BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG
TÁC ĐỘNG CỦA THANH KHOẢN ĐỐI VỚI LỢI
NHUẬN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG
TÁC ĐỘNG CỦA THANH KHOẢN ĐỐI VỚI LỢI
NHUẬN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. UNG THỊ MINH LỆ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Nội dung và kết quả của luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của học viên và chưa
được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng
trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết
của học viên.
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình
PHẦN MỞ ĐẦU - 1 -
1. Lý do chọn đề tài - 1 -
2. Mục tiêu nghiên cứu - 2 -
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - 2 -
3.1. Đối tượng nghiên cứu - 2 -
3.2. Phạm vi nghiên cứu - 2 -
4. Câu hỏi nghiên cứu - 3 -
5. Phương pháp nghiên cứu: - 3 -
6. Kết cấu của luận văn: - 3 -
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH KHOẢN, RỦI RO THANH
KHOẢN, LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG VÀ CÁC MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THANH KHOẢN ĐẾN LỢI NHUẬN NGÂN HÀNG - 4 -
1.1. Lý luận chung về thanh khoản và rủi ro thanh khoản của ngân hàng - 4 -
1.1.1. Lý luận chung về thanh khoản của ngân hàng - 4 -
1.1.1.1. Khái niệm thanh khoản của ngân hàng - 4 -
1.1.1.2. Đo lường thanh khoản của ngân hàng - 4 -
1.1.2. Lý luận chung về Rủi ro thanh khoản của ngân hàng: - 7 -
1.1.2.1. Khái niệm Rủi ro thanh khoản - 7 -
1.1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại - 7 -
Nguyên nhân khách quan: - 7 -
Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM - 8 -
1.1.3. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại - 11 -
1.2. Lý luận chung về lợi nhuận ngân hàng - 12 -
1.2.1. Khái niệm lợi nhuận của ngân hàng - 12 -
1.2.2. Các chỉ số đo lường lợi nhuận của ngân hàng - 13 -
1.2.2.1. Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA: Return on asset) - 14 -
1.2.2.2. Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE: Return on equity) - 14 -
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa ROA và ROE: - 14 -
1.3. Mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi nhuận của ngân hàng - 15 -
1.4. Một số mô hình nghiên cứu về tác động của thanh khoản đến lợi nhuận ngân hàng
- 16 -
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 - 20 -
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THANH KHOẢN, LỢI NHUẬN VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA THANH KHOẢN ĐỐI VỚI LỢI NHUẬN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2012 - 21 -
2.1. Tổng quan hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 21 -
2.2. Thực trạng thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008-
2012 - 25 -
2.2.1. Thực trạng thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
2008-2012 - 25 -
2.2.1.1. Tỷ lệ nắm giữ tài sản thanh khoản - 26 -
2.2.1.2. Lãi suất diễn biến phức tạp - 29 -
2.2.1.3. Tăng trưởng tín dụng cao - 32 -
2.2.1.4. Tỷ lệ cho vay so với nguồn vốn huy động cao - 34 -
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản các ngân hàng thương mại Việt Nam
giai đoạn 2008-2012 - 35 -
2.2.2.1. Nguyên nhân khách quan - 35 -
2.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan - 37 -
2.3. Thực trạng về lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008-
2012 - 41 -
2.3.1. Sự tăng trưởng về quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu - 41 -
2.3.2. Các tỷ số phân tích khả năng sinh lời - 44 -
2.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
2008-2012: - 46 -
2.4. Tác động của thanh khoản đến lợi nhuận các ngân hàng thương mại Việt Nam giai
đoạn 2008-2012 - 52 -
2.4.1. Kết quả phỏng vấn một số chuyên gia tại Việt Nam - 52 -
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập dữ liệu: - 53 -
2.4.3. Mô hình nghiên cứu đề xuất - 53 -
2.4.4. Kết quả nghiên cứu: - 54 -
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 - 59 -
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO THANH
KHOẢN VÀ GIA TĂNG LỢI NHUẬN TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM - 60 -
3.1. Định hướng phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2020 - 60 -
3.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản và gia tăng lợi nhuận tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam - 62 -
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - 62 -
3.2.2. Về phía NHNN - 66 -
3.2.3. Về phía các NHTM - 70 -
3.2.3.1. Xây dựng thương hiệu có tầm cỡ khu vực và quốc tế - 70 -
