Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HÀNH VI TỔ CHỨC PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC ĐỘNG VIÊN SINH VIÊN HỌC TẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.43 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN MÔN: HÀNH VI TỔ CHỨC
ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
ĐỘNG VIÊN SINH VIÊN HỌC TẬP
LỚP: QTKD – VB2 – TỐI THỨ 2
GVHD: ThS. NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
SVTH: NHÓM 12
THÂN THỊ MỸ LINH STT: 36
NGUYỄN QUANG MINH STT: 45
VÕ THỊ THANH VÂN STT: 104
Tp. Hồ Chí Minh 09/2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN MÔN: HÀNH VI TỔ CHỨC
ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
ĐỘNG VIÊN SINH VIÊN HỌC TẬP
LỚP: QTKD – VB2 – TỐI THỨ 2
GVHD: ThS. NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
SVTH: NHÓM 12
THÂN THỊ MỸ LINH STT: 36
NGUYỄN QUANG MINH STT: 45
VÕ THỊ THANH VÂN STT: 104
Tp. Hồ Chí Minh 09/2014
2
PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
ĐỘNG VIÊN SINH VIÊN HỌC TẬP


Nhóm 12 – Lớp tối thứ 2
3
MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề 4
2. Mục tiêu nghiên cứu 5
3. Phạm vị, phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu 6
3.3. Câu hỏi nghiên cứu 6
3.4. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu 6
4. Kết cấu nội dung nghiên cứu
4.1. Yếu tố liên quan do môi trường bên ngoài 7
4.2. Yếu tố liên quan do cá nhân 11
4.3. Bảng câu hỏi nghiên cứu
4.3.1 Bảng câu hỏi nghiên cứu định tính 14
4.3.2 Bảng câu hỏi nghiên cứu định lượng 16
5. Ý nghĩa đề tài 17
Tài liệu tham khảo 17
3
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Động viên là một quá trình cố gắng hết mình để đạt mục tiêu của tổ chức trong điều
kiện một số nhu cầu được thỏa mãn. Động viên là kết quả của sự tương tác giữa cá nhân và
tình huống, cần chú ý đến sự khác biệt giữa các cá nhân và sự khác biệt trong một cá nhân
trong các thời điểm khác nhau. Để động viên sinh viên học tập chúng ta phải xác định các nhu
cầu và lợi ích của việc học tập, từ đó đề ra phương hướng giúp cho sinh viên đạt được các các
nhu cầu, lợi ích đó.
Thái độ là sự đánh giá tích cực hay tiêu cực đối với một đối tượng, con người hay một
tình huống cụ thể mà chúng ta cảm nhận được và có hành vi đối với chúng theo cách tích cực
hoặc tiêu cực tương ứng (Ajzen and Fishbein, 1980). Thái độ học tập của người học dựa vào
khả năng tự học và sự sẵn sàng cho việc học. Thái độ học tập biểu hiện ra bên ngoài bằng

những hoạt động tích cực hoặc tiêu cực đối với môn học. Tính tích cực, tự giác, niềm say mê
trong học tập, nghiên cứu là yếu tố góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học (Nguyễn
Thị Chi và cộng sự, 2010). Nếu người học có thái độ tiêu cực đối với việc học, họ không thể
tiếp tục và đạt được những yêu cầu cần thiết đối với kết quả học tập của mình. Thay đổi thái
độ tiêu cực của người học là một quá trình đòi hỏi phải xác định được những yếu tố tác động
tới thái độ học tập và đưa ra những phương án giải quyết thích hợp.
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra mối quan hệ ảnh hưởng tích cực của
các yếu tố khách quan và chủ quan đến thái độ học tập của sinh viên, nhưng phần lớn các
nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu thái độ của sinh viên đối với một số lĩnh vực cụ thể,
chưa có nhiều nghiên cứu phản ánh thái độ học tập của người học tại trường đại học. Ngoài
ra, môi trường giáo dục đại học Việt Nam có rất nhiều khác biệt so với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Tại Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, do nhu cầu công việc và nhu cầu nâng
cao tri thức của sinh viên ngày càng cao, lượng sinh viên theo học hệ văn bằng 2 khá đông.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của công việc và nhiều yếu tố khác đã làm cho việc học chưa thực sự
đạt hiệu quả cao. Điều này thể hiện ở số lượng sinh viên tới lớp ít, sinh viên tiếp thu bài giảng
chưa hiệu quả, học tập mang tính đối phó và số lượng sinh viên tốt nghiệp chưa cao.
Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố tác động đến việc
động viên sinh viên học tập để từ đó làm cơ sở tham khảo cho các hoạt động quản lý, giảng
4
dạy, đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo Hệ văn bằng 2 tại trường Đại học Kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cu này h  ng  n nhng mc tiêu sau
- Nghiên cu nhng nhân t nh h  ng ti   ng c thúc   y vic hc tp ca sinh viên
 i hc h vn bng 2.
-   xut mt s gii pháp nhm   ng viên sinh viên hc tp.
3. PHƯƠNG PHÁP, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện qua 2 giai đoạn, nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.

