Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần Việt Am-Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 118 trang )


đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn




Cao thị Kim ngân






Sự gắn kết cộng đồng trong ph-ơng thức
kinh doanh đa cấp tại việt nam

(Nghiên cứu tr-ờng hợp Công ty Cổ phần Việt Am- Hà Nội)








Luận văn thạc sĩ khoa học xã hội học










Hà Nội - 2007
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu

I. Tính cấp thiết của để tài 1
II.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
III. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu 2
IV. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3
V. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4
VI. Giả thuyết nghiên cứu 5
VII. Khung lý thuyết 6
VIII. Kết cấu của luận văn 7

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 8
I. Vài nét về vấn đề nghiên cứu 8
II. Cơ sở lý luận của đề tài 10
1. Lý thuyết Mác xít về lao động 10
2. Lý thuyết về cộng đồng của J.H.Fichter 13
3. “Triết lý đồng tiền” của G.Simmel 17
III. Các khái niệm công cụ 19
1. Kinh doanh đa cấp 19
2. Kinh doanh truyền thống 20
3. Cộng đồng 20

IV. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 21
1. Kinh doanh đa cấp là gì và hoạt động như thế nào? 21
2. Ý tưởng kinh doanh đa cấp ra đời từ bao giờ 21
3. Thực trạng kinh doanh đa cấp hiện nay ở nước ta ra sao? 22
4. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 22

CHƯƠNG II. GẮN KẾT CHỨC NĂNG VÀ GẮN KẾT TÌNH CẢM:
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 25
I. Sự gắn kết cộng đồng trong hoạt động nghề nghiệp 25
1. Mức độ gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm 25
2. Sự hỗ trợ phát triển hệ thống 31
2.1. Khả năng hợp tác với đồng nghiệp 31
2.2. Những đối tượng được lựa chọn để trao đổi kinh nghiệm 35
2.3. Mức độ giúp đỡ đồng nghiệp 41
3. Chia sẻ rủi ro 46
4. Xây dựng uy tín của công ty 53

II. Sự gắn kết cộng đồng trong đời sống 60
1. Sự thăm hỏi lẫn nhau 61
1.1. Mức độ thăm hỏi 62
1.2. Lý do thăm hỏi 68
2. Sự quan tâm giúp đỡ nhau lúc khó khăn 72
2.1. Những vấn đề được nhờ cậy cùng giải quyết 74
2.2. Cách thức giải quyết 78

III. Sự gắn kết với gia đình và xã hội 82
1. Sự gắn bó với gia đình 82
2 Sự đồng thuận với môi trường xã hội xung quanh 89

IV. Những nguyên nhân tác động tới sự gắn kết cộng đồng 94

1. Mô hình kinh doanh: Sự phân chia lợi nhuận 94
2. Phương pháp tổ chức lao động 96
3. Cách xây dựng quan hệ lao động 98

PHẦN KẾT LUẬN

I. Kết luận 100
II. Khuyến nghị 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
1

PHẦN MỞ ĐẦU

I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, phát triển nền k inh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; những năm gần đây các loại hình
kinh doanh mới mẻ và đi kèm với nó là những nghề nghiệp mới ngày
càng xuất hiện nhiều hơn. Về mặt kinh tế, các loại hình nghề nghiệp
mới này ra đời đáp ứng yêu cầu của thị trường và lợi ích chính đáng của
người lao động, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho
người dân. Chúng ta có thể thấy rõ vai trò to lớn của các công ty tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ngoài quốc
doanh cũng như các loại hình dịch vụ mới trong việc thay đổi cơ cấu
nền kinh tế cũng như cải thiện đời sống của người lao động. Tuy nhiên,
thu nhập và mức sống chưa phải là những chỉ tiêu đầy đủ để đánh giá sự
phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế. Người ta ngày càng
quan tâm nhiều hơn đến chỉ số phát triển con người, có nghĩa là sự phát

triển hoàn thiện, tự do, lành mạnh của nhân cách dưới hệ thống kinh tế
ấy cũng như mối gắn kết hoà hợp của cá nhân với cộng đồng mà anh ta
chung sống. Từ lý thuyết “tha hoá” của nhà triết học- xã hội học kinh
điển C.Mác cách đây 1 thế kỷ đến khái niệm “đoàn kết xã hội” của
Durkheim và luận điểm “Phát triển là quyền tự do” của nhà kinh tế học
đoạt giải Nobel năm 1998 Amartya Sen đều thể hiện mối quan tâm
chung rất to lớn đến điều này.
Vậy những nghề nghiệp mới nảy sinh trong xã hội ta những năm
qua tác động về mặt xã hội tới người lao động như thế nào? Chúng ta đã
có nhiều công trình nghiên cứu về định hướng giá trị, đời sống tinh thần
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
2
của người lao động nhưng chưa có một công trình nào coi nghề nghiệp
là biến số độc lập trọng tâm để lý giải những vấn đề ấy. Đặc biệt chúng
ta cũng chưa có các công trình nghiên cứu cụ thể nào về một loại hình
nghề nghiệp để xem xét những hệ quả toàn diện của nó tới người lao
động bên cạnh vấn đề thu nhập. Đây là mảng trống trong xã hội học
kinh tế ở nước ta.
Trên cơ sở thực tế đó, tôi đã chọn nghiên cứu tác động của một
loại nghề nghiệp rất mới ở nước ta: kinh doanh đa cấp, hay còn gọi là
kinh doanh hệ thống, kinh doanh theo mạng ( network marketing/ multi
level marketing) tới tính gắn kết cộng đồng của những người tham gia
vào mô hình kinh doanh này
II. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần sáng tỏ lý thuyết về cộng đồng
trong đời sống xã hội hiện đại, cụ thể là lý thuyết về cộng đồng nghề
nghiệp. Với đối tượng nghiên cứu là một phương thức kinh doanh
còn khá mới mẻ ở Việt Nam, đề tài cũng sẽ cung cấp luận cứ, luận
chứng cho những khái quát lý luận của xã hội học kinh tế và gợi mở