3.2.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ và nhân viên có đạo đức nghề nghiệp và tinh
thông nghiệp vụ ngân hàng - 70 -
3.2.3.3. Tăng cường dự báo các điều kiện kinh tế vĩ mô - 70 -
3.2.3.4. Cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có - 71 -
3.2.3.5. Đảm bảo duy trì dự trữ sơ cấp và dự trữ thứ cấp - 73 -
3.2.3.6. Gia tăng tỷ trọng thu nhập phi tín dụng đóng góp vào lợi nhuận - 73 -
3.2.3.7. Thực hiện tốt việc quản lý rủi ro lãi suất - 74 -
3.2.3.8. Hoàn thiện cơ chế chuyển vốn nội bộ - 75 -
3.2.3.9. Kiểm soát nợ xấu - 77 -
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 - 79 -
KẾT LUẬN - 80 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - 81 -
PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CÁC NHTM CÓ DỮ LIỆU ĐƯỢC THU THẬP - 84 -
PHỤ LỤC 2: DANH SÁCH CÁC NHÓM NHTM - 86 -
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCTC
: Báo cáo tài chính
CSTT
: Chính sách tiền tệ
DN
: Doanh nghiệp
HĐV
: Huy động vốn
NHNN
: Ngân hàng nhà nước
NHTM
: Ngân hàng thương mại
NHTMCP
: Ngân hàng thương mại cổ phần
RRTK
: Rủi ro thanh khoản
TCTD
: Tổ chức tín dụng
TSC
: Tài sản có
TSN
: Tài sản nợ
TTS
: Tổng tài sản
VTC
: Vốn tự có
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Lãi suất huy động không kỳ hạn tháng 3/2011 tại một số NHTM 38
Bảng 2.2: Tổng tài sản và vốn tự có phân theo nhóm các loại hình TCTD năm 2012 43
Bảng 2.3: Tỷ lệ Nợ/Vốn chủ sở hữu của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012 46
Bảng 2.4: Các thông số thống kê mô tả 54
Bảng 2.5: Phân tích tương quan 54
Bảng 2.6: Kết quả kiểm định độ phù hợp của các biến giải thích 55
DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Số lượng các ngân hàng từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2013 22
Hình 2.2: Tăng trưởng tín dụng và HĐV trong các năm 2008-2012 23
Hình 2.3: Tỷ lệ tài sản thanh khoản 2008-2012 27
Hình 2.4: Chỉ số chứng khoán thanh khoản 2008-2012 28
Hình 2.5: Tỷ lệ nắm giữ GTCG do NN phát hành của một số NHTM có hội sở tại
TP.HCM 29
Hình 2.6: Lãi suất cơ bản năm 2008-2010 29
Hình 2.7: Tăng trưởng HĐV trong các năm 2008-2012 31
Hình 2.8: Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2008-2012 32
Hình 2.9: Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành giai đoạn 2008-QIII/2012 34
Hình 2.10: Cơ cấu dư nợ phi sản xuất cuối tháng 8/2011 40
Hình 2.11: Cơ cấu dư nợ tín dụng năm 2012 41
Hình 2.12: Tốc độ tăng trưởng TTS và VTC theo loại hình TCTD năm 2012 42
Hình 2.13: Tỷ số ROA của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012 44
Hình 2.14: Tỷ lệ ROE các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012 45
Hình 2.15: So sánh cơ cấu cho vay theo loại hình DN của VCB và ACB năm 2012 50
- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo định nghĩa của Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng, “Thanh khoản của ngân
hàng là khả năng của ngân hàng đó để tăng thêm tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ nợ
khi đến hạn mà không bị thiệt hại quá mức”. Như vậy, việc không thực hiện được hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thể hiện việc một ngân hàng đang trong
tình trạng mất khả năng thanh khoản hoặc thiếu khả năng thanh khoản. Một ngân hàng
có thanh khoản tốt nếu ngân hàng đó nắm giữ nhiều tài sản thanh khoản, dễ dàng
chuyển sang tiền mặt hoặc có khả năng huy động thêm nguồn vốn với thời gian và chi
phí thấp để đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn khi cần thiết. Có thể nhận thấy rằng, có
một sự xung đột tồn tại trong kinh doanh của các ngân hàng giữa việc nắm giữ tài sản
thanh khoản và lợi nhuận ngân hàng. Vì các tài sản có tính thanh khoản cao thường có
lợi nhuận tương đối thấp, do đó, việc nắm giữ chúng thường tốn một chi phí cơ hội đối
với ngân hàng. Các ngân hàng đôi khi bỏ qua những tài sản lợi nhuận bền vững nhưng
rủi ro thấp để chọn lựa danh mục đầu tư có rủi ro cao nhưng đem lại tỷ suất sinh lợi
cao. Trong tình huống này, dường như các ngân hàng quan tâm quá nhiều đến lợi ích
của họ trong ngắn hạn. Tuy nhiên, việc nắm giữ một lượng tài sản có tính thanh khoản
cao (như tiền mặt, trái phiếu Chính phủ, ) ngoài việc đem lại một khoản lợi nhuận ổn
định cho ngân hàng, chúng còn là những tài sản cầm cố tại Ngân hàng nhà nước để bù
đắp thiếu hụt thanh khoản khi cần thiết. Do đó, việc duy trì một tỷ lệ tài sản thanh
khoản hợp lý mà vẫn đạt được lợi nhuận mong muốn là một vấn đề các ngân hàng cần
quan tâm trong việc quản lý hoạt động kinh doanh của mình.