Nghiên cứu định tính nhằm xác định các động cơ thúc đẩy sinh viên học tập
Phương pháp nghiên cứu định tính dựa trên cơ sở lý thuyết và những mô hình nghiên cứu
trước đây ở trong và ngoài nước để xây dựng mô hình nghiên cứu và thang đo dự kiến.
Nghiên cứu tiến hành điều tra phỏng vấn sâu 2 nhóm đối tượng chính:
- Nhóm một số giảng viên lâu năm, nhiều kinh nghiệm giảng dạy
- Nhóm sinh viên đại học hệ văn bằng 2 chính quy
Thông qua bảng câu hỏi định tính được thiết kế trước nhằm khẳng định, hiệu chỉnh và bổ
sung các yếu tố động viên sinh viên học tập
Nghiên cứu định lượng nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến động cơ
học tập của sinh viên
Quá trình nghiên cứu định lượng được tiến hành sau khi hiệu chỉnh thang đo thông qua bảng
câu hỏi khảo sát chính thức. Tất cả các biến quan sát được đo bằng thang đo Likert – 5 mức
độ
1. Hoàn toàn ảnh hưởng
2. Ảnh hưởng
3. Bình thường
4. Không ảnh hưởng
5. Hoàn toàn không ảnh hưởng
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: sinh viên đại học chính quy hệ văn bằng 2 – Đại học kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh
Mẫu nghiên cứu được lấy theo lớp với những sinh viên của mỗi ngành học: luật kinh doanh,
tài chính - ngân hàng, kế toán – kiểm toán, kinh tế kế hoạch đầu tư, quản trị kinh doanh, kinh
tế lao động và quản lý nguồn nhân lực
3.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Câu hỏi 1: Động cơ học tập của sinh viên hiện nay như thế nào?
- Câu hỏi 2: Những yếu tố nào ảnh hưởng tới động cơ học tập của sinh viên
3.4. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Phương pháp hồi cứu tư liệu

Phương pháp điều tra xã hội học qua bảng hỏi
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp thống kê toán học (sử dụng phần mềm SPSS, phiên bản 12 để phân tích và xử lý
số liệu).
4. KẾT CẤU NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã xác định được những yếu tố trong môi trường giáo
dục có tác động tới thái độ học tập của người học. Một môi trường giáo dục bao gồm rất
nhiều các yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài tác động đến người học, từ đó hình thành nên cấu
trúc của hoạt động học tập (Phạm Hồng Quang, 2006).
Quá trình động viên là một quá trình cố gắng hết mình để đạt được mục tiêu của tổ chức trong
điều kiện một số nhu cầu được thỏa mãn. Để động viên sinh viên học tập cần xác định rõ 2
nhóm yếu tố tác động đến động cơ học tập của sinh viên là sự tác động từ môi trường bên
ngoài và sự nỗ lực của bản thân (Nguyễn Hữu Lam, 2011).
Do vậy giả thiết nghiên cứu cho rằng có 2 nhóm nhân tố chủ yếu tác động đến động cơ học
tập của sinh viên là nhóm các yếu tố liên quan đến môi trường bên ngoài và nhóm các yếu tố
cá nhân
6
4.1. Yếu tố liên quan đến môi trường bên ngoài
Triết lý đào tạo
Bấy lâu nay các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam được thiết kế, xây dựng, hình thành, vận
hành và hoạt động trong thực tế nhưng lại thiếu sự thể hiện chính thức các tư tưởng/giá trị cốt
lõi có tác dụng chỉ đạo và định hướng toàn bộ các hoạt động có liên quan trong môi trường
giáo dục của cơ sở đào tạo. Đó là tuyên bố của nhà trường về triết lý đào tạo, phản ánh các
giá trị mà nhà trường theo đuổi; đó là sự cam kết của nhà trường trước người học và xã hội về
lý do tồn tại và phát triển của nhà trường, phản ánh sự dấn thân không mệt mỏi của tất cả các
thành viên, tổ chức trong cơ sở đào tạo để hiện thực hóa và khẳng định các giá trị ấy trong
thực tế; đó là nền móng cơ bản định vị chất lượng đào tạo và tạo ra sự phát triển bền vững của
nhà trường. Quan trọng hơn, các giá trị (có thật) ấy được thể trong triết lý đào tạo của cơ sở
giáo dục đại học mang lại niềm tin và sự tự hào của sinh viên với tư cách là thành viên. Chính
điều này, một cách vô hình nhưng hữu dụng, có tác dụng đáng kể trong việc động viên tinh

