Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN Một số phương pháp dạy luyện câu cho học sinh Tiểu học theo hướng giao tiếp TIỂU HỌC PHỔ THẠNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.25 KB, 33 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC& ĐÀO TẠO ĐỨC PHỔ
TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 3 PHỔ THẠNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY LUYỆN CÂU CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC THEO HƯỚNG GIAO TIẾP
Lĩnh vực: Phương pháp dạy học
Tên tác giả: THÁI THỊ THU THẢO
Chức vụ: Giáo viên
Tài liệu kèm theo: Đĩa CD
NĂM HỌC: 2014 - 2015
MỤC LỤC
TT Nội dung Trang

1
PHẦN I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1-2
2
PHẦN II:
NỘI DUNG
3
3
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN
4
4
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
5-7
2.1 Ưu điểm 5


2.2 Tồn tại 5-6
2.3 Nguyên nhân 6-7
2.4 Hướng giải quyết 7
5
CHƯƠNG 3:
CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
8-20
3.1 Năng lực sư phạm 8
3.2 Phương pháp dạy học
3.3 Hình thức dạy học
3.4 Biện pháp thực hiện
3.5 Phương pháp cụ thể
3.6 Dạy các kiểu bài luyện câu theo hướng giao tiếp
3.7 Các loại bài tập luyện câu theo hướng giao tiếp.
8-9
9-10
10-11
11-16
16-18
18-21
6
CHƯƠNG 4:
HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

22-23
7
CHƯƠNG 5:
TIỂU KẾT
24
8

PHẦN III:
KẾT LUẬN
25-27
9 TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN I

ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề quyết định sự phồn vinh của
đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại,
giúp con người có những hiểu biết cơ bản về khoa học và cuộc sống. Trong công
tác giáo dục, mục tiêu của nhà trường là giáo dục các em trở thành con người phát
triển toàn diện về: Đức- Trí- Thể- Mỹ. Mà bậc tiểu học là bậc đầu tiên, bậc học
nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm giúp học sinh hình thành và phát
triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, kỹ năng sử dụng Tiếng Việt và giao tiếp
trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học rèn luyện
cho các em các thao tác và tư duy sáng tạo. Như nhà văn Xu-khôn-vu- ki đã viết:
“Ai làm thầy mà không sung sướng, rung động khi nhìn thấy trí óc của trẻ em
ngày càng giàu thêm tri thức, tâm hồn đẹp đẽ. Cái đó chính là do tay mình tạo ra
tình yêu sư phạm. Lao động là như vậy đó”. Vậy để giáo dục có hiệu quả và đạt
chất lượng thì nhiệm vụ của người giáo viên Tiểu học là cung cấp kiến thức một
cách toàn diện cho học sinh. Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho
cuộc sống, học tập, sinh hoạt, vui chơi sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao. Đặc
biệt môn Tiếng Việt đóng vai trò quan trọng đối với học sinh tiểu học. Môn học
giúp các em biết diễn đạt bằng ngôn ngữ từ các sự vật, hiện tượng, biết dùng từ,
đặt câu, viết văn, biết dùng ngôn ngữ để giao tiếp và học tốt các môn học khác
một cách chắc chắn.
Với vai trò, vị trí, nhiệm vụ của giáo viên trong trường Tiểu học, đối chiếu với
thực tại của trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh, các thầy cô giáo đã góp nhiều công
sức vào việc giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập, phát triển các năng lực cho

học sinh được thể hiện cụ thể trong môn Tiếng Việt. Thực tế khi học đến phần
1
luyện câu thì nhiều em gặp khó khăn và lúng túng, sử dụng từ chưa phù hợp trong
khi nói và viết, miêu tả, đặt câu, viết văn, chưa nắm, chưa tự chiếm lĩnh được kiến
thức. Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin nói trước đông người và chưa
phát huy được năng lực của mình trong quá trình học tập. Vậy làm thế nào để
nâng cao chất lượng dạy- học Tiếng Việt nhất là luyện cho học sinh kỹ năng giao
tiếp bằng ngôn ngữ nên tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm: “Một số phương
pháp dạy luyện câu cho học sinh Tiểu học theo hướng giao tiếp.”. Mong được
chia sẻ và nhận được những đóng góp chân tình từ quý thầy giáo, cô giáo và đồng
nghiệp nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
2
PHẦN II
NỘI DUNG
PHẠM VI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Với khả năng và trình độ cho phép. Tôi chọn bậc Tiểu học và tập thể học sinh
lớp 5/2 trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh do tôi gảng dạy. Sáng kiến kinh nghiệm
này tôi đã vận dụng thực hiện từ năm 2012-2013 đến nay. Trong thời gian nghiên
cứu vận dụng ở trường và sinh hoạt chuyên môn ở huyện.
Xác định rõ quan điểm khoa học trong các phương pháp dạy học nhằm giúp học
sinh chóng tiến bộ, đạt kết quả cao.
NHIỆM VỤ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Nêu lên được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc dạy luyện câu theo hướng
giao tiếp.
Tìm hiểu những phương pháp hay, phù hợp với tâm lý lứa tuổi và đối tượng
học sinh nhằm giáo dục và đào tạo các em thành con người phát triển toàn diện.
NHỮNG QUAN ĐIỂM KHOA HỌC SẼ VẬN DỤNG:
Để nói lên những quan điểm khoa học trong nghiên cứu, tôi thực hiện và vận
dụng tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của giáo viên ở bậc tiểu học.
Đối với Phổ Thạnh là một xã ven biển, song trình độ dân trí ở đây chưa đồng