cho các nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này.
2. Ý nghĩa thực tiễn: Trong bối cảnh dư luận còn nhiều đánh giá trái
chiều nhau về loại hình kinh doanh đa cấp, đề tài cung cấp những
bằng chứng xác thực về một tác động xã hội của phương thức kinh
doanh này, từ đó định hướng dư luận có cách nhìn nhận chân thực
hơn. Với các nhà quản lý kinh tế, kết quả nghiên cứu cũng là một căn
cứ để có những chính sách quản lý phù hợp, phát huy mặt mạnh và
hạn chế những yếu điểm của phương thức kinh doanh đa cấp.
III MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
3
1. Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu nội dung, mức độ gắn kết cộng
đồng của những người tham gia kinh doanh đa cấp và một số nguyên
nhân tác động đến sự gắn kết ấy.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu sự gắn kết trong hoạt động nghề nghiệp của cộng
đồng những người tham gia kinh doanh đa cấp
- Tìm hiểu sự gắn kết trong đời sống của cộng đồng những
người tham gia kinh doanh đa cấp
- Tìm hiểu sự gắn kết của người tham gia kinh doanh đa cấp với
cộng đồng xã hội xung quanh (gia đình, xã hội)
- Lý giải một số nguyên nhân tác động đến tính gắn kết cộng
đồng của phương thức kinh doanh đa cấp

IV.ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Đối tƣợng nghiên cứu: Sự gắn kết cộng đồng trong phương
thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
2. Khách thể nghiên cứu: Những người lao động tham gia kinh
doanh đa cấp

3. Phạm vi nghiên cứu
- Lĩnh vực nghiên cứu: Xã hội học kinh tế
- Không gian nghiên cứu:
+ Tổng công ty cổ phần Việt Am (công ty kinh doanh đa cấp)
+Tổng Công ty viễn thông quân đội VIETTEL (Công ty kinh
doanh truyền thống- để so sánh)
- Thời gian nghiên cứu: Năm 2006- 2007
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Do hạn chế về trình độ nghiên
cứu cũng như khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài của
tôi không tham vọng tìm hiểu tất cả các tác động xã hội của
nghề kinh doanh đa cấp tới người lao động (hệ giá trị, kỹ năng
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
4
sống, những phẩm chất cá nhân ) mà chỉ tìm hiểu tính gắn kết
của những người lao động với những đồng nghiệp của họ và
cộng đồng xã hội như thế nào trong tương quan so sánh với
những người làm kinh doanh theo phương thức truyền thống.
V.PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phƣơng pháp luận nghiên cứu: Đề tài lấy phép biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Marx-Enghels làm nền tảng phương pháp
luận. Từ cách đặt vấn đề đến giải quyết vấn đề nghiên cứu tác giả đều
tuân thủ các nguyên tắc:
- Xem xét các tác động xã hội của nghề kinh doanh đa cấp tới
người lao động trong mối quan hệ gắn bó qua lại chặt chẽ với
các nhân tố kinh tế- xã hội khác như điều kiện sống, văn hoá,
tuổi tác
- Phân tích các tác động xã hội của nghề kinh doanh đa cấp
trong xu thế vận động và không ngừng biến đổi, đặc biệt trong
điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hoá.

- Đánh giá các tác động xã hội của nghề kinh doanh đa cấp trong
điều kiện lịch sử- cụ thể hiện nay của nước ta, đó là nền kinh tế
nhiều thành phần nhưng chưa có sự vận hành thực sự tuân thủ
các quy luật kinh tế, nghề kinh doanh đa cấp mới xuất hiện ở
Việt nam và phải đối mặt với nhiều luồng dư luận khác nhau
- Tác giả luôn cố gắng tìm hiểu những tác động thực sự, bản
chất của nghề kinh doanh đa cấp tới người lao động chứ không
phải chỉ là những tác động đơn lẻ, tạm thời, rời rạc.
2.Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp trưng cầu ý kiến: Trưng cầu ý kiến của 250
người làm trong nghề kinh doanh đa cấp và 100 người trong
nghề kinh doanh truyền thống. Tổng cộng phát vấn 350 phiếu
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
5
hỏi theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên sác xuất. Tổng số
phiếu thu về và xử lý được là 292 phiếu.
- Phương pháp quan sát tham dự và không tham dự: Quan sát
được tiến hành trong khi phát hiện vấn đề nghiên cứu, lý giải
vấn đề nghiên cứu và phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả dành nhiều công sức
nghiên cứu các tài liệu liên quan đến xã hội học kinh tế, các lý
thuyết xã hội học và đặc biệt là các tài liệu liên quan đến kinh
doanh đa cấp, các tài liệu phản ánh hoạt động kinh doanh của
tổng công ty cổ phần Việt Am
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu 10 người, trong
đó có 7 người làm kinh doanh đa cấp và 3 người làm kinh
doanh truyền thống.
- Thảo luận nhóm tập trung: Thực hiện với 1 nhóm kinh doanh
đa cấp, một nhóm kinh doanh truyền thống.


VI.GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
- Giả thuyết 1: Sự gắn kết cộng đồng trong hoạt động nghề
nghiệp của những người lao động trong phương thức kinh
doanh đa cấp cao hơn so với những nguời lao động trong
phương thức kinh doanh truyền thống.
- Giả thuyết 2: Sự gắn kết cộng đồng trong đời sống của những
người lao động trong phương thức kinh doanh đa cấp cao hơn
so với những nguời lao động trong phương thức kinh doanh
truyền thống.
- Giả thuyết 3: Những người tham gia kinh doanh đa cấp có sự
gắn bó với cộng đồng xã hội xung quanh cao hơn những người
tham gia kinh doanh truyền thống.
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
6
- Giả thuyết 4: Sự chia sẻ quyền lợi của mô hình kinh doanh đa
cấp là nguyên nhân chính tác động đến tính gắn kết cộng đồng
của những người tham gia.