thần, nâng cao ý thức và phát huy tính tích cực học tập của sinh viên.
Chúng ta không khó để thấy các triết lý đào tạo này được thể hiện trong một số đại học nổi
tiếng thế giới như Đại học Harvard (phụng sự chân lý), Đại học Yale (chiếc nôi đào tạo những
nhà lãnh đạo thế giới) và một số đại học đẳng cấp quốc tế khác.
Vì thế, trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, xét đến yếu tố này cho
phép ta có thể khẳng định: việc quản lý môi trường giáo dục đại học trong mối quan hệ với
tính tích cực học tập của sinh viên trước hết và quan trọng nhất là phải từng bước định vị nhà
trường (qua tuyên bố về triết lý đào tạo) để từ đó có thể định hướng niềm tin nơi sinh viên
(qua việc tổ chức thực hiện triết lý đào tạo) trong quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện
của họ.
Cơ chế quản lý đào tạo (học chế)
Hiện nay, giáo dục đại học Việt Nam đang chuyển đổi sang học chế tín chỉ trong đào tạo. Đây
là một trong những mô hình quản lý đào tạo hiện đại, mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho
người học. Nhưng phải khẳng định rằng, những lợi ích thực sự mang lại cho sinh viên từ học
chế này chỉ có được khi nhà trường hội đủ rất nhiều điều kiện cho sự vận hành của học chế
này. Chúng tôi sẽ có dịp đề cập chi tiết vấn đề này trong một bài viết khác. Trong phạm vi của
bài viết này, chúng tôi tập trung làm rõ các phương diện ảnh hưởng của cơ chế quản lý đào
tạo đến tính tích cực học tập của sinh viên trên cơ sở phân tích, so sánh các nét đặc trưng của
7
cơ chế quản lý đào tạo xuất phát từ (quy định của) nhà trường (học chế niên chế) với cơ chế
quản lý đào tạo xuất phát từ (quyền lợi của) người học (học chế tín chỉ).
Một cách tổng quan, học chế niên chế được xây dựng và vận hành theo kiểu định sẵn từ trước
bởi các quy định của cơ sở đào tạo (về chương trình, học trình, quản lý…); người học bắt
buộc phải tuân thủ/ thực thi đúng đắn (theo các quy định trong đào tạo) và đầy đủ (về nội
dung và thời gian đào tạo) mới được công nhận tốt nghiệp. Học chế này có vẻ cứng nhắc về
quản lý đào tạo nhưng vẫn không triệt tiêu hoàn toàn tính tích cực học tập của sinh viên nếu
xét đến vai trò chủ thể nhận thức trong hoạt động học tập của người học. Bởi vì, học chế niên
chế, nếu có áp đặt, là áp đặt về cơ chế quản lý đào tạo, về xây dựng nội dung và cấu trúc
chương trình đào tạo chứ không hề áp đặt về cách thức sinh viên lĩnh hội nội dung chương
trình đào tạo trong quá trình học tập theo lối thụ động. Nói cách khác, học tập thụ động/ hay

tích cực là do bản thân sinh viên tạo ra (cộng hưởng cùng với tác động của giảng viên qua
phương pháp giảng dạy) chứ không phải do chính cơ chế quản lý đào tạo áp đặt. Do đó, có thể
nói, học chế niên chế chưa mang lại tính tích cực học tập của sinh viên một cách triệt để. Tức
là, sinh viên chưa thể hiện đầy đủ vai trò chủ thể của mình trong quá trình học tập, chẳng hạn
như trong việc xây dựng kế hoạch học tập cá nhân một cách linh hoạt, chủ động. Về mặt lý
thuyết, học chế tín chỉ khắc phục được hạn chế này của học chế niên chế.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ thực tiễn trong quản lý đào tạo hiện nay, tính tích cực học tập của
sinh viên chưa thể hiện đúng như kỳ vọng từ học chế tín chỉ mang lại. Một phần do các điều
kiện và nguồn lực đầu tư cho sự vận hành của học chế này chưa đáp ứng đầy đủ (tỉ lệ bình
quân giảng viên/sinh viên; tỉ lệ bình quân môn học/giảng viên phụ trách; hệ thống cố vấn học
tập; quy chế học vụ; các chương trình quản lý đào tạo ứng dụng công nghệ thông tin…); mặt
khác, chính sinh viên cũng chưa được trang bị những kỹ năng cần thiết nên chưa thích ứng tốt
với phương thức học tập theo học chế tín chỉ (như kỹ năng lập kế hoạch học tập; kỹ năng tự
học, tự nghiên cứu…).
Theo chúng tôi, nhìn chung, cơ chế quản lý đào tạo theo tín chỉ là cần thiết trong giáo dục đại
học hiện nay nhưng để qua đó góp phần hình thành và nâng cao tính tích cực học tập của sinh
viên thì vấn đề mấu chốt ở đây là cần thực thi kết hợp các giải pháp quản lý như: (1) tăng
cường tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho các chuyên viên
phụ trách đào tạo; (2) xây dựng hệ thống cố vấn học tập đáp ứng yêu cầu về chất lượng,
không phân biệt về thành phần- có thể dùng lực lượng sinh viên các khóa trước để tư vấn học
tập cho sinh viên khóa sau; (3) từng bước chuẩn hóa về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
trong quản lý đào tạo; (4) hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong sinh viên về quy
8
chế đào tạo dưới nhiều hình thức khác nhau (trong đó việc biên soạn, cập nhật và phát hành sổ
tay sinh viên là yêu cầu tối thiểu); và (5) kiện toàn các văn bản hành chính quản lý đào tạo.
Phương pháp, cách thức giảng dạy và trình độ của giảng viên
Xét trong môi trường giáo dục đại học, phương thức đào tạo được thể hiện cụ thể nhất qua các
phương pháp và hình thức tổ chức giảng dạy và học tập. Đây là yếu tố có tác động trực tiếp
đến tính tích cực học tập của sinh viên. Đương nhiên, phương thức đào tạo ít nhiều bị chế ước
bởi cơ chế quản lý đào tạo mà biểu hiện rõ nét nhất trong học chế tín chỉ là giờ lên lớp của

