Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Các giải pháp phòng cháy rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.45 KB, 22 trang )

Mục lục:
I. Đặt vấn đề:
II. Nội dung:
1. Cháy rừng:
2. Dự báo cháy rừng:
2.1. Xác định mùa cháy rừng và phân vùng trọng điểm cháy rừng:
2.1.1. Xác định mùa cháy rừng:
2.1.2. Phân vùng trọng điểm dễ cháy rừng:
2.2. Thông tin cảnh báo về cháy rừng:
2.3. Hệ thống dự báo cháy rừng ở nước ta:
3. Các giải pháp phòng cháy rừng:
3.1. Phương châm và yêu cầu phòng cháy chữa cháy rừng:
3.2. Những biện pháp chủ yếu phòng cháy rừng:
3.2.1. Biện pháp tổ chức hành chính
3.2.2. Tuyên truyền giáo dục nâng cao cảnh giác
3.2.3. Biện pháp lâm sinh trong phòng cháy rừng
3.2.4. Hệ thống hồ đập, đê bao, kênh mương
3.2.5. Quy hoạch vùng sản xuất nương rẫy
3.2.6. Giảm khối lượng vật liệu cháy:
3.2.7. Hệ thống chòi canh phát hiện cháy rừng
III. Kết luận:
I. Đặt vấn đề:
Lâm nghiệp là một ngành sản xuất đặc biệt. Nói đến lâm nghiệp trước hết
phải nói đến vai trò của rừng trong nền kinh tế quốc dân và trong đời sống xã
hội. Rừng cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các
tầng lớp dân cư; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây dựng cơ bản;
cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho
con người; cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm,…phục vụ nhu
cầu đời sống xã hội,…
Trong Luật bảo vệ và phát triển rừng có ghi: “ Rừng là tài nguyên quý
báu của đất nước, có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh


thái, có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, gắn liền với đời sống của
nhân dân, với sự sống còn của dân tộc”.
Nước ta hiện nay có trên 12.3 triệu ha rừng, trong đó hơn một nửa là các
loại rừng dễ cháy. Chính vì vậy, công tác phòng cháy, chữa cháy rừng luôn được
đặt ra là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của các cấp, các
ngành và toàn bộ xã hội. Việc phổ biến những kiến thức liên quan đến công tác
phòng cháy, chữa cháy rừng là một trong những giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả trong triển khai thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy rừng trên
toàn quốc nói chung và cho lực lượng kiểm lâm nói riêng.
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận: Tìm hiểu những kiến thức cơ bản về
cháy rừng, thực trạng công tác dự báo và các giải pháp cho phòng cháy chữa
cháy rừng. Từ đó đưa ra những nhận xét và đề xuất cá nhân cho vấn đề.
II. Nội dung:
1. Cháy rừng:
- Khái niệm cháy rừng:
Theo tài liệu quản lý lửa rừng của Tổ chức nông lương thế giới (FAO),
cháy rừng là sự xuất hiện và lan truyền của những đám cháy trong rừng mà
không nằm trong sự kiểm soát của con người, gây nên những tổn thất về nhiều
mặt tài nguyên, của cải và môi trường.
- Cháy rừng xảy ra khi hội tụ đủ ba yếu tố:
- Vật liệu cháy: là tất cả những chất có khả năng bén lửa và bốc cháy
trong điều kiện có đủ nguồn nhiệt và oxy.
- Oxy: Oxy tự do luôn sẵn có trong không khí ( nồng độ khoảng 21 –
23%) và lấp đầy các khoảng trống giữa vật liệu cháy. Khi nồng độ
oxy giảm xuống dưới 15% thì không còn khả năng duy trì sự cháy.
- Nhiệt ( nguồn lửa): nguồn nhiệt có thể phát sinh do thiên nhiên như
sấm sét, núi lửa phun,…nhưng ở nước ta chủ yếu là do con người gây
ra.
Mỗi yếu tố trên đây được xem là một cạnh của tam giác, ghép chúng lại
với nhau tạo thành “ tam giác lửa”, như hình vẽ:

Nguồn lửa Oxy

Vật liệu cháy
Nếu thay đổi ( giảm hoặc phá hủy) 1, 2 hoặc 3 cạnh thì “ tam giác lửa” sẽ
thay đổi hoặc bị phá vỡ, có nghĩa là đám cháy suy yếu hoặc bị dập tắt. Đây cũng
chính là một trong những cơ sở khoa học của công tác phòng cháy, chữa cháy
rừng.
- Về bản chất, cháy rừng gồm hai mặt của quá trình vật lý và hóa học. Phản ứng
cháy xảy ra như sau:
C
6
H
12
O
6
+ 6O
2
+ nhiệt gây cháy => 6CO
2
+ 6H
2
O + nhiệt lượng
Phản ứng cháy rừng có thể xem là ngược lại với phản ứng quang hợp. Khi cháy,
lửa nhanh chóng phá hủy các chất của thực vật ( vật liệu cháy) và thành phần
hóa học bên trong của chúng, kèm theo giải phóng nhiệt. Tốc độ tỏa nhiệt trong
quá trình cháy rừng rất nhanh, ngược lai với quá trình tích lũy năng lượng qua
quang hợp của cây rừng rất chậm.
Nhiệt lượng sinh ra truyền vào môi trường xung quanh theo ba phương
thức: (a) bức xạ, (b) đối lưu và (c) dẫn nhiệt. Cả ba phương thức truyền nhiệt
này luôn cùng tác động trong quá trình cháy:

- Bức xạ là phương thức truyền nhiệt( dưới dạng sóng với tốc độ của ánh
sáng) không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa nguồn bức xạ với vật thể nó tác
động. Bức xạ là một phương thức truyền nhiệt chính là cho vật liệu ở phía
trước đám cháy càng khô nhanh và dễ bốc cháy. Bức xạ có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy một đám cháy mặt đất lan tràn và có thể làm đám
cháy lan sang các vật liệu khác.
- Đối lưu là phương thức truyền nhiệt bởi các dòng khí hoặc hơi nước. Trong
quá trình cháy rừng, không khí bên trên đám cháy bị đốt nóng và di chuyển
lên trên, không khí lạnh bổ sung vào và hình thành đối lưu nhiệt. Do có đối
lưu nhiệt nên tầng tán phía trên bị sấy khô, cháy dưới tán thường phát triển
thành cháy tán và đẩy nhanh tốc độ của đám cháy, đặc biệt ở nơi sườn dốc
hoặc ở những khu rừng hỗn giao nhiều tầng tán. Khi cháy mạnh, cột đối lưu
có thể cuốn theo cả những sản vật cháy dở, rất dễ gây ra hiện tượng “ lửa
bay” gây cháy “ nhảy cóc”.
- Dẫn nhiệt là phương thức truyền nhiệt diễn ra bên trong vật liệu cháy hoặc
từ vật liệu này đến vật liệu khác nhờ tiếp xúc trực tiếp. Dẫn nhiệt có vai trò
chủ yếu trong quá trình cháy của các vật liệu cháy có kích thước lớn, ví dụ
gỗ lóng.
Các loại vật liệu cháy: Theo phân bố không gian thẳng đứng trong rừng, vật
liệu cháy được chia thành ba tầng:
- Vật liệu cháy trong không khí hay vật liệu cháy trên cao, bao gồm toàn thể
thân cây rừng( cả cây đứng hoặc chết) và hệ tán rừng. Trong đó, thân cây
chết khô, cành khô còn vướng trên cây và đặc điểm của tán lá cây có nhựa,
có dầu,…góp phần quan trọng trong quá trình bén lửa.
- Vật liệu cháy mặt đất bao gồm tất cả những thể hữu cơ ở trên mặt đất rừng
như cành cây, lá rơi khô mục, gốc cây, thân cây đổ, thảm cỏ và cây bụi.
Chiều cao của lớp vật liệu cháy này có thể đến 1 – 2m. Ngoài ra còn có thể
kể cả phần thảm mục đang phân hủy và hệ thống rễ cây khô phân bố gần
mặt đất.
- Vật liệu cháy dưới mặt đất bao gồm các chất hữu cơ, tầng rễ cây, than bùn,