đều. Nên sự quan tâm đến việc học tập của con em trên địa bàn còn nhiều hạn chế,
ý thức học tập của các em chưa cao, các em còn thụ động trong học tập. Do vậy để
giúp học sinh học tốt phân môn Tiếng Việt nói chung và phần luyện câu nói riêng
là vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Theo tôi muốn học sinh học tập
và rèn luyện tốt kỹ năng giao tiếp nên cần thực hiện các nội dung sau:
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giao tiếp là sự tiếp xúc, bày tỏ cho nhau một điều gì đấy giữa các thành viên
trong cộng đồng. Con người sử dụng nhiều phương tiện giao tiếp nhưng ngôn ngữ
là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và
viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ, có thể sử
dụng dạng nói hoặc dạng viết tuỳ theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện,
hoàn cảnh giao tiếp. Chính vì vậy mà nhà trường chủ yếu luyện cho học sinh kỹ
năng giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Giao tiếp được thể hiện ở bốn chức năng: Chức năng thông tin, chức năng tự
biểu hiện, chức năng tạo lập và duy trì quan hệ, chức năng giải trí.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn của môn Tiếng Việt được tập hợp lại
xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn
luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học có hiệu quả nhất
thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu
và các môn học khác. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập
luyện từ- câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung giao tiếp rất rõ
về sự việc, cảnh vật, thiên nhiên, con người,
Qua việc dạy học giáo viên biết được trình độ, kiến thức, tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của các em về việc học ở lớp, cũng như việc học ở nhà để từ đó giáo
viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp và đạt kết quả tốt
nhất. Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một tình huống, những hoàn cảnh, những
điều kiện rất gần gũi của cuộc sống.
Để làm tốt vai trò người tổ chức và hướng dẫn, tôi đã tìm tòi, phân tích thực

trạng và lựa chọn một số phương pháp giúp học sinh học tập có hiệu quả theo
hướng giao tiếp.
4
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Môn Tiếng Việt ở tiểu học bao gồm các phân môn: Học vần( ở lớp 1), tập đọc,
luyện từ và câu, chính tả, tập viết, tập làm văn, kể chuyện. Mỗi phân môn đều có
nhiệm vụ riêng nhưng mục đích cuối cùng của việc dạy và học là cung cấp cho
học sinh những kiến thức phổ thông về ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ để nói, viết
và giao tiếp phù hợp.
2.1. ƯU ĐIỂM:
Trong nhà trường phân môn Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt quan trọng nhằm tạo
cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt để suy nghĩ, giao tiếp và học tập, rèn
luyện cho các em năng lực tư duy, giáo dục các em những tư tưởng lành mạnh,
trong sáng.
Đội ngũ giáo viên của trường đã được tập huấn và thực hiện giảng dạy theo
chương trình đổi mới của Bộ Giáo dục quy định. Giáo viên lập kế hoạch soạn
giảng cụ thể, đúng chuẩn kiến thức và kỹ năng của môn học. Trong dạy học có sử
dụng đồ dùng dạy học, sử dụng phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học. Giáo viên giảng dạy nhiệt tình, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh
trong lớp.
Học sinh tham gia học tập tương đối tốt, chất lượng học tập phân môn Tiếng
Việt có tiến bộ, số lượng học sinh khá giỏi tăng, học sinh yếu giảm. Tham gia đầy
đủ các hội thi và hoạt động do ngành tổ chức và đạt giải. Đây là kết quả đem đến
vinh dự cho nhà trường và cũng góp phần phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà
trường.
2.2.TỒN TẠI:
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy vốn từ ngữ, vốn sống, hiểu biết
về kinh nghiệm giao tiếp của các em còn hạn chế, nói năng chưa rõ ràng, xưng hô
5

chưa phù hợp.
Một bộ phận không nhỏ học sinh chưa có tư duy sáng tạo, chưa có khả năng tự
chiếm lĩnh kiến thức, mau chóng quên kiến thức đã học. Một số em còn lớn tuổi
chưa chăm học, ý thức tự học chưa cao. Một số em còn rụt rè, thiếu tự tin trước
đám đông, chưa mạnh dạn phát biểu ý kiến, chưa thể hiện được sự thân thiện với
thầy cô và bạn bè, mọi người xung quanh, kỹ năng giao tiếp còn yếu.
Giáo viên chúng ta đôi lúc đôi nơi còn chưa kịp thời hướng dẫn, rèn luyện một
cách thấu đáo cho học sinh.
Phụ huynh chưa thật sự quan tâm sâu sát đến vấn đề học tập và giáo dục con
em. Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy? Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận
thấy học sinh học còn nhiều điểm yếu và thiếu sót là do nhiều nguyên nhân.
2.3.NGUYÊN NHÂN:
2.3.1.Về học sinh:
Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để nói
hoặc viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về
một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.
Các em chưa chịu khó đọc sách, báo, tài liệu tham khảo.
Học sinh Tiểu học tư duy các em còn thấp, các em còn ham chơi, lười học, ít có
điều kiện tiếp xúc sâu và xa hơn vào lĩnh vực kiến thức ngoài chương trình học,
các em còn rụt rè, thiếu tự tin trong học tập và sinh hoạt. Các em chưa thường
xuyên có điều kiện giao lưu, học hỏi cùng bạn bè về các hoạt động tập thể, hoạt
động nghệ thuật.
2.3.2.Về phụ huynh học sinh:
Phụ huynh đa số là nông dân lao động, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn,
ít quan tâm đến việc học tập của con em, việc học tập và giáo dục con em, việc
học tập của các em thường giao phó cho giáo viên là chính.
2.3.3.Về giáo viên:
Giáo viên chưa vận dụng nhiều phương pháp để phát huy tối đa năng lực học
6
tập của học sinh, chưa thường xuyên bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý

Tiếng Việt ham thích học Tiếng Việt.
Việc tự nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi đầu tư trong việc bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ chưa thường xuyên. Giáo viên mới ra trường chưa có nhiều kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy.
2.3.4. Về phía nhà trường:
Trang thiết bị và đồ dùng dạy học, phòng học còn thiếu, chưa có phòng chức
năng để học sinh thực hành.
2.4. HƯỚNG GIẢI QUYẾT:
Một trong những mục tiêu của chương trình Tiếng Việt tiểu học là chú trọng
nhiệm vụ hình thành và phát triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt văn hoá và hiện
đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Xuất phát từ những vấn đề, nội dung nghiên
cứu trên đối chiếu với thực tại của Trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh tôi đã tìm ra
hướng giải quyết sau:
Trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm nó đòi hỏi ở
học sinh một yêu cầu cao hơn là học sinh phải độc lập, tự giác, sáng tạo trong học
tập. Giáo viên phải biết vận chuyển từ dạy học nặng về cung cấp kiến thức sang
dạy học gắn với thực hành, vận dụng gắn với đời sống. Trong đó học sinh là chủ
thể của hoạt động với sự trợ giúp của tài liệu học tập, đồ dùng, cảnh quan, môi
trường học tập, cùng với sự hướng dẫn hợp lí của giáo viên.
Nội dung dạy học phải thiết thực, tinh giản, tích hợp được nhiều mặt giáo dục,
gần gũi với đời sống của trẻ, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Đặc biệt giáo viên cần nắm vững nội dung và mức độ yêu cầu của từng kiểu bài
để hướng dẫn học sinh luyện tập, thực hành cho phù hợp, củng cố và phát triển
những kiến thức, kỹ năng cần đạt ở các bài học nhằm hướng tới mục đích giao
tiếp. Đồng thời cần lựa chọn sử dụng nhiều phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Từ việc dạy học, với những
thực trạng của trường nêu trên. Tôi xin đưa ra một số biện pháp sau:
7
CHƯƠNG 3
CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.


Chúng ta phải xác định rõ: Kết quả học tập mà mỗi học sinh đạt được ở môn
học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng là thước đo trình độ kiến thức thực của
các em được thể hiện trong giờ học, các bài tập, các bài kiểm tra được thể hiện qua
sự theo dõi, nhận xét, đánh giá của giáo viên. Do vậy để có được trình độ kiến
thức thực chất trong các em, các em phải biết cách học, cách tự tìm ra và chiếm
lĩnh kiến thức, ghi nhớ kiến thức thông qua việc tổ chức và hướng dẫn của giáo
viên. Vì thế, để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng
thú học tập cho các em thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều:
3.1. NĂNG LỰC SƯ PHẠM:
Trước hết giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề mến trẻ, tức
là phải có năng lực sư phạm được thể hiện ở các yếu tố sau:
- Năng lực khoa học.
- Năng lực hiểu học sinh.
- Năng lực tổ chức.
- Năng lực ngôn ngữ.
- Năng lực phân phối chú ý.
- Năng lực trình bày bài giảng.
- Có óc tưởng tượng sư phạm.
Đồng thời phải biết lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
thích hợp.
3.2. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
Hiện nay, để thực hiện theo xu thế đổi mới toàn diện của ngành giáo dục thì cần
thay đổi một số phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực của học sinh, phù
hợp với từng nội dung môn học, tổ chức dạy học theo đối tượng học sinh, dựa trên
8
chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình, bồi dưỡng năng lực độc lập suy nghĩ,
vận dụng sáng tạo kiến thức đã học của học sinh. Và trong quá trình dạy học cần
phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, cụ thể là:
- Phương pháp đàm thoại.