VII.KHUNG LÝ THUYẾT:



















Điều kiện kinh tế-
xã hội
DOANH NGHIỆP KINH
DOANH ĐA CẤP
Mô hình kinh doanh
Tổ chức lao động
Quan hệ lao động
Gắn kết trong đời
sống
Gắn kết với gia đình
và xã hội
Gắn kết trong hoạt
động nghề nghiệp
Sự gắn kết
cộng đồng
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
7
VIII. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm có 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết

luận. Phần mở đầu gồm có 8 mục nhỏ trình bày tính cấp thiết của đề tài
nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, mục đích nhiệm vụ
nghiên cứu, đối tượng khách thể nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giả
thuyết nghiên cứu, khung lý thuyết. Phần nội dung gồm có 2 chương:
Chương 1 là cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. Chương 2
trình bày những kết quả nghiên cứu chính thông qua 4 tiểu mục:1. Sự gắn
kết cộng đồng trong hoạt động nghề nghiệp; 2. Sự gắn kết cộng đồng trong
đời sống; 3. Sự gắn kết với gia đình và xã hội; 4. Những nguyên nhân chính
tác động đến sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp.
Trong phần kết luận, tác giả nêu những kết luận chính của đề tài và đề xuất
khuyến nghị.



Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

I. VÀI NÉT VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Công trình xã hội học Macxit nền tảng nghiên cứu về lĩnh vực này là
cuốn “Tình trạng của giai cấp công nhân Anh” của Enghels xuất bản năm
1846. Ông đã sử dụng những phương pháp đặc trưng của xã hội học hiện
đại như quan sát, phỏng vấn bằng bảng hỏi, thống kê, phân tích văn bản, so
sánh và phán đoán logic. Dựa trên kết quả nghiên cứu thu được, ông đưa ra
kết luận: giai cấp công nhân “chỉ có thể thông qua cuộc cách mạng xã hội
mới nắm được sứ mệnh và tiền đồ của mình”.
Trong xã hội học hiện đại, Blauner (1964) đã tiến hành nhiều cuộc
nghiên cứu về tác động của các ngành nghề khác nhau trong xã hội công

nghiệp tới người lao động. Ông thừa nhận ảnh hưởng của 3 biến số khác
nhau tới mức độ tha hoá của người công nhân: sự phân công lao động, sự tổ
chức xã hội của công nghiệp, và cấu trúc kinh tế mà trong đó nó hoạt động,
tuy nhiên ông vẫn nhấn mạnh hơn cả vai trò của yếu tố kỹ thuật. Ông đã
tiến hành các nghiên cứu trong ngành in ấn, dệt, chế tạo ô tô, công nghiệp
hoá học và có những phân tích sắc sảo về những tác động khác nhau của
kỹ thuật tới người lao động dựa trên 4 mặt của sự tha hoá : sự bất lực, sự vô
nghĩa, sự cô lập và sự tự mình làm cho xa lạ. Chẳng hạn, đối với ngành in
ấn, ông cho rằng mức độ tha hoá của ngành in ấn là thấp vì:
- Kỹ thuật thủ công của công nhân cho phép họ tiếp cận với những
kỹ năng truyền thống và những trình độ tương đối cao về kiểm soát đối với
công cụ và kỹ thuật. Các kỹ năng cần thiết để tạo ra sản phẩm chất lượng
cao có nghĩa rằng thợ in có sự kiểm soát đáng kể đối với mỗi bước đi, chất
lượng và số lượng của lao động của họ và phải được tự do di chuyển quanh
xưởng in. Do đó mà sự bất lực trong quá trình lao động không đáng kể.
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
9
- Sự vô nghĩa bị giảm bớt vì sự đào tạo nghề nghiệp rộng lớn cho
phép các thợ in đánh giá được sự cống hiến của họ vào quá trình sản xuất.
- Sự cô lập xã hội thấp vì sự tự do vận động cho phép có tình bè bạn
trong quá trình lao động, và bản thân lao động tự nó mang tải sự tôn trọng
và địa vị, cả ở nơi lao động và ở cộng đồng rộng lớn. Hơn nữa, bản chất
tỉnh nhỏ của nền công nghiệp có nghĩa rằng người công nhân chia sẻ quan
hệ họ hàng chung và những quan hệ tôn giáo chung, và họ đã nhân hoá các
mối quan hệ với giới quản lý, nó giúp liên kết họ vào nhà máy.
- Tương tự, sự tự thân làm mình xa lạ cũng không cao như người ta
tưởng. Người công nhân không trông đợi sự đa dạng hoặc hứng thú trong
công việc nên không coi các công việc lặp đi lặp lại là đơn điệu.
Ngược lại với ngành in ấn, ngành lắp ráp động cơ là ngành được

Blauner đánh giá là điển hình làm nảy sinh sự tha hoá. Sự chao đảo trong
chu kỳ doanh nghiệp khiến người công nhân cảm thấy bất lực. Sự vô nghĩa
được khuyến khích bởi sự tiêu chuẩn hoá sản phẩm và sự phân nhỏ cao độ
của các công việc lao động. Sự cô lập cũng cao vì tốc độ làm việc dây
chuyền và những sự chia cách người công nhân này với người khác, ngăn
trở sự chuyện trò và thiết lập các mối quan hệ riêng. Các công nhân lắp ráp
ô tô có thể thấy công việc của họ là buồn chán, đơn điệu, bản thân lao động
không cung cấp một nguồn thoả mãn nào mà chỉ là một cái tai hại cần thiết
và một nguồn thu nhập
Ở Việt Nam, xã hội học kinh tế thường tập trung nghiên cứu vào các
vấn đề như đào tạo việc làm, định hướng nghề nghiệp, sự chuyển đổi cơ
cấu kinh tế…Trong những năm gần đây có một số công trình như Các quan
hệ xã hội trong xí nghiệp của công nhân công nghiệp của tác giả Tôn Thiện
Chiếu (1995), đề tài cấp Bộ Các quan hệ sản xuất của công nhân công
nghiệp (1995). Tập trung vào hệ quả phân tầng mức sống, tác giả Đỗ Thiên
Kính có 2 công trình đáng chú ý là Tác động của sự chuyển đổi cơ cấu lao
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
10
động- nghề nghiệp xã hội đến phân tầng mức sống qua khảo sát mẫu 3 xã
vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng (1998) và Tác động của chuyển đổi
cơ cấu lao động nghề nghiệp xã hội đến phân tầng mức sống (1999). Năm
2003 hai nhà nghiên cứu Song Hà và Trần Anh Châu đồng chủ biên cuốn
Tính tích cực nghề nghiệp của công chức- một số nhân tố ảnh hưởng đã
phân tích một số nguyên nhân tác động đến tính tích cực nghề nghiệp của
giới công chức. Những nghiên cứu xã hội học thực nghiệm ở nước ta mặt
này hay mặt khác đã phân tích, lý giải nguyên nhân, tác động xã hội của sự
phát triển, biến đổi lực lượng sản xuất cũng như các quan hệ lao động. Tuy
nhiên, nếu so với một số lĩnh vực xã hội học khác như xã hội học gia đình,
xã hội học văn hoá, xã hội học giới….thì số lượng cũng như chất lượng các