…tích tụ dưới mặt đất rừng.
Các loại cháy rừng: Liên quan đến ba tầng vật liệu cháy trên đây, có ba loại
cháy rừng là: (a) cháy tán (cháy trên ngọn), (b) cháy mặt đất (cháy dưới tán
rừng) và (c) cháy ngầm (cháy than bùn).
(a). Cháy tán là kiểu cháy trên tán cây, tán rừng và thường phát triển từ cháy
dưới tán, chỉ hay xảy ra trong điều kiện khô hanh kéo dài, tốc độ gió trên tán
rừng từ trung bình đến mạnh. Loại cháy này rất nguy hiểm, lại thường đi kèm
với gió mạnh hoặc lốc nên tốc độ lan truyền nhanh, dễ tạo ra các đám cháy
“nhảy cóc”, diện tích cháy rộng và thiệt hại nghiêm trọng.
Căn cứ vào tốc độ di chuyển của đám cháy, có thể chia thành hai loại:
- Cháy tán lướt nhanh: khi tốc độ gió trên rừng rất mạnh (> 15m/s),
vận tốc di chuyển của đám cháy thường đạt 1.800 – 2.400 m/h.
Ngọn lửa trên tán có thể đi trước ngọn lửa cháy dưới tán khoảng 50
– 200m.
- Cháy tán chậm (ổn định): khi tốc độ gió trên tán từ trung bình đến
mạnh (5 – 15m/s), vận tốc di chuyển của đám cháy thường ở mức
300 – 900m/h.
(b). Cháy dưới tán (cháy mặt đất): là kiểu cháy mà lửa chỉ cháy ở các phần cành
khô, thảm mục, cây bụi, cỏ khô, gỗ mục,…nằm trên mặt đất rừng. Loại cháy này
khá nguy hiểm, tuy ngọn lửa nhỏ, không cao hơn tán cây nhưng cháy nhanh, tiêu
hủy hết các loại cây tái sinh. Thân và gốc cây bị trụi hết, cành lá trên tán bị khô
và vàng hết. do sức chống chịu kém nên những cây này dễ bị sâu bệnh tấn công
và ngã đổ khi gặp gió lớn hoặc bão.
Căn cứ vào tốc độ di chuyển của đám cháy, có thể chia thành hai loại:
- Cháy dưới tán lướt nhanh: có tốc độ di chuyển đạt trên 180km/h. Sức cháy
yếu, ngọn lửa thấp nên tác hại nhẹ hơn cháy dưới tán chậm. Tuy nhiên loại
cháy này rất dễ chuyển thành cháy tán, nhất là khi đám cháy xảy ra ở khu
vực rừng non, nhiều thảm tươi và có cành nhánh phân bố gần mặt đất. Dạng
cháy này ở rừng tràm U Minh, lửa thường bén nhanh vào lớp “bổi” (lá và
cành khô rơi rụng trên mặt đất và lá cây non), chỉ cháy trên mặt đất, ăn