giảng viên và sinh viên giảm xuống; tăng cường các hoạt động tự học, thực tế, thực hành…
Đây vừa là điều kiện, vừa là cơ hội lại vừa là thách thức đối với việc học tập của sinh viên.
Bởi lẽ, nếu sinh viên thiếu ý thức học tập tự giác; giảng viên không kiểm tra, kiểm soát hoặc
xem nhẹ các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với người học trong các hoạt động tự học và thực
hành thì dễ dẫn đến xu hướng buông xuôi của cả thầy và trò trong quá trình đào tạo.
Do đó, để giảng dạy và học tập thực sự trở thành yếu tố có ý nghĩa thúc đẩy tính tích cực học
tập của sinh viên thì việc chú trọng các giải pháp quản lý chất lượng dạy- học là rất cần thiết.
Trong đó, có thể kể đến một số giải pháp như: (1) quản lý, chỉ đạo việc thực hiện chương
trình đào tạo cấp môn học theo định hướng phát triển năng lực của sinh viên, trong đó chú
trọng năng lực tự học; (2) quản lý chất lượng các hoạt động kiểm tra- đánh giá kết quả học tập
của sinh viên; (3) tổ chức tốt hình thức đào tạo trên cơ sở tăng cường các hoạt động học tập-
giảng dạy gắn với địa bàn thực tế, với môi trường thực tiễn trong lĩnh vực chuyên môn,
chuyên ngành đào tạo; (4) làm tốt công tác hỗ trợ, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ sư phạm
cho giảng viên; và (5) duy trì thường xuyên các hình thức hỗ trợ sinh viên trang bị kỹ năng,
phương pháp học tập ở đại học.
Điều kiện học tập
Môi trường nói chung và môi trường học thuật trong giáo dục đại học nói riêng là một trong
các yếu tố ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động học tập, nghiên cứu của sinh viên.
Môi trường học thuật ở đây được xem xét bao gồm các điều kiện vật chất phục vụ cho quá
trình đào tạo và học tập của sinh viên (mạng viễn thông internet; phòng thí nghiệm, thực
hành; thư viện;… ); các chính sách, chế độ đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên; bầu không khí tâm lý trong sinh hoạt khoa học; và, các hoạt động học thuật của các câu
lạc bộ, đội, nhóm của giảng viên và sinh viên.
9
Rõ ràng, nếu tạo ra được môi trường học thuật lành mạnh hoặc mang đến cho người học các
nhân tố tích cực từ môi trường học thuật như nêu trên sẽ có tác dụng khuyến khích rất mạnh
mẽ đến tính tích cực học tập, nghiên cứu của sinh viên.
Một trong những điều kiện then chốt tạo nên môi trường văn hóa học thuật lành mạnh là sự tự
do trong học thuật. Khi đó, đại học là môi trường ươm mầm cho những khát vọng truy tìm sự
thật, khám phá chân lý và sáng tạo tri thức. Đó là tinh thần dân chủ học thuật sâu sắc, là thái