công trình nghiên cứu về xã hội học kinh tế còn hạn chế. Hơn nữa, các đề
tài thường ở cấp trung mô hoặc vĩ mô xét về đối tượng nghiên cứu. Những
nghiên cứu tác động xã hội của một loại hình nghề nghiệp cụ thể thì có rất
ít. Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu về phương thức kinh doanh
đa cấp và các tác động xã hội của nó.

II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Lý thuyết Macxit về lao động:
Nền tảng của lý thuyết Macxit về lao động là việc nhìn con người
như những sinh vật có tiềm năng sáng tạo, con người biểu đạt tính người và
tính xã hội thông qua lao động. Xem xét lao động dưới chủ nghĩa Tư bản,
Marx cho rằng người công nhân kỹ nghệ bị tha hoá mà nguồn gốc của sự
tha hoá này là cấu trúc và các quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế- triết học 1844” Marx cho rằng sự
tha hoá của con người trong nền kinh tế hàng hoá biểu hiện ở 4 mặt:
- Thứ nhất, người công nhân trong xã hội tư bản bị tách khỏi sản
phẩm lao động của họ. Con người tự đặt mình vào những hàng hoá họ sản
xuất, nhưng dưới chủ nghĩa tư bản hàng hoá không thuộc về người sản
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
11
xuất, nó bị chiếm đoạt, bán để lấy lời và thậm chí dùng để thống trị người
sản xuất ra nó.
- Thứ 2, trong điều kiện sản phẩm làm ra trở thành đối lập với người
sản xuất ra sản phẩm, quá trình sản xuất trở nên bị phân mảnh, lao động trở
thành một việc vặt không hứng thú, vô nghĩa. Người lao động bị tha hoá
khỏi hành vi lao động của mình. Lao động vốn là bản chất của con người
lại chỉ là phương tiện đi tới mục đích hơn là mục đích tự thân.
- Thứ 3, trong xã hội mà cạnh tranh là nhân tố quan trọng nhất để tồn
tại, con người trở nên bị xa lạ với những người khác, cũng như các mối

quan hệ bị chi phối bởi thị trường. Do đó mà bản chất hợp tác vốn giúp con
người liên kết với nhau thành xã hội cũng bị tha hoá. Trong công việc con
người bị quy bại, chống lại nhau.
- Thứ 4, con người bị xa lạ với “loài” bởi vì lao động chân tay không
được chú ý tới và không được sáng tạo. Các quan hệ sản xuất tư bản tách
rời dự định và kế hoạch (lao động tinh thần) khỏi lao động chân tay nhàm
chán, và hạ lao động chân tay xuống mức lao động thú vật, vô nhân.
Cần nhấn mạnh rằng Marx không phải là người phê phán sự tiến bộ
kỹ thuật hoặc máy móc. Ông không phản đối máy móc mà phản đối cung
cách nó bị sử dụng trong chế độ tư bản. Như vậy, Marx cho rằng bản chất
lao động trong các xã hội tư bản- sự phân mảnh, sự phân công lao động
chuyên môn hoá, bó hẹp công nhân vào những mặt bó hẹp của sản xuất -
đang tha hoá. Nhưng trừ những điều kiện thể xác và kỹ thuật của lao
động, sự tha hoá cũng bắt nguồn từ sự tổ chức hoạt động sản xuất theo
một ý nghĩa rộng lớn hơn. Các mối quan hệ về sản xuất được thiết lập
dưới chế độ tư bản có nghĩa rằng người công nhân không được quyền
kiểm soát những gì được sản xuất và tại sao nó lại được sản xuất. Lao
động được tổ chức vì lợi nhuận hơn là làm thoả mãn các nhu cầu được
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
12
quyết định một cách tập thể. Sức lao động trở thành một hàng hoá như bất
cứ một hàng hoá nào khác.
Phát triển hướng nghiên cứu của Marx trong xã hội công nghiệp hiện
đại, Blauner (1964) cố gắng định nghĩa sự tha hoá một cách phổ quát và
mang tính chủ thể nhiều hơn. Ông xác định 4 mặt của sự tha hoá: sự bất
lực, tính vô nghĩa, sự cô lập và sự tự mình làm cho xa lạ.
Cá nhân bị bất lực khi họ không thể kiểm tra hành động hoặc điều
kiện sinh sống của chính họ.
Sự vô nghĩa xảy đến khi sự chuyên môn hoá và quan liêu hoá công