“luồn” theo các đường ngoằn nghèo giữa các đám cây rừng. Lửa phát triển
nhanh lan rộng và hủy diệt tầng thảm mục, cây thân thảo trên mặt đất. Nếu
có gió, lửa sẽ bắt đầu cháy trên cành non, làm cho lá cây, cành cây giống
như bị “luộc” nước sôi. Vì vậy, nhân dân thường gọi cháy “luồn” là cháy
“luộc”.
- Cháy dưới tán chậm (ổn định): có tốc độ di chuyển nhỏ hơn 180m/h,
thường xảy ra ở những nơi tích tụ nhiều vật liệu cháy với độ ẩm nhỏ và mức
độ chất đống cao, ngọn lửa ít khi cao quá 2m.
(c). Cháy ngầm (còn gọi là cháy “ngún”): là loại cháy mà ngọn lửa cháy ở lớp
mùn và than bùn, phá hủy chất hữu cơ đã được tích lũy dưới mặt đất rừng. Đặc
trưng của hình thức cháy này là cháy chậm, âm ỉ, mép cháy không có ngọn lửa
hoặc bùng cháy khi có gió thổi rồi lại tiếp tục âm ỉ, ít khói và thường khó nhận
thấy. Vì vậy, cũng khó đánh giá khi nào là hoàn toàn dập tắt được đám cháy
ngầm. Cháy ngầm lan tràn theo mọi hướng do sự phân bố của chất hữu cơ dưới
mặt đất rừng chứ không phát triển theo hướng nhất định là theo chiều gió và
theo sườn dốc hướng từ dưới lên như đối với cháy mặt đất và cháy tán.
Việc phân loại cháy trên chỉ có nghĩa tương đối. Trong thực tế có thể
đồng thời xảy ra ba loại cháy trên. Mỗi loại cháy có thể phát sinh độc lập nhưng
cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
2. Dự báo cháy rừng:
Dự báo khả năng xuất hiện cháy rừng gọi tắt là dự báo cháy rừng. Dự báo
cháy rừng bao gồm các bước công việc
(1)
:
- Xác định mùa cháy rừng và phân vùng trọng điểm cháy rừng.
- Dự báo nguy cơ cháy rừng
- Thông tin về dự báo cháy rừng
2.1. Xác định mùa cháy rừng và phân vùng trọng điểm cháy rừng:
2.1.1. Xác định mùa cháy rừng:
Mùa cháy rừng là những khoảng thời gian thích hợp cho lửa rừng xảy ra

và lan tràn, có thể xác định mùa cháy rừng theo (a) số liệu thống kê cháy rừng
nhiều năm, (b) lượng mưa trung bình tuần của các tháng trong nhiều năm liên
tục và (c) chỉ số khô hạn.
(a). Theo số liệu thống kê cháy rừng nhiều năm: Mùa cháy rừng gồm những
tháng xảy ra cháy rừng với tổng tần suất xuất hiện vượt quá 90% cả năm.
(b). Theo lượng mưa trung bình tuần của các tháng trong nhiều năm liên tục:
Tổng hợp số liệu lượng mưa trung bình tuần (tuần khí tượng) của các
tháng trong nhiều năm liên tục (từ 10 – 15 năm) của địa phương và xây dựng
thành biểu đồ. Theo đó xác định mùa cháy rừng với những tháng với ít nhất 2
tuần có lượng mưa trung bình < 15 mm.
(c). Theo chỉ số khô hạn:
Dựa vào số liệu về nhiệt độ và lượng mưa trung bình tháng của nhiều năm
(từ 10 – 15 năm), mùa cháy rừng được xác định theo chỉ số khô hạn của Gaussel
– Walter – Thái Văn Trừng như sau:
X = S * A * D
Trong đó:
S – số tháng khô trong năm, với lượng mưa tháng khô P
s
<= 2t
t – nhiệt độ bình quân của tháng khô
A – số tháng hạn trong năm, với lượng mưa tháng hạn P
a
<= t’
t’ – nhiệt độ bình quân tháng hạn
D – số tháng kiệt trong năm, với lượng mưa tháng kiệt P <= 5mm
Chỉ số khô hạn X cho biết thời gian và mức độ khô hạn ở từng địa phương; nói
lên đặc điểm khí hậu , đồng thời cũng nói lên mùa có khả năng phát sinh cháy
rừng ở địa phương đó. Ở mỗi địa phương khác nhau thì chỉ số khô hạn cũng
khác nhau. Nếu thời gian khô hạn càng dài, đặc biệt thời gian hạn và kiệt càng
dài, thì nguy cơ cháy lớn là rất cao.

Dựa vào phương pháp này, mùa cháy rừng ở các vùng sinh thái của nước
ta được xác định như sau:
TT Vùng sinh thái
Các tháng trong năm
1 2 3 4 5 6 7 8 9
1
0
11 12
1 Tây Bắc
2 Đông Bắc
3 Đồng bằng sông Hồng
4 Bắc Trung Bộ
5 Duyên hải miền Trung
6 Tây Nguyên
7 Đông Nam Bộ
8 Đồng bằng sông Cửu Long
Tháng hạn kiệt
Tháng khô
2.1.2. Phân vùng trọng điểm dễ cháy rừng:

×