- Phương pháp thuyết minh.
- Phương pháp thảo luận.
- Phương pháp tìm tòi.
- Phương pháp động não.
- Phương pháp nêu vấn đề.
- Phương pháp giải quyết vấn đề.
- Phương pháp khảo sát điều tra.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
Bên cạnh việc đổi mới phương pháp dạy học tất yếu phải đổi mới hình thức tổ
chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần thiết.
3.3. HÌNH THỨC DẠY HỌC:
Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực phát triển ở học sinh
một yếu tố nào đó. Vì vậy chúng ta cần phải biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức
dạy học vào phân môn Tiếng Việt để phát huy thế mạnh của mỗi hình thức tổ chức
dạy học, nhằm tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với
nhau nhiều hơn. Có thể tổ chức các hình thức dạy học sau:
- Dạy học cá nhân
- Dạy học đồng loạt cả lớp
- Dạy học theo nhóm
- Dạy học ngoài trời
- Tham quan
Ngoài sự phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trên, trong
quá trình giảng dạy, giáo viên cần khai thác tối đa có hiệu quả các thiết bị và đồ
dùng dạy học, coi trọng thực hành, liên hệ thực tế trong giảng dạy phù hợp với nội
9
dung từng bài học. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp theo nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” nhằm đảm bảo tính linh hoạt về hình thức tổ chức dạy
học, hình thức kiểm tra, đánh giá, rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng hoạt động xã
hội cho học sinh. Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, dự giờ học hỏi đồng

nghiệp, rút kinh nghiệm giảng dạy ở các khối chuyên môn, thao giảng cấp trường,
cấp huyện.
3.4. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
3.4.1. Đối với học sinh:
Các em phải hiểu được tầm quan trọng của việc học tập, có ý thức tự giác trong
học tập, trong giờ học phải chú ý nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia
phát biểu xây dựng bài, trao đổi thảo luận ý kiến với bạn, bày tỏ ý kiến của mình
trước lớp. Luyện tập thói đi thưa về trình, chào hỏi người trên. Xưng hô phù hợp
thân thiện.
Tích cực, chủ động chuẩn bị bài ở nhà.
Thường xuyên đến thư viện nhà trường để tìm đọc sách báo và tài liệu tham
khảo. Có sổ tay ghi chép những kiến thức đã học để ghi nhớ.
3.4.2. Đối với phụ huynh học sinh:
Trang bị đầy đủ sách vở cho con em về phân môn Tiếng Việt. Quan tâm sâu sát
và dành nhiều thời gian cho việc học tập và giáo dục các em ở nhà.
Thường xuyên phối hợp với giáo viên để biết cách hướng dẫn, kiểm tra bài vở
về việc học tập và giáo dục con em ở nhà.
3.4.3. Đối với nhà trường:
Tham mưu với lãnh đạo ngành để đảm bảo cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy
học. Mua thêm một số sách tham khảo của nhà xuất bản Giáo dục.
Tăng cường tổ chức thao giảng một số tiết dạy phân môn Tiếng Việt để giáo
viên trao đổi rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
3.4.4. Đối với giáo viên:
10
Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Dự giờ, rút
kinh nghiệm ở đồng nghiệp.
Thiết kế giáo án, nghiên cứu bài trước khi lên lớp, chuẩn bị đồ dùng, phương
tiện dạy học phù hợp và khoa học. Thực hiện giảng dạy đúng chuẩn kiến thức kỹ
năng bài học. Hướng dẫn thấu đáo khi học sinh học lí thuyết cũng như lúc luyện
tập, thực hành, tạo hứng thú cho các em khi học tập, thường xuyên rèn luyện cho

các em kỹ năng nói và giao tiếp, xử lí tình huống, ứng xử phù hợp.
Từ việc phối hợp thực hiện các biện pháp trên tôi đã vận dụng và xây dụng thực
hiện các phương pháp cụ thể trong giảng dạy sau:
3.5. PHƯƠNG PHÁP CỤ THỂ
Thật vậy, đổi mới phương pháp dạy học cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy
học. Mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, giúp các em nắm được kiến
thức và khắc sâu ghi nhớ kiến thức một cách chắc chắn, phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo, tích luỹ được vốn từ, cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc
sống, biết bộc lộ tình cảm của mình tập trung chính vào các nội dung sau:
3.5.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
Trong luyện câu phương pháp này được dùng để tìm hiểu các bộ phận cấu tạo
câu, ý nghĩa của câu, các kiểu liên kết câu trong đoạn, dấu câu, tình huống giao
tiếp,…nhằm giúp học sinh nắm bắt đối tượng, thông hiểu khái niệm, giúp học sinh
sử dụng công cụ giao tiếp một cách có ý thức.
Phương pháp này được thể hiện ở các dạng bài tập phân tích:
3.5.1.1. Tìm các bộ phận của câu ( Tiếng Việt lớp 3)
Ví dụ: - Tìm bộ phận trả lời câu hỏi “Ai( cái gì, con gì) ?”; là gì ? trong câu
sau:
Thiếu nhi là măng non của đất nước.
Chích bông là bạn của trẻ em.
Ở bài tập này tôi hướng dẫn học sinh cách thực hiện như sau:
- Bộ phận nào trong câu trả lời cho câu hỏi Ai ( cái gì, con gì) ?
11
- Bộ phận nào trong câu trả lời cho câu hỏi là gì ?
Qua bài tập học sinh sẽ thể hiện được sự giao tiếp của mình với giáo viên để trả
lời câu hỏi và nhận xét bài của bạn. Các em xác định được bộ phận của câu trả lời
cho câu hỏi Ai ( cái gì, con gì) ?(Thiếu nhi; Chích bông). Và xác định được bộ
phận của câu trả lời cho câu hỏi Là gì ?( măng non của đất nước; bạn của trẻ em).
3.5.1.2.Tìm câu kể trong đoạn văn sau đây. Cho biết mỗi câu dùng để làm gì.
(Tiếng Việt lớp 4)