việc giảm bớt sự liên lạc hữu cơ của công nhân với quá trình lao động và
họ trải qua sự khó khăn khi xác định vị trí phần đóng góp của họ vào đó.
Sự cô lập nổi lên khi người công nhân không cảm thấy chút nào
mình thuộc vào tình huống lao động và không có khả năng hoặc không
muốn đồng nhất với tổ chức và những mục đích của nó.
Mặt cuối cùng, tự làm cho mình xa lạ, nhấn mạnh đến kinh nghiệm
chủ quan của lao động.
Khác với Marx, Blauner nhấn mạnh chính bản thân kỹ thuật, hơn là
các mối quan hệ xã hội về sản xuất bên trong một nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, là “nguyên nhân” của sự tha hoá. Do đó, không phải các công nhân
bị tha hoá ngang nhau vì họ phải chịu các kỹ thuật khác nhau.
Lý thuyết về sự tha hoá cung cấp cho tôi nền tảng lý thuyết quan
trọng, đó là:
- Chính lao động tạo ra con người, con người bộc lộ mình qua
lao động.
- Các yếu tố của quá trình lao động như sự tổ chức lao động, quan hệ
lao động và kỹ thuật được sử dụng trong lao động là những nguyên nhân cơ
bản tác động đến sự thoả mãn hay không thoả mãn của người lao động, hay
quy định sự “tha hoá” của người lao động. Nói rộng ra nó tác động đến quá
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
13
trình con người vươn tới sự phát triển hoàn thiện theo nghĩa nhân đạo và
nhân văn nhất.
Mặc dù những luận điểm của lý thuyết trên dựa trên sự phân tích và
đánh giá xã hội tư bản, nhưng tôi cho rằng nó có ý nghĩa phổ quát cho một
phương thức sản xuất- nói theo cách nói của Marx. Có nghĩa là ở nước ta,
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, những mặt của “tha hoá” dù ít dù
nhiều đều có bộc lộ. Nó đòi hỏi sự nghiên cứu và đánh giá về các mô hình
sản xuất, kinh doanh sao cho người lao động được thoả mãn không chỉ nhu

cầu vật chất mà cả những nhu cầu chân chính về tinh thần.

2. Quan điểm xã hội học về cộng đồng của J.H.Fichter
Cũng như nhiều nhà xã hội học chú trọng tới những biến chuyển lịch
sử rộng lớn, Fichter cố gắng giải thích những vấn đề căn bản của đời sống
hiện đại như một sự chuyển dịch từ một loại tổ chức xã hội tổng quát này
sang một loại khác, với nhãn quan phổ quát là chúng ta đang chịu một hiện
tượng mất tinh thần cộng đồng sâu xa.
Theo Fichter, khái niệm cộng đồng bao gồm 4 yếu tố:
a. Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan
này đôi khi được gọi là tương quan đệ nhất đẳng, tương quan mặt đối mặt,
tương quan thân mật
b. Có sự liên hệ về cảm xúc và tình cảm nơi cá nhân trong những
nhiệm vụ và công tác xã hội của tập thể
c. Có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với những giá trị được
tập thể coi là cao cả và có ý nghĩa
d. Một ý thức đoàn kết với những người trong tập thể
Rõ ràng Fichter nhìn nhận rõ khái niệm cộng đồng là “một vấn đề tổ
chức toàn bộ”, nhưng ông đặc biệt chú trọng đến cách thức con người xã
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
14
hội có tương quan với cơ cấu xã hội rộng lớn hơn. Theo ông, để hiểu ý
nghĩa xã hội của cộng đồng cần xét ba lĩnh vực: đoàn kết xã hội, tương
quan xã hội và cơ cấu xã hội.
- Đoàn kết xã hội: Đây chính là ý thức cộng đồng, được quan niệm
như một cảm tưởng sống tụ họp với nhau, là một mục tiêu thích đáng mà
những tập thể xã hội cố gắng để thành tựu và duy trì. Nhiều danh từ khác
có thể dùng đồng nghĩa, như sự kết hợp xã hội, sự hoà hợp, tinh thần đồng
đội, sự đồng tình thoả thuận…để chỉ một thứ thái độ lý tưởng liên kết và

hợp nhất con người với nhau.
Fichter đồng tình với các nhà xã hội học cho rằng con người vì muốn
giải trừ thất vọng, lo lắng, bất an và cô độc nên đã cố gắng để đạt tới mục
đích của cộng đồng. Điều này không khác gì là sự tự do đã làm cho con
người hiện đại sợ hãi, chủ nghĩa cá nhân đã làm cho con người xa lìa bạn
bè, sự độc lập đã huỷ diệt an ninh của con người trong xã hội. Tình trạng
bất an xã hội tổng quát này, cảm tưởng bị cô đơn trong đám dân chúng
đang gia tăng, có thể chữa được bằng cách thức phát triển ý thức cộng
đồng.
Sự suy giảm ý thức cộng đồng hay đoàn kết xã hội được diễn tả qua
cảm tưởng ngỡ ngàng và xa lạ chính là một đề tài suy tưởng của tất cả các
nhà xã hội học, có nhà xã hội học gọi đó là hiện tượng “làm vụn” xã hội mà
nguyên nhân chính là do chủ nghĩa cá nhân mà ra. Tình trạng này cũng một
phần do tính cách quá lớn, quá xa cách và vô danh của cơ cấu xã hội. Nó
dẫn tới hậu quả là: sự mất ý thức đoàn kết xã hội đi kèm theo luôn sự mất ý
thức nhân cách cá nhân. Đồng nhất với cộng đồng hay đoàn kết xã hội
được coi là làm gia tăng ý thức về nhân cách cá nhân, và rất khó có thể hiêủ
sự hợp lý của tình trạng tự cô lập coi như một cách giải trừ hay một giải
pháp cho vấn đề thiếu cộng đồng.
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
15
- Tương quan cộng đồng: Cộng đồng, coi như một diễn tiến xã hội,
là một hình thức tương quan nhân sự có tính cách kết hợp hay một phản
ứng hỗ tương theo đó con người được xáp lại gần nhau và phối hợp chặt
chẽ với nhau hơn. Đó không phải chỉ là một thái độ hay một lý tưởng về
đoàn kết, đó là sự đoàn kết được thực hành ngay trong phạm vi tác phong
con người trong đời sống hàng ngày.
Theo Fichter, trên quan điểm cộng đồng, đặc điểm của tương quan
xã hội hội nhập chính là mức độ hợp tác tích cực của cá nhân trong tất cả

