc sống và hạnh phúc của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ?” ( Hiện
thực cuộc sống áp bức bất công. Trong cuộc sống ấy những con người bé nhỏ,
đức hạnh không thể tự bảo vệ được hạnh phúc chính đáng của mình ….).
Ở bài : Đoàn thuyền đánh cá”, cuối bài có thể cho HS thảo luận câu: “
Theo em, nhờ đâu nhà thơ sáng tác nên bài thơ Đoàn thuyền đánh cá với những
câu thơ hấp dẫn như vậy ?”( Trực tiếp quan sát; Dồi dào trí tưởng tượng; Tấm

lòng tha thiết với vẻ đẹp và sự giàu có của đất nước……)
13
Ở bài “Ánh trăng”, có thể cho thảo luận câu: Từ sự xa cách giữa người và
trăng, nhà thơ muốn nhắc nhở điều gì? Vì sao có sự xa lạ, cách biệt giữa người
và trăng? ( Vì không gian khác biệt; thời gian khác biệt; điều kiện sống nên có sự
cách biệt. Từ đó nhà thơ muốn nhắc nhở không nên quên quá khứ, phải thủy
chung…). Hoặc câu : “ Nếu ánh trăng tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị
truyền thống, thì lời thơ nói về sự vô tình và giật mình của con người trước trăng
có ý nhắc nhở ta điều gì trong cuộc sống ?” ( Phải trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và
những giá trị truyền thống, lãng quên quá khứ tốt đẹp là phản bội lại chính bản
thân mình….).
Ở bài “ Lặng lẽ Sa Pa”, ở cuối bài cho HS thảo luận câu: “ Vì sao tác giả
không đặt tên cụ thể cho từng nhân vật của mình mà chỉ gọi theo giới tính, tuổi
tác, nghề nghiệp ?” ( Để ca ngợi những con người có phẩm chất tốt đẹp ở mọi
lứa tuổi, mọi ngành nghề, những con người âm thầm lặng lẽ cống hiến cho tổ
quốc, làm tăng thêm sức khái quát của truyện… ).
Ở bài “ Chiếc lược ngà” khi phân tích nhân vật bé Thu, có thể cho HS
thảo luận câu: “ Bé Thu đã không nhận Ba vì vết sẹo trên mặt ông Sáu, nhưng
cũng từ vết sẹo ấy, Thu đã nhận ra người cha yêu quí của mình. Theo em, có thể
hiểu như thế được không? Vì sao? ( Được, vì Thu sợ vết sẹo do chưa biết ông
Sáu là cha mình. Khi biết ba mình là Ông Sáu, Thu đã hôn lên vết sẹo trên má ba
nó. Đó là tình cảm ruột thịt….). Hay câu : “ Đọc Chiếc lược ngà, em cảm nhận
được vẻ đẹp nào trong tình cảm cha con Bé Thu? ( Tình cha con sâu nặng, bền
chặt dù trong hoàn cảnh éo le…….).
Bài “ Nói với con” cho thảo luận câu: “ Em cảm nhận như thế nào về lời
thơ: “ Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương- Còn quê hương thì làm
phong tục?” ( Con người lao động sáng tạo để tồn tại, để giữ vững truyền thống
dân tộc, có ý chí vươn lên không chùn bước trước khó khăn. Giữ vững bản sắc
văn hóa dân tộc. Ý chí sống can trường dũng cảm…).
14