độ và hành động chân chính của cả người học/người khám phá và người dạy/người hướng dẫn
trong cộng đồng đại học. Môi trường học thuật như vậy, như đã nêu ở trên, được tạo ra từ triết
lý đào tạo của nhà trường. Nếu có môi trường học thuật như thế sẽ vừa góp phần cụ thể hóa
triết lý đào tạo vừa góp phần tăng trưởng tính tích cực của sinh viên trong các hoạt động học
tập, nghiên cứu khoa học và sinh hoạt học thuật.
Từ thực tế của môi trường học thuật trong giáo dục đại học Việt Nam, chúng tôi nhận thấy
điều có thể sớm thay đổi được, đó là thay đổi từ “phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học”
thành “hoạt động học tập theo hướng nghiên cứu khoa học ” của sinh viên như là một trong
những hình thức đào tạo hiện đại ở đại học. Đồng thời, từng bước xây dựng các nhóm nghiên
cứu mạnh từ đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, các giảng viên trong trường đại học, hợp
tác với các viện nghiên cứu… làm đầu tàu kéo theo hoạt động nghiên cứu khoa học trong lực
lượng sinh viên ngày một lớn mạnh. Trong đó, các giải pháp về thu hút tài trợ cho nghiên cứu
khoa học, chuyển giao các thành quả nghiên cứu khoa học- công nghệ ứng dụng vào thực tiễn
cũng cần quan tâm thực hiện.
Thời gian học – Lịch học
Nhà bác học Nga Ivan Pavlov, cha đẻ của Thuyết phản xạ có điều kiện, trong hồi ký của mình
đã có lời nhắn nhủ các bạn học sinh nên học những bài khó vào buổi sáng. Nhiều nhà khoa
học tiếng tăm khác cũng có những nhận xét tương tự: họ nhận thấy là khả năng lao động trí óc
của con người tăng dần từ sáng sớm tới gần trưa, sau đó giảm dần - sau bữa ăn trưa nên có
ngủ trưa từ 20-30 phút.
Theo các công trình nghiên cứu tại Pháp về thời sinh học (chronobiologie) thì hiệu suất học
buổi trưa còn cao hơn buổi sáng, đặc biệt đối với những môn học khó. Buổi chiều có hơi giảm
vào giờ ăn tối. Sau đó, dường như có một chu kỳ mới và khả năng hoạt động của trí não tăng
dần cho tới khoảng 21 giờ, sau đó lại giảm.
Lịch học của các lớp hệ VB 2 – Đại học Kinh tế tp HCM là từ 5h45 đến 9h15. đây là thời
điểm hiệu suất học tập có phần giảm sút đồng thời khả năng học tập sinh viên còn bị ảnh
10
hưởng sau 1 ngày làm việc mệt mỏi (đối với những sinh viên có đi làm). Do đó nghiên cứu
cũng khảo sát mức độ ảnh hưởng của thời gian học tới động lực học tập của sinh viên
Ảnh hưởng từ phía gia đình (phương pháp giáo dục của cha mẹ, nghề nghiệp của cha

mẹ và anh chị em ruột).
Theo tinh thần chung của nguyên lý giáo dục, sự kết hợp giữa giáo dục nhà trường, giáo dục
gia đình và giáo dục của xã hội được thể hiện trong Luật giáo dục và được thực hiện xuyên
suốt trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Các phẩm chất tâm lý về tính tích cực cá nhân học
sinh từ môi trường giáo dục của gia đình có ý nghĩa đặc biệt đối với việc hình thành ở trẻ
những kỹ năng, hành vi và thói quen tốt trong học tập, sinh hoạt. Tiền đề này cần được tiếp
tục củng cố và phát huy ngay cả đối với sinh viên. Rõ ràng, ai cũng thừa nhận tầm quan trọng
của môi trường giáo dục gia đình đối với sự hình thành nền tảng nhân cách cá nhân và sự cần
thiết kết hợp các môi trường giáo dục nhưng có thể thấy sự kết hợp này còn rất lỏng lẻo trong
giáo dục đại học.
Trong môi trường giáo dục đại học, đương nhiên, gia đình không thể theo dõi sâu sát việc học
tập của con em họ như ở phổ thông; đó là điều bất khả thi và cũng không nên quá cứng nhắc
trong việc này. Tuy nhiên, những hỗ trợ về mặt tinh thần của gia đình đối với việc học tập của
sinh viên có ảnh hưởng sâu sắc đến tính tích cực học tập của họ. Đó là sự bù đắp cần thiết về
mặt tâm lý đối với sinh viên trong học tập; giúp con em họ có thể đứng vững, vượt qua các
khó khăn, thử thách và căng thẳng trong quá trình học tập ở đại học.
Hiện nay, ta thấy rõ trong sự kết hợp giáo dục của gia đình và nhà trường ở bậc giáo dục đại
học chưa thật sự rõ nét và thiết thực; những giải pháp về mặt tổ chức và quản lý sự phối hợp
này chưa được triển khai và thực hiện.
4.2. Yếu tố liên quan đến cá nhân
Mục đích học của cá nhân
Trong bậc giáo dục đại học, nếu xét từ đầu vào đến quá trình và đầu ra của quá trình đào tạo
thì yếu tố thuộc về viễn cảnh nghề nghiệp có mức ảnh hưởng không nhỏ đến tâm thế, mục
tiêu và ý thức học tập của sinh viên. Vì thế, động cơ học tập của sinh viên bị phụ thuộc đáng
kể vào mức độ hấp dẫn của triển vọng nghề nghiệp mà sinh viên đang theo đuổi.
Các hoạt động tư vấn hướng nghiệp, tư vấn tuyển sinh, ngày hội việc làm,… vừa mang đến
những thông tin thiết thực để học sinh- sinh viên định hướng nghề nghiệp tương lai nhưng
mặt khác dễ dẫn đến xu hướng phiến diện trong việc xác định ngành học và nghề nghiệp
11
tương lai. Chẳng hạn như xu hướng chọn ngành chọn nghề theo số đông, theo sự hấp dẫn của