những đoàn thể chủ yếu mà y tham gia. Nói theo kiểu số lượng thì tổng số
những tương quan hợp tác gia tăng trong những xã hội rộng lớn hơn. Cộng
đổng hiểu như một diễn tiến xã hội đi kèm theo cộng đồng coi như một ý
thức về tự nguyện đoàn kết xã hội.
- Những cơ cấu cộng đồng: Phần lớn mọi người xem xét cộng đồng
như một cơ cấu xã hội. Ở đây cộng đồng là chỉ một đoàn thể con người có
những khuôn mẫu tác phong, những tương quan xã hội và vai trò được tổ
chức thành cơ cấu. Ngoài tinh thần đoàn kết và sự thể hiện sự hợp tác xã
hội, cộng đồng còn có đặc điểm là vị trí của nó. Đó là một đoàn thể con
người chiếm đóng một vùng đất đai.
Fichter nhấn mạnh 3 phương diện nghiên cứu về cộng đồng nói trên
không phải luôn luôn bổ túc cho nhau, và điều này đặc biệt đúng trong
trường hợp cộng đồng coi như một cơ cấu xã hội. Không một nhà xã hội
học nào lại cho rằng loại đoàn kết xã hội mà ta thấy tại thôn xã toàn diện có
thể cũng xuất hiện tại đô thị toàn diện. Chúng ta chỉ có thể phân biệt cơ cấu
xã hội thôn xã với thành thị một cách độc đoán mà thôi.
Có thể thấy trong lý thuyết của Fichter về cộng đồng, ông bày tỏ
nhiều băn khoăn khi xác định “cộng đồng” tại các đô thị. Fichter hướng đối
tượng khái niệm cộng đồng về những cấu trúc xã hội là các cộng đồng
nông thôn điển hình. Tuy vậy, trong tư duy của ông chúng tôi thấy cái mà
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
16
Fichter hướng đến là cộng đồng theo nghĩa cộng đồng tính chứ không phải
chỉ là cộng đồng thể. Điều này làm cho lý thuyết của ông có tính mở và
tính phổ quát. Ông có viết: “ Tuy nhiên, về mặt nào đó, danh từ “cộng
đồng” vẫn còn áp dụng cho những vùng hàng xốm láng giềng tại các thành
thị cổ xưa, nơi đó những con người vẫn còn có những quy chế về sắc tộc,
kinh tế và giáo dục tương tự nhau và vẫn sinh sống chung với nhau từ lâu
đời. Những khu vực ngoại ô hiện đại là những khu xóm giềng mới hơn

thường cố gắng tạo tinh thần cộng đồng trong dân chúng, và trong một vài
trường hợp những khu xóm giềng này cũng lại được mô tả về phương diện
chuyên môn như là những cộng đồng” [6; 84]
Về nguyên nhân xuất hiện các cộng đồng, Fichter đề cập đến các
nguyên nhân cơ bản là : kinh tế, yêú tố “sắc dân” và yếu tố “tôn giáo”.
Để hiểu hơn khái niệm cộng đồng trong lý luận của Fichter, phải đặt
nó trong khái niệm “đoàn thể” với ý nghĩa là “những con người trong mối
tương quan hỗ tương”. Cộng đồng được ông gọi là “đoàn thể đệ nhất đẳng”
trong tương quan đối lập với “”đoàn thể đệ nhị đẳng” (hội đoàn). Sự khác
biệt chính yếu giữa cộng đồng và hội đoàn là ở thể thức thông đạt và tương
quan hỗ tương giữa những người trong đoàn thể. Khi những tương quan xã
hội có tính cách thân thiết, riêng tư, mặt đối mặt và thường có thì đó là
những đặc tính của đoàn thể đệ nhất đẳng (cộng đồng). Những tương quan
xã hội của hội đoàn thì ở một mức độ khác, nghĩa là tương đối không riêng
tư, tôn trọng hình thức hơn, ít thường có hơn. Fichter quả thật rất tinh tế khi
khẳng định “chỉ cần đảo ngược lại những chữ dùng cho một xã hội loại đệ
nhất đẳng là chúng ta sẽ có thể mô tả được một cách thô sơ loại xã hội đệ
nhị đẳng”, đồng thời lại phân tích: “Muốn xếp một đoàn thể vào một trong
hai loại trên, người ta chú trọng đến sự xuất hiện từng phần của một số đặc
tính. Đó là những “tiêu thức” theo nghĩa là chúng đại diện cho hai cực điểm
của một dây liên tục các đoàn thể. Nếu tất cả những đoàn thể của một xã
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
17
hội được xếp thành một dây liên tục thì một số đoàn thể sẽ đứng ở vị trí
chuyển tiếp vừa có một số đặc tính của các đoàn thể đệ nhất đẳng và của
các đoàn thể đệ nhị đẳng” [6; 75]
Người nghiên cứu rất tâm đắc với cách tiếp cận bản chất cộng đồng
của Fichter khi ông viết: “Nếu cho rằng chỉ có gia đình và những nhóm giải
trí mới có thể là những đoàn thể đệ nhất đẳng thì thực là một điều sai lầm.