Bài “ Những ngôi sao xa xôi”, thảo luận câu: “Qua truyện Những ngôi
sao xa xôi em hiểu gì về phẩm chất của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ chống
Mỹ cứu nước? ” ( Sống trong sáng- không quản gian khổ, hy sinh…)
Với những câu hỏi có tính chất tình huống hoặc khái quát, tổng hợp vấn
đề cảm thụ văn học như trên đòi hỏi các em có tinh thần hợp tác .Và chính sự
hợp tác đó sẽ giúp các em nói một cách tự tin hơn.
3.4. RÈN KĨ NĂNG NÓI QUA TIẾT LUYỆN NÓI Ở PHÂN MÔN TẬP
LÀM VĂN
3.4.1. Xác định mục đích yêu cầu của việc luyện nói
Để cho học sinh có thể thực hiện tốt tiết luyện nói, tôi cho trước đề tài
cho các em về nhà soạn, hướng dẫn các em:
- Xác định đề tài ( Nói cái gì ?)
- Xác định đối tượng giao tiếp ( Nói trong hoàn cảnh nào ?)
- Xác định mục đích giao tiếp ( Nói để làm gì ?)
- Cách thức giao tiếp ( Nói cho thuyết phục người nghe)
- Nói cho có hiệu quả ( Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói)
- Tạo tâm thế vững vàng khi nói : Tự tin, mạnh dạn
- Tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng quán xuyến người nghe.
- Yêu cầu tập thể lớp chú ý lắng nghe, theo dõi ghi chép, nhận xét
3.4.2. Hướng dẫn học sinh soạn bài trước ở nhà
Mỗi em đều phải soạn bài vào vở bài tập của mình ở nhà. Tới lớp, trước
khi tiến hành luyện nói, lớp trưởng kiểm tra việc soạn bài của lớp thông qua tổ
trưởng, nhóm trưởng, sau đó báo cáo cho giáo viên. Để kiểm tra lại giáo viên
kiểm tra lại khoảng từ 5-10 em.
3.4.3. Tiến hành luyện nói
15
Trước hết giáo viên cho học sinh nêu lại đề bài và ghi lên bảng. Tiếp theo
cho các em phân tích đề và nêu nội dung yêu cầu cần đạt theo các bước tiến hành
mà các em đã học. Sau đó, giáo viên treo bảng phụ có ghi dàn ý để các em theo
dõi và cho các em thảo luận và nói theo nhóm lớn ( 7-8 em). Phần mở bài cho

một nhóm thảo luận; phần thân bài có thể cho 2-3 nhóm thảo luận, tùy theo số
luận điểm của đề tài; phần kết luận, một nhóm thảo luận. Thời gian thảo luận và
nói trước nhóm là 10 phút. Trong quá trình thảo luận, mỗi em trong nhóm phải
nói lên được nội dung mà mình đã soạn ở nhà để cả nhóm bàn bạc góp ý đi đến
thống nhất và hình thành một đoạn văn tương đối hoàn chỉnh. Em được phân
công ghi sẽ ghi ý chính vào bảng phụ. Cả nhóm đều phải nắm vững ý kiến chung
của tổ. Hết thời gian thảo luận, chúng tôi gọi một em đại diện trong nhóm trả lời.
Khi có một em nói, cả lớp sẽ theo dõi, ghi nhận xét vào phiếu. Mỗi một em trình
bày xong, tôi sẽ chỉ định một em nhận xét đánh giá (có thể 2-3 em nhận xét). Sau
khi các nhóm trình bày xong, tôi cho một em khá hoặc giỏi nói lại toàn bài cho
cả lớp nghe. Cuối cùng giáo viên góp ý bổ sung để lớp rút kinh nghiệm.
Các bước thực hiện trong tiết luyện nói tôi tiến hành theo trình tự sau
đây:
- Bước 1: Kiểm tra việc chuẩn bị bài luyện nói của học sinh ( 2phút)
- Bước 2: Giáo viên cùng học sinh tìm hiểu đề và xây dựng dàn bài đại cương
( 3-5 phút)
- Bước 3: Giáo viên nêu yêu cầu về hình thức nói và nội dung nói( 2phút)
- Bước 4: HS luyện nói trong nhóm ( 10 phút)
- Bước 5: HS luyện nói trước lớp ( 20-25 phút)
- Bước 6: Giáo viên tổng kết tiết luyện nói ( 3phút).
16
Đối với lớp 9, có 2 tiết luyện nói. Đó là: Luyện nói về tự sự kết hợp với
nghị luận và miêu tả nội tâm; Luyện nói về văn nghị luận: Nghị luận về một
đoạn thơ-bài thơ
3.4.4. Định hướng dàn ý cho tiết luyện nói
Ở tiết luyện nói thứ nhất ( Phần văn tự sự kết hợp với nghị luận). Có
thể chọn 1 trong 3 đề có ở sách giáo khoa phần luyện tập. Tôi chọn đề 3: “Dựa
vào nội dung phần đầu tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đến
chỗ trót đã qua. Hãy đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện và bày tỏ niềm
ân hận.”