“ Chiều chiều trên bãi thả, đám trẻ mục đồng chúng tôi hò hét nhau thả diều thi.
Cánh diều mềm mại như cánh bướm. Chúng tôi vui sướng đến phát dại nhìn lên
trời. Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng. Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,…như gọi thấp
xuống”.
Với bài tập này tôi hướng dẫn học sinh vận dụng hiểu biết của mình về câu kể
để xác định: Những câu nào là câu kể ? (Các câu trên đều là câu kể ). Và phân tích
nắm bắt được đối tượng kể trong đoạn văn: Nêu tác dụng của từng câu kể ?(Câu
thứ nhất kể về sự việc; câu thứ 2 tả cánh diều; câu thứ 3 kể về sự việc và nói lên
tình cảm; câu 4 tả tiếng sáo diều; câu 5 nêu ý kiến nhận định).
Qua việc tìm câu kể và nêu tác dụng của từng câu kể sẽ rèn luyện cho học sinh
kỹ năng thực hành và định hướng giao tiếp bằng ngôn ngữ.
3.5.2. Phương pháp luyện tập theo mẫu:
Luyện tập theo mẫu là phương pháp học sinh tạo ra các đơn vị ngôn ngữ
bằng cách mô phỏng mẫu đã cho. Phương pháp này được thể hiện ở các dạng
bài tập:
3.5.2.1. Chọn từ ngữ thích hợp ở cột A ghép với từ ngữ ở cột B để tạo
thành câu kể Ai là gì?( Tiếng Việt lớp 4)
Bạn Lan là tương lai của đất nước
Người là người mẹ hiền thứ hai của em
Cô giáo là người Hà Nội
Trẻ em là vốn quý nhất
Ví dụ: Trẻ em là tương lai của đất nước.
12
Ở bài tập này tôi hướng dẫn các em dựa vào mẫu câu kể Ai là gì? để tạo lời
và viết thành câu.
3.5.2.2. Đặt câu khiến theo những yêu cầu dưới đây ( Tiếng Việt lớp 4)
a) Câu khiến có từ hãy ở trước động từ.
b) Câu khiến có từ đi hoặc nào ở sau động từ.
c) Câu khiến có từ xin hoặc mong ở trước chủ ngữ
Với bài tập trên tôi hướng dẫn học sinh phân tích câu mẫu: “Con hãy ở

nhà với bà”.
- Từ hãy đứng trước động từ nào?
- Từ hãy được dùng có tác dụng gì?
- Khi đặt câu cần chú ý điều gì?
Qua bài tập này học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao
tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
Các thao tác thực hiện phương pháp theo mẫu: Cung cấp mẫu, hướng dẫn
học sinh phân tích mẫu, học sinh mô phỏng mẫu để tạo lời, kiểm tra đánh
giá. Phương pháp này vừa dùng để củng cố kiến thức vừa được dùng để
hướng dẫn học sinh tạo câu bằng vốn từ và sự hiểu biết của các em.
3.5.3. Phương pháp giao tiếp:
Đây là phương pháp dạy học tiếng dựa vào những lời nói sinh động, coi
trọng việc phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Phương pháp giao tiếp
thể hiện ở các dạng bài tạo câu, viết đoạn, sử dụng câu trong tình huống giao
tiếp cụ thể.
Ví dụ:
a) Tình huống: “Có lần em cùng một số bạn trong lớp đến thăm bạn Hà
bị ốm. Em giới thiệu với bố mẹ bạn Hà từng người trong nhóm”. Hãy viết
13
một đoạn văn ngắn kể lại chuyện đó, trong đoạn văn có sử dụng câu kể Ai là
gì?. ( Tiếng Việt lớp 4).
Ở bài tập này tôi hướng dẫn học sinh thực hiện:
- Tình huống xảy ra trong hoàn cảnh nào?
- Tình huống có mấy nhân vật?
- Ai nói với ai, nói về cái gì?
- Hướng dẫn học sinh tạo lời cụ thể: Học sinh thảo luận theo nhóm 6 để
viết đoạn văn.
- Học sinh thực hiện giao tiếp: Đóng vai thể hiện theo nội dung đoạn văn
trước lớp theo nhóm.
Khi hướng dẫn học sinh làm các bài tập trên, cần thực hiện theo các thao

tác:
- Tạo tình huống, kích thích nhu cầu giao tiếp.
- Giúp học sinh định hướng giao tiếp( nói cái gì, với ai, để làm gì, trong
hoàn cảnh nào,…).
- Học sinh tạo lời cụ thể.
- Nhận xét, đánh giá.
3.5.4. Phương pháp thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm là hình thức dạy học làm việc theo nhóm, có ích trong
việc hình thành ở học sinh khả năng giao tiếp, hợp tác; khả năng thích ứng
và khả năng độc lập suy nghĩ.
Thảo luận nhóm có thể dùng cho nhiều bài thuộc nhiều nội dung học tập:
phát hiện kiến thức mới, xây dựng dàn ý một bài viết, đặt lời, tìm kiếm đơn
vị ngôn ngữ; nhận xét một chi tiết, ý tưởng trong bài,…
Ví dụ: Tạo câu theo mẫu Ai làm gì? với từ cho trước( Tiếng Việt lớp 2).
Tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm 4.
14
* Sắp xếp các từ ở 3 nhóm sau thành câu:
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
anh khuyên bảo anh
chị chăm sóc chị
em trông nom em
chị em giúp đỡ nhau
anh em
Qua bài tập này tạo cho học sinh khả năng độc lập suy nghĩ và hợp tác,
trao đổi, giao tiếp với bạn trong việc chọn lọc từ ở 3 nhóm rồi xếp thành câu
đúng mẫu.
Ví dụ: Chị em giúp đỡ nhau.
Trong luyện câu, thảo luận nhóm có thể được dùng để các thành viên cùng
phân tích các bộ phận câu, nhận diện các kiểu câu, phân tích câu; đặt câu,
xây dựng đoạn, chữa lỗi, viết câu,