mức thu nhập, theo kỳ vọng của gia đình, theo thang đánh giá giá trị nghề nghiệp của dư luận
xã hội… Các xu hướng này phản ánh sự lựa chọn ngành nghề của học sinh-sinh viên hiện
nay, dù chưa phải là tất cả, nhưng rõ ràng dễ dẫn đến những biểu hiện lệch lạc trong học tập.
Do đó, sự hiểu biết về nghề nghiệp và quan niệm về giá trị xã hội của nghề nghiệp nên được
coi như là những nội dung cần trang bị cho học sinh- sinh viên trước và trong suốt quá trình
đào tạo ở đại học. Từ góc độ quản lý, ta thấy rõ sự cần thiết của công tác chỉ đạo và tổ chức
thực hiện các hoạt động trao đổi thông tin, phối- kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo của nhà trường
và yêu cầu của nhà tuyển dụng cũng như việc giáo dục giá trị nghề nghiệp cho sinh viên. Đây
vừa là yêu cầu của đào tạo toàn diện nguồn nhân lực (có hiểu biết nghề nghiệp, kỹ năng nghề
nghiệp và thái độ đúng đắn đối với giá trị nghề nghiệp) vừa là giải pháp quản lý góp phần
điều chỉnh ý thức học tập của sinh viên theo chiều hướng tích cực, phát huy tính tích cực học
tập, gắn kết giữa đào tạo nguồn nhân lực và sử dụng nhân lực được đào tạo.
Hứng thú là một thuộc tính nhân cách cá nhân, nên nó không tồn tại một cách biệt lập, riêng
rẽ mà hình thành và phát triển trong mối quan hệ với các thuộc tính tâm lý khác nói chung và
với các phẩm chất nhân cách cá nhân nói riêng. Hứng thú học tập quan hệ mật thiết với nhu
cầu nhận thức của cá nhân.
Sinh viên có nhu cầu nhận thức cao là tiền đề nảy sinh hứng thú học tập. Trái lại, hứng thú
học tập phát triển làm nảy sinh tính tích cực nhận thức để thoã mãn nhu cầu nhận thức của cá
nhân. Càng hứng thú học tập bao nhiêu, thì càng có nhu cầu đi sâu nhận thức đối tượng bấy
nhiêu.
Ngoài ra, có một phẩm chất nhân cách khác quan hệ mật thiết với hứng thú học tập là tính tò
mò, ham hiểu biết của cá nhân. Nó là biểu hiện của hứng thú với 2 tư cách: tính cách và biểu
hiện của nhu cầu.
Tính tò mò là khả năng tập trung chú ý nhanh, sâu vào những yếu tố bất ngờ, những biến đổi
của các sự vật, hiện tượng, những cái mới xuất hiện. Sự chú ý này, có thể kéo dài và kèm theo
xúc cảm tích cực, nhưng chỉ có mức độ thoã mãn câu hỏi “ nó là cái gì ” nghĩa là chỉ dừng ở
mức độ nhận biết những dấu hiệu bên ngoài của đối tượng, chứ chưa có xu hướng đi sâu nhận
thức cái bên trong bản chất của đối tượng.
Tính ham hiểu biết là sự biểu hiện của nhu cầu nhận thức cao và đã trở thành thuộc tính nhân
cách cá nhân. Đó chính là xu hướng tìm tòi để nhận thức cả những dấu hiệu bên ngoài và