Trước khi tiến hành luyện nói, Giáo viên kiểm tra vở soạn của HS và các
em trình bày dàn ý vào bảng phụ, sau đó GV chốt lại và đưa ra bảng phụ mà GV
đã chuẩn bị sẵn lên bảng đen cho HS theo dõi để luyện nói và hướng dẫn HS :
- Phải xác định ngôi kể cho phù hợp (Tôi)
- Phải hóa thân vào Trương Sinh kể lại câu chuyện theo trình tự
- Các nhân vật và các sự việc còn lại chỉ có vai trò như một cái cớ để nhân
vật Tôi giãi bày tâm trạng của mình.
Dàn ý:
1. Mở bài : Tự giới thiệu về mình, nêu mối quan hệ với Vũ Nương trong câu
chuyện.
2. Thân bài: Kể lại nội dung đoạn truyện ( ngôi kể là ngôi thứ nhất: tôi –
Trương Sinh). Trong quá trình kể có thể hiện sự hối hận của người kể.
3. Kết luận: Trương Sinh suy nghĩ về cái chết của Vũ Nương và ân hận về việc
làm của mình
Ở tiết luyện nói thứ 2 trong chương trình (Nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ). Có thể linh động chọn đề bài sau:
Đề: Phân tích khổ thơ đầu trong bài “ Sang thu “của Hữu Thỉnh.
17
a. Yêu cầu :
- Nghị luận về một khổ thơ trong bài thơ
- Vấn đề nghị luận: Phân tích, cảm nhận về cái hay cái đẹp về nội dung
và hình thức của khổ thơ đầu trong bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh
b. Dàn ý :
1. Mở bài : - Giới thiệu tác giả-Tác phẩm
- Giới thiệu khổ thơ đầu( Nêu khái quát về giá trị nội dung
của khổ thơ)
2. Thân bài :
a. Cảm nhận thu sang của tác giả ( Phân tích vai trò của các giác quan)
- Bức tranh vô hình của thời gian: Khúc giao mùa: hạ-thu
- Bức tranh được vẽ lên bởi giác quan đa dạng của người họa sĩ. ( Bắt đầu là

khứu giác"xúc giác -> Thị giác -> đến cảm nhận của nhà thơ…
- Mùi hương ổi phả vào trong gió se - Câu thơ có cái ấm nồng của mùa hạ lại có
cái lạnh se của mùa thu -> Sự giao mùa kỳ diệu. Dòng cảm xúc bất ngờ.
- Hai câu thơ đầu thoáng chút bâng khuâng xao xuyến.
- Mạch cảm xúc tiếp tục ở 2 câu cuối: “Sương chùng chình qua ngõ-Hình như
thu đã về”: Sương chùng chình đi qua như cố ý chậm lại. Một cảm giác mơ hồ,
hư hư thực thực ấy đã gợi nên một thời điểm nhạy cảm rất khó xác định “ hình
như thu đã về”
b. Phân tích vẻ đẹp, hay của các từ ngữ “hương ổi, phả, gió se, chùng chình,
hình như”
c. Suy nghĩ về mùa thu thiên nhiên thời khắc giao mùa :
- Từ cái bất ngờ nhận ra tín hiệu mùa thu, xen lẫn vào những cảm xúc có phần
nào bâng khuâng luyến tiếc
18
- Cảm nhận bằng các giác quan một cách tinh tế nhạy cảm. Qua đó thể hiện tình
yêu thiên nhiên, yêu làng quê , yêu mùa thu.
3. Kết luận : Qua hình ảnh, hương vị quen thuộc, gần gũi đặc trưng của mùa
thu và những cảm nhận tinh tế, tác giả đã thể hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên
thời điểm giao mùa.
CHƯƠNG 4
HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
19
Qua 2 năm được phân công dạy Ngữ văn 9 và thực hiện sáng kiến này,
với những cố gắng của bản thân, việc Rèn kĩ năng nói qua hoạt động thảo luận
nhóm cho học sinh đã có thu được hết quả rất khả quan. Cụ thể:
- Các em không còn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông để luyện
nói mà theo vào đó là sự dạn dĩ, tự tin, thái độ cởi mở hơn.
- Không khí lớp học có sự hào hứng, sôi nổi, các em thích được học những tiết
luyện nói hơn. Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không
có sự ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài

nói đều hoàn chỉnh hơn lúc trước.
- Kỹ năng nói của các em đã có sự tiến bộ: các em biết nói trôi chảy, gãy gọn, có
kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ ( cử chỉ, nét mặt, thái độ…).
- Đáng mừng hơn, số lượng học sinh có thể tự tin lên lớp trình bày đã tăng lên rõ
rệt. Từ em yếu đến em trung bình đều có thể nói được trước lớp.
Năm học 2012-2013
* Kết quả học lực( cuối năm)
Lớp HS
G K TB Y Kém
TS % TS % TS % TS % TS %
9A 29 2 6,9 13 44,8 13 44,8 1 3,4 0 0
9B 29 4 13,8 10 34,5 14 48,3 1 3,4 0 0
* Khảo sát kĩ năng nói:
Mức độ
Chưa thành
thạo
Thành thạo Rất thành thạo
Trong tiết 9A 4 13,8% 15 51,7% 10 34,5%
20
Đọc- hiểu VB ( 29)
Trong tiết
luyện nói
9B
( 29)
5 17,2% 14 48,3% 10 34,5%
Năm học 2013-2014
* Kết quả học lực( cuối năm)
Lớp HS
G K TB Y Kém
TS % TS % TS % TS % TS %

9A 37 4 10,8 14 37,9 17 45,9 2 5,4 0 0
9B 36 6 16,7 10 27,8 20 55,5 0 0 0 0
* Khảo sát kĩ năng nói:
Mức độ
Chưa thành
thạo
Thành thạo Rất thành thạo
Trong tiết Đọc-
hiểu văn bản
9A 4 10,8% 20 54,1% 13 35,1%
Trong tiết
luyện nói
9B 5 13,9% 19 52,8% 12 33,3%
Như vậy qua theo dõi, áp dụng sáng kiến này đã giúp chất lượng học tập
cũng như kĩ năng nói của các em tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, kĩ năng nói đã có
những bước phát triển rất tốt: đầu mỗi năm học, kĩ năng nói chưa thành thạo ở
mỗi lớp chiếm khoảng 47- 55% thì đến cuối năm con số này chỉ còn từ 10-17%.
Theo đó, tỷ lệ HS làm bài trong hai năm thi tuyển vào lớp 10 theo đề thi
của Sở GD-ĐT Quảng Ngãi ( 2012- 2013, 2013-2014)- là những năm tôi trực
tiếp giảng dạy ở 2 lớp 9, cũng đã có những tiến bộ đáng kể, chất lượng như sau:
Năm học Xếp vị thứ
2012- 2013 Vị thứ trong huyện: 4/15;
21
Vị thứ trong tỉnh: 25/ 115
2013-2014 Vị thứ trong huyện: 1/15;
Vị thứ trong tỉnh: 18/ 114
Kết quả đạt được là khả quan, có được kết quả như vậy cũng xem là thành
công phần nào của sáng kiến. Tuy nhiên chưa phải là toàn diện vì học sinh lớp 9
của trường THCS Phổ Minh vẫn có em chưa có tinh thần học tập tốt, tiếp thu bài
chậm, nhiều em chây lười không chịu học; một số lại quá nhút nhát, thiếu tự tin,