3.5.5. Trò chơi học tập:
Trò chơi học tập là hình thức học tập phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học
sinh tiểu học. Giúp cho giờ học sinh động, học sinh có điều kiện giao tiếp
hợp tác hoạt động.
Trò chơi học tập phải hướng vào việc củng cố kiến thức, rèn kỹ năng ở
từng bài, nhóm bài. Nội dung trò chơi là một đơn vị kiến thức, một số thao
tác của kỹ năng phù hợp với khả năng của học sinh. Hình thức trò chơi cần
đa dạng, phong phú, phối hợp được nhiều cơ quan hoạt động và giác quan
của học sinh. Cách chơi đơn giản, dễ thực hiện, thu hút được nhiều học sinh
tham gia. Điều kiện để tổ chức cần đơn giản, phương tiện để chơi dễ làm. Vì
vậy khi tổ chức trò chơi cần chú ý đến những đặc tính: Vui - Khỏe - Có ích và an
15
toàn. Nội dung của trò chơi cần thể hiện bao gồm khắc sâu kiến thức, giải trí, thư
giản, giao lưu, học hỏi, thi đua với nhau.
Ví dụ: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho những câu sau:
……… , em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình.
…………., em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu.
…………., hoa đã nở.
Ở bài tập này tôi tổ chức cho học sinh chơi: “Điền đúng và nhanh” theo 3 tổ,
mỗi tổ cử 3 em tham gia trong thời gian 1 phút.
Qua trò chơi giúp học sinh có kỹ năng hợp tác phán đoán nhanh, trao đổi giao
tiếp với nhau để tìm ra đơn vị ngôn ngữ thích hợp điền vào câu văn đúng ngữ pháp
và phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan của người nói.
Trong luyện tập về câu, có thể tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi: đố-
đáp; hỏi- đáp; điền vào chỗ trống; kịch nói; kịch câm; đặt câu với từ cho
trước; đặt câu theo mẫu Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế nào?; thêm bộ phận phụ
cho câu, nối các vế câu ghép,
3.6. DẠY CÁC KIỂU BÀI LUYỆN CÂU THEO HƯỚNG GIAO TIẾP
Trong trường Tiểu học việc luyện câu cho học sinh được thực hiện bằng nhiều
hình thức dạy học: luyện câu trong các bài học thuộc phân môn luyện từ và câu;

trong các phân môn Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn; các môn học
khác, như Toán, Tự nhiên và xã hội, Khoa học, Lịch sử, Địa lí, Đạo đức, ; qua các
hoạt động ngoại khoá, hoạt động xã hội.
3.6.1. Trong môn Tiếng Việt:
Cung cấp những kiến thức sơ giản về câu, liên kết câu trong bài giúp học sinh sử
dụng tiếng Việt một cách có ý thức. Trong bài cung cấp kiến thức mới, quan điểm
giao tiếp thể hiện ở chỗ, kiến thức lí thuyết, khái niệm ngôn ngữ học được hình
thành theo con đường quy nạp. Từ những lời nói sinh động, phù hợp với mức độ
hiểu biết và kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ của học sinh, tôi hướng dẫn cho các em phân
tích, so sánh, nhận xét rút ra kiến thức mới.
16
Việc thực hành về câu cho học sinh được thực hiện ở các dạng bài tập trong
phân môn Tiếng Việt theo hướng giao tiếp:
3.6.1.1. Trong phân môn Tập làm văn
Nói lời cảm ơn của em trong những trường hợp sau( Lớp 2):
a) Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa.
b) Cô giáo cho em mượn quyển sách.
c) Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi.
Qua bài tập trên giúp học sinh được giao tiếp thông qua hoạt động suy nghĩ, bộc
lộ tư tưởng, tình cảm của mình bằng ngôn ngữ và biết cách xưng hô phù hợp nói
với bạn bè, nói với cô giáo, nói với em bé.
3.6.1.2. Trong phân môn Tập đọc.
Bài: Luôn nghĩ đến miền Nam( Lớp 3)
Tôi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi:
- Chị cán bộ miền Nam thưa với Bác điều gì?( Chúng cháu đánh giặc Mĩ đến
một trăm năm cũng không sợ).
- Câu nói đó thể hiện tình cảm của đồng bào miền Nam với Bác như thế nào?
( Đồng bào miền Nam kính yêu Bác như kính yêu một người cha trong gia đình).
- Tình cảm của Bác với đồng bào miền Nam được thể hiện như thế nào?( Bác
mong được vào thăm đồng bào miền Nam).