12
những thuộc tính bên trong của đối tượng. Tính ham hiểu biết làm cá nhân dễ dàng nảy sinh
hứng thú nhận thức nói chung và hứng thú học tập nói riêng. Một sinh viên có tính tò mò
khoa học và ham hiểu biết sẽ dễ dàng nảy sinh hứng thú với các môn học.
Tính tò mò và lòng ham hiểu biết, …đó là những biểu hiện khác nhau của xu hướng nhận
thức của sinh viên dựa trên xu hướng đó thì sự hứng thú phát triển. Hứng thú học tập luôn
giữ một vai trò trong hoạt động của sinh viên, nó tác động tương hổ với những phương
cách hành vi tương đối ổn định, ngày càng được củng cố và cuối cùng trở thành tính cách
cá nhân bền vững. Và như vậy, nó đi vào bản tính của con người cho phép con người giữ
được tính độc lập riêng biệt trong mọi hoàn cảnh đa dạng.
Hứng thú quan hệ mật thiết với động cơ học tập của cá nhân. Động cơ học tập là lý do vì
nó mà học sinh học. Chúng ta đều hiểu rằng hoạt động – đó là sự đáp lại của cá thể đối với
một tình huống hiện thực xác định. Hoạt động được thúc đẩy bởi những động cơ xác định
và diễn ra trong một tình huống xác định. Vả lại, động cơ không phải là cái gì trừu tượng
ở bên trong cá thể. Nó phải được hiện thân ở đối tượng của hoạt động. Nói cách khác, đối
tượng của hoạt động chính là nơi hiện thân của động cơ hoạt động ấy. Động cơ học tập của
học sinh được hiện thân ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, thái độ …mà giáo dục sẽ đưa lại cho họ.
Những công trình nghiên cứu đã chứng tỏ rằng có hai loại động cơ: những động cơ hoàn
thiện tri thức và những động cơ quan hệ xã hội.
Trong hệ thống động cơ học tập này, thì động cơ tích cực nhất, có ý nghĩa nhất với hoạt
động học tập là những động cơ hoàn thiện tri thức nghĩa là học sinh học tập vì muốn nắm
lấy hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của các môn học. Chúng ta thường thấy học sinh có
lòng khao khát mở rộng tri thức, mong muốn có nhiều hiểu biết, say mê với bản thân quá
trình giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức thường không chứa đựng
xung đột bên trong. Nó cũng có thể xuất hiện những sự khắc phục khó khăn trong tiến
trình học tập và đòi hỏi phải có những nổ lực ý chí. Nhưng đó là những nổ lực hướng vào
việc khắc phục những trở ngại bên ngoài để đạt nguyện vọng đã nẩy sinh, chứ không phải
hướng vào việc đấu tranh với chính bản thân mình. Do đó, chủ thể của hoạt động học

thường không có những căng thẳng về tâm lý
13
Hứng thú học tập cũng hướng vào việc nhận thức các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của các
môn học và các hành động học để đạt được những tri thức đó. Hứng thú có tác dụng làm
thay đổi cơ bản bản thân hoạt động học tập, nó ảnh hưởng đến tính chất, diễn biến và kết
quả học tập của học sinh. Chính điểm này, làm cho nhiều tác giả đã đồng nhất hứng thú với
động cơ. Thực ra, hứng thú và động cơ là hai hiện tượng tâm lý khác nhau. Trong trường
hợp này, động cơ và hứng thú hướng vào cùng một đối tượng, nên chúng tác động tương
hỗ lẫn nhau. Nhờ mối quan hệ cộng hưởng nầy, mà hoạt động học tập có hiệu quả hơn.
Tóm lại, trong hoạt động học tập của cá nhân hứng thú có quan hệ biện chứng hữu cơ với
nhu cầu nhận thức, với tính tò mò, ham hiểu biết và với động cơ học tập của cá nhân …
nhưng không đồng nhất với các hiện tượng đó. Chính mối quan hệ, làm bộc lộ vai trò của
hứng thú trong hoạt động học tập bộ môn.
Giới
Các kết quả nghiên cứu, đo đạc đã cho thấy, thông thường, bộ não của nam giới thường lớn
hơn bộ não nữ giới khoảng 11-12%. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa rằng, đàn ông
thông minh hơn phụ nữ. Theo các chuyên gia, sở dĩ có điều đó là bởi nam giới cần bộ não lớn
nhằm kiểm soát tốt hơn các cơ quan và cơ bắp của họ - vốn đã lớn hơn nữ giới
Não bộ con người có một bộ phận được gọi là IPL (inferior-parietal lobule) chuyên trách khả
năng toán học. Bộ phận này ở nam giới thường có kích thước lớn hơn so với ở nữ giới, do đó
trong thực tế, các học sinh nam thường trội hơn học sinh nữ về khả năng học các môn khoa
học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa. Ngược lại, hai vùng kiểm soát ngôn ngữ trong não bộ là
Broca’s area và Wernicke’s area của phụ nữ trội hơn hẳn so với đàn ông. Vì vậy, họ gần như
có lợi thế tuyệt đối trong các môn học liên quan tới tư duy ngôn ngữ. Đồng thời, phụ nữ kiểm
soát hoạt động ngôn ngữ bằng cả hai bán cầu não, trong khi đàn ông thường chỉ sử dụng một
bán cầu não trái. Hệ quả là trong các trường hợp đột quỵ, những bệnh nhân nữ có khả năng
phục hồi hoạt động ngôn ngữ tốt hơn hẳn so với những bệnh nhân nam giới.
Ngoài ra, trong xã hội mang đậm chất Á đông như nước ta hiện nay, nữ giới còn bị ảnh hưởng
bởi sự bình đẳng nam nữ chưa cao, nữ giới phải có nghĩa vụ chăm lo cho gia đình con cái
nhiều hơn nam giới.