bị hạn chế trong cách diễn đạt nên kĩ năng nói còn yếu,…Vấn đề này sẽ được
khắc phục nếu như chúng ta tiến hành sáng kiến một cách liên tục thường xuyên
vì để chuyển biến thái độ học tập và phát triển các năng lực cần thiết cho các em,
đặc biệt kĩ năng nói, là một quá trình thực hiện kiên trì và lâu dài. Trong năm
học này, tôi sẽ tiếp tục thực hiện sáng kiến để giúp học sinh của mình cải thiện
được kĩ năng nói cũng như kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống.
PHẦN III
KẾT LUẬN
1. ĐÁNH GIÁ PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA SÁNG KIẾN
Tóm lại, dạy văn là một công việc đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng
tạo. Do vậy người dạy văn phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng một cách
linh hoạt các phương pháp dạy học mới để việc tổ chức các hoạt động dạy - học
văn bản trở nên phong phú, đa dạng và có chiều sâu. Rèn kĩ năng nói cho học
22
sinh qua hoạt động nhóm trong tiết Đọc-hiểu văn bản và luyện nói ở môn ngữ
văn 9 là một hoạt động mang tính chuyên môn của người giáo viên dạy văn trong
quá trình giảng dạy. Điều đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy - học Văn bản
nói riêng và cho bộ môn Ngữ văn nói chung.
Qua quá trình áp dụng sáng kiến, đa số học sinh đã rèn luyện và phát
triển kĩ năng nói rất khả quan. Từ đó chất lượng học tập bộ môn được nâng cao
qua từng năm học. Sáng kiến phù hợp với mục tiêu của môn học và thực hiện
theo yêu cầu của phương pháp dạy học mới, đúng với vị trí, vai trò, chức năng
nhiệm vụ của giáo viên dạy bộ môn. Sáng kiến này đã thực hiện ở trường THCS
Phổ Minh trong 2 năm học: 2012- 2013, 2013- 2014 và đã đạt được những kết
quả nhất định. Nhìn vào hiệu quả của nó thì khả năng vận dụng vào các lớp khác,
khối khác và ở các trường THCS khác là rất cao vì nó hoàn toàn nằm trong
khung nội dung chương trình và chuẩn kiến thức kĩ năng đã quy định.
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trong quá trình áp dụng sáng kiến, để thực hiện tốt và có hiệu quả, bản
thân đã rút ra được những bài học kinh nghiệm: phải có kế hoạch ngay từ đầu

năm; phải có qui trình theo dõi, giúp đỡ các em một cách cụ thể; phải nắm vững
cơ sở lý luận của vấn đề; nắm vững điểm mạnh, yếu của học sinh khi luyện nói;
đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học và hình thức tổ chức dạy học; phải kiên
nhẫn, sâu sát đến học sinh trong từng tiết học có phần luyện nói.
3. ĐỀ XUẤT
Để áp dụng sáng kiến có hiệu quả, bản thân xin có những đề xuất như sau:
+ Đối với giáo viên: Giáo viên dạy Ngữ văn THCS cần chú ý hơn đến việc rèn
kĩ năng phát âm chuẩn cho học sinh; cần có sự đầu tư giảng dạy trong việc rèn kĩ
năng nói và phải thực hiện thường xuyên đồng bộ từ các lớp 6,7,8 đến lớp 9 .
23
+ Đối với lãnh đạo nhà trường: tổ chức sinh hoạt chuyên đề về việc tăng cường
rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong môn ngữ văn; tăng cường dự giờ các
tiết dạy luyện nói ở các khối lớp để trao đổi rút kinh nghiệm
+ Đối với phòng giáo dục : Tổ chức các hoạt động sinh hoạt chuyên môn về việc
rèn kĩ năng nói cho học sinh để giáo viên được giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm.
+ Đối với Bộ Giáo dục: Cung cấp tài liệu, băng hình về việc rèn kĩ năng nói cho
học sinh trong dạy -học Ngữ văn. Tăng tiết luyện nói về văn học ở khối lớp 8, 9
để học sinh tập rèn luyện và phát triển kĩ năng nói nhiều hơn trong năm học.
Vấn đề được trình bày trên đây dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm
mang tính cá nhân, tôi không có mong muốn gì hơn là được đóng góp một phần
nhỏ vào công việc giảng dạy bộ môn Văn, phát triển các kĩ năng cần thiết cho
các em và có thể áp dụng cho giáo viên Ngữ văn trung học cơ sở. Tuy nhiên bản
thân cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các cấp để rút kinh nghiệm và hoàn thiện hơn trong giảng dạy Ngữ văn,
đặc biệt là ở các tiết luyện nói.
XÁC NHẬN CỦA BGH Phổ Minh, ngày 10 tháng 10 năm 2014
Người viết
Lê Thị Phương Linh
24

25

×