Sở dĩ có như vậy là vì trong sách xã hội học người ta thường chỉ kể đến gia
đình và nhóm giải trí làm thí dụ về đoàn thể đệ nhất đẳng mà thôi. Tuy
nhiên, như trong phần lớn các phân loại xã hội, sự thực là không có ranh
giới rõ rệt giữa đoàn thể đệ nhất đẳng và đệ nhị đẳng trong mỗi trường hợp
riêng biệt. Một số đoàn thể đệ nhất đẳng có thể trong tình trạng đang buông
thả để biến thành những hội đoàn đệ nhị đẳng, một số đoàn thể đệ nhị đẳng
thì lại có thể đang đi vào con đường tổ chức chặt chẽ hơn, giới hạn số hội
viên, phát triển những tương quan nhân sự thuộc loại đệ nhất đẳng” [6; 77].
Ông còn lấy ví dụ cụ thể: “Trong tương quan kinh tế, con người ta hợp tác
với người này chặt chẽ hơn với những người khác, trường hợp hợp tác thứ
nhất là đệ nhất đẳng và trường hợp thứ hai là đệ nhị đẳng” [6; 77]
Lý thuyết của J.H. Fichter về cộng đồng tạo cho người nghiên cứu
nền tảng để đặt vấn đề gắn kết cộng đồng trong nhóm nghề nghiệp, cụ thể ở
đây là nhóm những người cùng tham gia trong hệ thống phân phối theo
phương thức kinh doanh đa cấp. Với cách tiếp cận cộng đồng theo ý nghĩa
cộng đồng tính, tác giả tìm thấy sự gặp gỡ giữa Fichter và F.Tonnies coi
cộng đồng tính là một đặc tính được xét trên những quan điểm của giá trị
luận, là những giá trị tốt đẹp của quan hệ giữa người và người. Toàn bộ
cộng trình nghiên cứu là nỗ lực cụ thể hoá những biểu hiện của tính cộng
đồng nhằm đo đạc đối tượng nghiên cứu theo các chỉ báo.

Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
18
3“Triết lý đồng tiền” của G. Simmel
Ngay từ năm 1889 Simmel đã trình bày một số ý tưởng cơ bản trong
một bàii báo nhan đề “Tâm lý của đồng tiền”, sau đó năm 1907 ý tưởng
được trình bày rõ ràng hơn trong tác phẩm “Triết lý đồng tiền”. Simmel
khẳng định tiền bạc là một trong những công cụ xã hội cơ bản vì nó được
phổ biến và con người có thể dùng nó bằng nhiều cách để tác động tới môi

trường nhằm đạt được mục tiêu của mình. Thực tế đó có nghĩa là đồng tiền
có thể liên kết một cách hữu hình hoặc vô hình nhiều sự kiện và cá nhân lại
với nhau, kể cả những người tưởng chừng không liên quan. Ông cũng nêu ra
những hệ quả chủ yếu mà đồng tiền tác động tới các quan hệ xã hội như sau:
- Đồng tiền làm gia tăng mức độ, tần suất của các mối tương tác
và góp phần làm cho xã hội phát triển. Việc sử dụng đồng tiền
tạo điều kiện cho các cá nhân trong xã hội có những liên kết
rộng lớn hơn, khoảng cách về địa lý và không gian không còn
là trở ngại nữa. Đồng tiền tạo cho con người các mục tiêu và
cơ hội trao đổi về nhiều phương diện và các loại sản phẩm, bởi
vì thông qua tiền tệ các giá trị riêng và các yếu tố khách quan
của quan hệ xã hội đều có thể dễ dàng tính toán. Kết quả là nó
có thể tạo ra khả năng liên kết không biên giới trong các quan
hệ xã hội.
- Đồng tiền cũng tạo ra những mối ràng buộc xã hội đa dạng
hữu hình hoặc vô hình. Với đồng tiền, con người có thể tham
gia vào nhiều nhóm xã hội khác nhau thay vì chỉ thiết lập một
số mối quan hệ nhất định; dựa trên yếu tố đó mà các quan hệ
xã hội của con người từng bước được hình thành và mở rộng
không hạn chế, không giới hạn cả ở bề rộng và bề sâu.
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
19
- Tiền tệ mở rộng hơn phạm vi của tổ chức xã hội. Với đồng
tiền, con người có thể trở nên mật thiết hơn trông qua các liên
kết trực tiếp và gián tiếp. Các cá nhân có thể là những người
chưa bao giờ gặp nhau- như một công nhân công ty và người
tiêu dùng hàng hoá sản xuất trong công ty- có thể liên quan
một cách gián tiếp trong một chuỗi trao đổi thông qua đồng
tiền.

- Đồng tiền cũng góp phần tạo nên tính cố kết xã hội. Đồng tiền
có thể được coi là đại diện cho một niềm tin. Khi có tiền, mỗi
cá nhân đều tin rằng họ có thể mua được hàng hoá hay các loại
dịch vụ khác. Niềm tin tuyệt đối này trong một chừng mực
nhất định đã đáp ứng các nhu cầu trong việc củng cố sự tin cậy
và gắn kết của con người đối với xã hội.
- Bên cạnh những yếu tố tích cực, đồng tiền cũng có thể tạo nên
những mặt trái trong các quan hệ xã hội. Khi các tương tác xã
hội trở nên phức tạp thì đồng tiền có khả năng tạo nên những
nhiễu loạn nhất định, nói như Durkheim là làm tăng tình trạng
vô tổ chức trong các mối quan hệ.
Những phân tích của Durkheim trong “Triết lý đồng tiền” có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển mình mạnh mẽ ở
nước ta hiện nay. Nó giúp người nghiên cứu phần nào sáng tỏ hơn vấn đề
đặt ra. Bởi lẽ kinh doanh đa cấp không chỉ là một phương thức phân công
lao động mới, một hình thức phân phối sản phẩm mới mà nó còn là một
chu trình luân chuyển mới và khá thú vị của đồng tiền. Trên thực tế các mặt
này gắn bó chặt chẽ với nhau và tác động qua lại với nhau.

III. CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
20
1. Kinh doanh đa cấp/ kinh doanh theo mạng: Khái niệm kinh
doanh theo mạng không được ghi nhận trong bất kỳ một cuốn từ điển
thương mại chuẩn mực nào. Chính các nhà kinh doanh theo mạng còn chưa
đi đến thống nhất khái niệm này là như thế nào. Tôi xin trích dẫn định
nghĩa của Richard Poe:
“Kinh doanh theo mạng là bất kỳ một phương pháp kinh doanh nào
mà cho phép một cá thể kinh doanh độc lập tiếp nhận vào công việc của

mình các cá thể kinh doanh khác và lấy ra được các khoản tiền hoa hồng từ
các công việc kinh doanh của các cá thể mà họ thu hút được” [16; 6]
Theo nghị định 110/CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của chính phủ thì:
“Bán hàng đa cấp là một phương thức tổ chức kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua nhiều cấp khác nhau, trong đó người tham gia sẽ được
hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng và/hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả
bán hàng hoá của mình và của người khác trong mạng lưới do người đó tổ
chức ra và được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp nhận”
Như vậy kinh doanh đa cấp tạo ra khả năng huy động rộng rãi và
mạnh mẽ nhiều nguồn lực xã hội tham gia.
2. Kinh doanh truyền thống: Tôi dùng từ này với hàm nghĩa chỉ
một phương thức kinh doanh phổ biến thông thường của doanh nghiệp,
đó là kiểu tổ chức đơn cấp trong đó người tham gia chỉ được hưởng
lương hoặc lợi ích kinh tế trực tiếp từ chính kết quả kinh doanh hoặc bán
hàng của mình.

3. Cộng đồng: Đây là một trong những khái niệm cơ bản nhất của
xã hội học và được nhiều nhà xã hội học lớn bàn đến trong suốt chiều dài
phát triển của xã hội học như F. Tonnies, Durkheim, F. Giddens,
H.Becker…Nhìn chung, chúng ta có hai cách hiểu về cộng đồng: một là
cộng đồng tính và hai là cộng đồng thể, đó là hai cái tuy khác nhau nhưng
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
21
không phải đối lập nhau. Cộng đồng tính là thuộc tính hay là quan hệ xã
hội có những đặc trưng mà các nhà xã hội học đã cố gắng xác định và cụ
thể hoá, chẳng hạn như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức
cộng đồng…Cộng đồng thể tức là những nhóm người, những nhóm xã hội
có tính cộng đồng với rất nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể
nhỏ, thể vừa, thể lớn và thể cực lớn, kể từ gia đình đến quốc gia và nhân

loại. Do đó, chúng ta thường phải rất thận trọng khi dùng khái niệm này.
Thông thường các nhà khoa học chọn một khái niệm làm việc với một số
đặc trưng nào đấy.
Nhìn chung cộng đồng có thể hiểu là “hình thức chung sống trên cơ
sở sự gần gũi của các thành viên về mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc
biệt mật thiết được chính họ tìm kiếm và vì thế được con người cảm thấy
có tính cội nguồn…nó mô tả những hình thức quan hệ và quan niệm trật tự,
không xuất phát từ những tính toán lợi ích có tính riêng lẻ và được thoả
thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới một sự thống nhất về tinh thần-
tâm linh” [5; 98]. Như vậy trong luận văn này, người nghiên cứu tiếp cận
khái niệm cộng đồng theo đặc trưng cộng đồng tính chứ không phải cộng
đồng thể.

IV. ĐỊA ĐIỂM KHẢO SÁT VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỐI TƢỢNG
NGHIÊN CỨU

1. Kinh doanh đa cấp là gì và hoạt động nhƣ thế nào?
Nguyên tắc hoạt động của kinh doanh đa cấp được thể hiện ngay
trong tên gọi của nó. Nó có nghĩa là một hoạt động gồm nhiều tầng, được
xây dựng nhằm lưu hành hàng hoá từ điểm sản xuất đến người tiêu dùng
qua những mối giao tiếp giữa mọi người với nhau.
Tiền hoa hồng được chia cho tất cả các tầng. Trong buôn bán bình
thường người ta làm việc cả ngày trong cửa hàng rồi lĩnh số tiền thù lao là
Sự gắn kết cộng đồng trong phương thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Luận văn thạc sĩ - Cao Thị Kim Ngân
22
một phần trong tổng số tiền lãi của công ty. Trong kinh doanh nhiều tầng
thì không phải như vậy, việc phân phối sản phẩm đã làm hấp dẫn rất nhiều
người. Và cách trả thù lao cũng khác.
Những công ty hoạt động theo sơ đồ này chỉ có thể tăng thu nhập

cho mình nhờ việc thu hút khối lượng lớn mọi người vào công việc. Đây là
điều kiện bắt buộc. Những công ty kinh doanh đa cấp có thể tránh khỏi một
số chi phí, vì họ không phải thuê cửa hàng, đặt quảng cáo, thuê những
chuyên gia giỏi để quản lý hoạt động. Trong ngành kinh doanh này mọi
người hoạt động như những doanh nhân tự do, việc lưu hành và bán sản
phẩm được tiến triển do mỗi người trong cuộc đều có lợi.
2. Ý tƣởng kinh doanh đa cấp ra đời từ bao giờ?
Chúng ta không thể xác định được ngày tháng, nhưng ý tưởng phân
phối hàng hoá và dịch vụ qua một tổ chức nhiều tầng do những người bình
thường thực hiện chứ không phải là do những người bán hàng trong các
cửa hàng bán lẻ, đã nảy sinh vào khoảng 50 năm về trước. Sự ra đời của
máy tính điện tử cũng đã tạo điều kiện phát triển cho ý tưởng này. Kinh
doanh theo mạng ra đời đầu tiên và phổ biến ở Bắc Mỹ, sau đó không lâu
đã lan truyền ra khắp mọi nơi trên thế giới.

3. Thực trạng kinh doanh đa cấp hiện nay ở nƣớc ta ra sao?
Một vài năm trở lại đây, một số tập đoàn kinh doanh theo mạng lớn của
thế giới đã xâm nhập vào thị trường Việt nam. Nhiều công ty kinh doanh
theo mạng ra đời, nổi bật như công ty Vision, Sinh Lợi, Oriflame,
Avon Hiện nay trên thị trường nước ta có khoảng trên 30 công ty kinh
doanh đa cấp đang hoạt động. Do tính chất mới mẻ của cách thức phân
phối sản phẩm, các công ty này đã từng bị quy kết trách nhiệm luật pháp
như tổ chức bán hàng theo hình tháp ảo, lừa đảo Tuy nhiên, tháng 7 năm
2005, Chính phủ đã ban hành nghị định về giám sát hoạt động bán hàng đa

×