4.3 Bảng câu hỏi nghiên cứu
4.3.1 Bảng câu hỏi cho nghiên cứu định tính
14
BẢNG CÂU HỎI
(nghiên cứu định tính)
Chúng tôi đang tiến hành đề tài “nghiên cứu các yếu tố động viên sinh viên học tập”, quý thầy
cô và anh/chị vui lòng cung cấp cho chúng tôi một số thông tin và đánh giá theo ý kiến cá
nhân.
Tên Tuổi Giới tính
Lớp Khóa Chuyên ngành
Các yếu tố nào sau đây ảnh hưởng tới việc học tập. Vui lòng đánh dấu (x) vào chọn lựa phù
hợp nhất.
STT Yếu tố Có Không
Yếu tố bên ngoài
1 Triết lý đào tạo của nhà trường
2 Cơ chế quản lý đào tạo (học chế)
2 Phương pháp, cách thức giảng dạy và trình độ của giảng viên
3 Điều kiện học tập
4 Thời gian học – lịch học
5 Ảnh hưởng từ phía gia đình
(Phương pháp giáo dục của cha mẹ, nghề nghiệp của bố mẹ v
à anh chị em ruột)
6 Độ khó của môn học
Yếu tố thuộc về cá nhân
1 Mục đích lựa chọn ngành học
2 Tính cách
3 Tình trạng hôn nhân
4 Ngành nghề hê văn bằng 1
5 Công việc hiện tại
15

6 Thu nhập – mức chi tiêu hàng tháng
Ngoài những yếu tố kể trên, theo quý thầy/cô/anh/chị còn yếu tố nào sẽ ảnh hưởng tới việc
học tập
-
-
-
-
Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp sự thành công của đề tài
4.3.2 Bảng câu hỏi cho nghiên cứu định lượng
Từ kết quả nghiên cứu định tính, chọn ra các câu trả lời có sự lựa chọn nhiều nhất để tiến
hành nghiên cứu định lượng nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này tới động
lực học tập của sinh viên
BẢNG CÂU HỎI
(nghiên cứu định lượng)
Chúng tôi đang tiến hành đề tài “nghiên cứu các yếu tố động viên sinh viên học tập”, bạn vui
lòng cung cấp cho chúng tôi một số thông tin và đánh giá theo ý kiến cá nhân của bạn.
Tên Tuổi Nơi sinh
Lớp Khóa Chuyên ngành
Bạn vui lòng đánh dấu (x) vào chọn lựa phù hợp nhất với bạn
STT Yếu tố
Mức độ ảnh hưởng
Hoàn toàn
ảnh hưởng
Ảnh
hưởng
Bình
thường
Không
ảnh hưởng
Hoàn toàn

không ảnh
hưởng
1
2
3
16
4
5
Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp của bạn cho sự thành công của đề tài
5. Ý NGHĨA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định những yếu tố tác động đến động cơ học tập của của
sinh viên đại học hệ văn bằng 2 chính quy của trường Đại học kinh tế tpHCM.
Đây có thể là tiền đề cho các nghiên cứu sâu hơn về động cơ học tập của sinh viên và là cơ sở
để Nhà trường tham khảo nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập của đối tượng sinh
viên đại học hệ văn bằng 2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Bùi Minh Hiền (2009), Quản lý giáo dục, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
2) Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (2003), Lý luận dạy học đại học, NXB Đại học Sư phạm
Hà Nội.
3) Nguyễn Hữu Châu (2005), Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy
và học, NXB Giáo dục.
4) Nguyễn Thành Nhân, Tính tích cực họ tập của sinh viên từ góc nhìn quản lý, ĐH
KHXH&NV HCM
5) Nguyễn Thị Chi, Nguyễn Thị Liên Hương, Nguyễn Thị Phương Hoa (2010), Thái
độ học tập các môn chung của sinh viên Đại học ngoại ngữ - ĐHQGHN, Tạp chí
giáo dục, kỳ 2
6) Nguyễn Văn Tài & cs (2003), Nghiên cứu một số yếu tố KT-XH tác động đến hoạt
động học tập và định hướng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ĐHQG
tpHCM
7) Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo dục, NXB Giáo dục - Hà Nội

8) Viện nghiên cứu dư luận xã hội (2010), Thực trạng và giải pháp việc giảng dạy và
học tập các môn KHXH&NV ở các trường đại học Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế
17

×