Học sinh suy nghĩ, trao đổi trả lời các câu hỏi trên trong giờ tập đọc là các em
đã tiến hành giao tiếp, được luyện về câu trong môi trường hoạt động học tập.
3.6.2. Trong các môn học khác:
Các môn học khác cũng có thể giúp học sinh rèn luyện sử dụng câu.
Chẳng hạn, trong môn Toán, các em có điều kiện tiếp xúc nhiều với câu hỏi, câu
khiến. Ví dụ:
- Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tính gì?( Câu hỏi)
- Em giải bài toán có lời văn phải đủ bốn bước nhé.( Câu khiến)
- Em nêu cách nhân nhẩm số có hai chữ số với 11.( Câu khiến).
17
Trả lời các câu hỏi trong bài Tự nhiên và xã hội, học sinh được luyện về các loại
câu theo mục đích nói, các thành phần cấu tạo câu thông qua giao tiếp.
Ví dụ:
- Bố của Hương đang làm gì? (hỏi về vị ngữ)
- Bộ phận nào dùng để nhai thức ăn? (hỏi về chủ ngữ)
- Những khớp xương phải cử động khi nào? (hỏi về trạng ngữ).
Ngoài ra trong tất cả các môn học tôi đều chú ý đến luyện câu, chữa lỗi viết
câu cho học sinh. Đây cũng là biểu hiện của giao tiếp trong luyện câu.
3.6.3. Trong các hoạt động khác:
Các hoạt động ngoại khoá như câu lạc bộ Tiếng Việt, báo tường, tham quan, dã
ngoại,…đều là những môi trường giao tiếp tốt, tự nhiên, sinh động để rèn luyện
các kỹ năng giao tiếp cho học sinh, trong đó chủ yếu là rèn luyện câu.
3.7. CÁC LOẠI BÀI TẬP LUYỆN CÂU THEO HƯỚNG GIAO TIẾP:
Luyện câu cho học sinh được thực hiện bằng việc giải quyết các bài tập. Có thể
phân loại các bài tập luyện câu thành hai loại: bài tập nhận diện- phân tích và bài
tập xây dựng- tổng hợp.
3.7.1. Bài tập nhận diện- phân tích:
Ví dụ:
- Tìm các bộ phận câu trả lời cho từng câu hỏi Ai ? Làm gì ?( Tiếng Việt lớp 2)
a) Chi đến tìm bông cúc màu xanh.

b) Cây xoà cành ôm cậu bé.
- Tìm các vế câu chỉ nguyên nhân, chỉ kết quả và quan hệ từ, cặp quan hệ từ nối
các vế câu trong những câu sau: ( Tiếng Việt lớp 5)
a) Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo
Cho nên tôi phải băm bèo thái khoai.
b) Lúa gạo quý vì ta phải đổ bao mồ hôi mới làm ra được. Vàng cũng quý vì nó
rất đắc và hiếm.
18
Các bài tập luyện cho học sinh khả năng nhận diện các kiểu câu, bộ phận cấu
tạo, giúp học sinh có những hiểu biết về câu để sử dụng một cách có ý thức trong
giao tiếp.
3.7.2. Bài tập xây dựng- tổng hợp:
Loại bài tập này thể hiện trong nhiều hình thức.
3.7.2.1. Điền từ ngữ vào chỗ trống:
Ví dụ: Em chọn từ ngữ nào điền vào chỗ trống để tạo thành câu hoàn chỉnh?
Cháu………ông bà.
Con………cha mẹ.
Em……….anh chị.
3.7.2.2.Đặt câu không theo mẫu:
Ví dụ: Đặt câu với mỗi nghĩa dưới đây của từ đánh:
Làm đau bằng cách dùng tay hoặc dùng roi gậy,…đập vào thân người.
Dùng tay làm cho phát ra tiếng nhạc hoặc âm thanh.
Làm cho bề mặt sạch hoặc đẹp ra bằng cách xát, xoa.
3.7.2.3. Đặt câu theo mục đích nói:
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho các bộ phận câu được in đậm.
Mấy bạn học trò bỡ ngỡ đứng nếp bên người thân.
Ông ngoại dẫn tôi đi mua vở, chọn bút.
Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng.
3.7.2.4. Biến đổi câu:
Ví dụ: Chuyển câu kể thành câu khiến:

Nam đi học.
Ngân chăm chỉ.
Giang phấn đấu học giỏi.
3.7.2.5. Viết đoạn:
Ví dụ:
- Viết khoảng 5 câu nói về một bạn lớp em( Tiếng Việt lớp 2).
19
- Viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em yêu thích, trong đó có ít nhất một
câu chỉ trạng ngữ phương tiện( Tiếng Việt lớp 4).
3.7.2.6. Liên kết câu trong đoạn:
Ví dụ: Hãy thay thế những từ ngữ được lặp lại trong mỗi câu của đoạn văn sau
bằng những từ ngữ có giá trị tương đương để đảm bảo liên kết mà không lặp từ:
(Tiếng Việt lớp 5).
Vợ An Tiêm lo sợ vô cùng. Vợ An Tiêm bảo An Tiêm:
- Thế này thì vợ chồng mình chết mất thôi.
An Tiêm lựa lời an ủi vợ:
- Còn hai bàn tay, vợ chồng chúng mình còn sống được.
Qua các bài tập trên đều rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo câu, liên kết câu
thành đoạn và sử dụng câu trong giao tiếp phù hợp.
3.7.3 . Làm giàu vốn từ cho học sinh
Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài đọc,
từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu cùng chủ điểm. Tạo
cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một cảnh vật hay
một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá được bằng
vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng từ, viết câu,
làm văn
Ở phân môn Tập đọc giúp các em hiểu được nội dung của các đoạn văn, khổ
thơ, đọc phân vai, đóng vai nhân vật.
Ở phân môn Luyện từ và câu là môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều
nhất khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng

vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ, xác định nghĩa của
từ, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành câu.
Ví dụ: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Trật tự - An ninh( Tiếng Việt lớp 5)
Tìm những từ ngữ liên quan tới việc giữ gìn trật tự, an toàn giao thông có trong
đoạn văn sau: “ Theo báo cáo của phòng Cảnh sát giao thông thành phố, trung
20
bình mỗi đêm có 1 vụ tai nạn và 4 vụ va chạm giao thông. Phần lớn các tai nạn
giao thông xảy ra do vi phạm quy định về tôc độ, thiết bị kém an toàn. Ngoài ra
việc lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, mở hàng quán, đổ vật liệu xây dựng cũng gây
ảnh hưởng rất lớn tới trật tự và an toàn giao thông”.
Với bài tập trên tôi hướng dẫn học sinh tìm các từ ngữ và xếp vào các nhóm
nghĩa sau:
- Lực lượng bảo vệ trật tự, an toàn giao thông: Cảnh sát giao thông.
- Hiện tượng trái ngược với trật tự, an toàn giao thông: tai nạn, tai nạn giao
thông, va chạm giao thông.
- Nguyên nhân gây tai nạn giao thông: vi phạm quy định về tốc độ, thiết bị kém
an toàn, lấn chiếm lòng đường, vỉa hè.
Kết hợp cho học sinh xem tranh ảnh về :Thiết bị kém an toàn; lấn chiếm lòng
đường; vỉa hè để giúp các em hiểu được nghĩa của từ ngữ.
Qua bài tập trên sẽ cung cấp cho các em một số từ ngữ về Trật tự- An ninh,
giúp các em có được vốn từ và sử dụng từ một cách dễ dàng để đặt câu, viết văn,
tạo lập ngôn ngữ giao tiếp.

21
CHƯƠNG 4
HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Ở trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh nói chung và lớp tôi nghiên cứu, giảng dạy
nói riêng từ năm 2012- 2013. Từ những kinh nghiệm dạy học và đúc kết rút ra
hằng năm, tôi đem áp dụng ngay ở trường, lớp 5/2. Với phương pháp dạy học mới,
với hình thức tổ chức dạy học mới(dạy học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học

ngoài trời, tham quan, trò chơi học tập)về phân môn Tiếng Việt nói riêng và các
môn học khác nói chung đã tạo cho học sinh có bước tiến bộ rõ nét. Các em đã các
em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định để học có hiệu quả môn Tiếng
Việt. Các em đều ham thích môn học. Bài làm của các em đa số đã có tiến bộ,
học sinh nắm được cách dùng từ, đặt câu, sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ
chính xác, viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu
và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập của mình. Các em cảm
thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dung bài. Các em đã mạnh dạn,
tự tin trong học tập và giao tiếp. Đặc biệt còn kích thích được phong trào thi đua
học tập trong lớp, trong trường. Do đó kết quả đem lại rất khả quan, nhiều em rụt
rè nay đã hăng say phát biểu xây dựng bài, học thuộc bài và làm bài đầy đủ trước
khi đến lớp. Lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú tiếp thu bài một cách nhanh
chóng, kết quả học tập có nhiều tiến bộ, học sinh khá, giỏi tăng, học sinh yếu
giảm. Phát động được phong trào thi đua dạy tốt học tốt của lớp, của trường. Kết
quả học tập của lớp 5/2 và của trường được thể hiện qua bảng thống kê sau:

22
Diễn biến chất lượng môn Tiếng việt của lớp 5/2:
Thời gian
Số
HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Khảo sát đầu
năm
2013-2014
32 2 6,3% 10 31,3% 15 46,8% 5 15,6%
Cuối học kì I 32 4 12,5% 12 37,5% 14 43,7% 2 6,3%
Cuối học kì II 32 6 18,8% 14 43,7% 12 37,5%

0 0%

Diễn biến chất lượng môn Tiếng Việt của trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh
Thời gian
Số
HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Khảo sát đầu năm
2013 – 2014
350 51 14,6% 112 32,0% 125 35,7% 62 17,7%
Cuối học kì I 449 81 18% 203 45,2% 139 31% 15 3,3%
Cuối học kì II 449 141 31,4% 211 47% 84 18,7% 13 2,9%

Học sinh giỏi môn Tiếng Việt:
- Cấp trường: 7 giải;
- Cấp huyện: 4 giải.
- Liên Đội đạt xuất sắc cấp tỉnh.
Diễn biến chất lượng môn Tiếng việt sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
này thật đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu của cô giáo,
thầy giáo và học sinh lớp 5/2 cũng như học sinh toàn trường Tiểu học số 3 Phổ
Thạnh. Chất lượng môn Tiếng Việt tăng lên rõ rệt đã góp phần quan trọng vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục của lớp và của trường.
23

×