Tại Việt Nam, thời gian qua đã có không ít trường hợp các ngân hàng vì thiếu hụt
thanh khoản đã đánh mất một lượng khách hàng không nhỏ, ảnh hưởng kết quả hoạt
động kinh doanh và uy tín của ngân hàng.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề “Tác động của thanh khoản đối với lợi
nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam” để nghiên cứu.
- 2 -
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu mong muốn sẽ tìm ra được mối liên hệ giữa tỷ lệ nắm giữ tài sản thanh
khoản với lợi nhuận của ngân hàng, từ đó giúp cơ quan quản lý có những chính sách
điều hành phù hợp; đồng thời giúp nhà quản trị của các ngân hàng có thể cân đối tỷ lệ
nắm giữ tài sản có tính thanh khoản hợp lý để đạt được lợi nhuận mong muốn mà vẫn
đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thanh khoản của ngân hàng thương mại, tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng
thương mại;
- Mối quan hệ giữa thanh khoản và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu một số chỉ tiêu thanh khoản tác động đến tỷ suất sinh lợi của
các ngân hàng thương mại phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Trên cơ sở dữ liệu thu thập được báo cáo tài chính từ năm 2008-2012
1
, tác giả
phân chia hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam thành ba nhóm chính để nghiên
cứu, bao gồm:
Nhóm 1: Nhóm các ngân hàng thương mại có sự chi phối của nhà nước.
Nhóm 2: Nhóm 5 ngân hàng thương mại cổ phần lớn (dựa trên quy mô Vốn điều
lệ và Tổng tài sản) bao gồm NHTMCP Á Châu, NHTMCP Xuất Nhập Khẩu
Việt Nam, NHTMCP Kỹ Thương, NHTMCP Sài Gòn Thương Tín và
NHTMCP Quân Đội.
Nhóm 3: Nhóm các NHTMCP còn lại
2
.
- Số liệu nghiên cứu: Giai đoạn từ năm 2008-2012
1
Phụ lục 1
2
Phụ lục 2
- 3 -
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng về thanh khoản và lợi nhuận của hệ thống các ngân hàng thương mại
Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Thanh khoản tác động đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam như thế trong giai
đoạn nghiên cứu (2008-2012)?
- Cơ quan quản lý nhà nước và bản thân các ngân hàng cần có giải pháp gì trong
việc cân đối tỷ lệ nắm giữ tài sản có tính thanh khoản hợp lý để đạt được lợi nhuận
mong muốn mà vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của bản thân ngân
hàng?
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả mẫu nghiên cứu và phân tích thực
trạng thanh khoản và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 2008-2012.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, chọn lựa các biến có liên quan, xây
dựng mô hình kinh tế lượng để đo lường tác động của thanh khoản đến lợi nhuận của
các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008-2012.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục hình, danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia ra làm ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thanh khoản, rủi ro thanh khoản, lợi nhuận của ngân
hàng và các mô hình nghiên cứu về tác động của thanh khoản đến lợi nhuận ngân
hàng
Chương 2: Thực trạng thanh khoản, lợi nhuận và tác động của thanh khoản đối với
lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2012
Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản và gia tăng lợi nhuận đối
với các ngân hàng thương mại Việt Nam
- 4 -
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH KHOẢN, RỦI RO THANH
KHOẢN, LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG VÀ CÁC MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THANH KHOẢN ĐẾN LỢI NHUẬN NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận chung về thanh khoản và rủi ro thanh khoản của ngân hàng
1.1.1. Lý luận chung về thanh khoản của ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm thanh khoản của ngân hàng
Thanh khoản là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc nguồn vốn có thể dùng để
chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh. Một nguồn vốn được gọi là
có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động thấp và thời gian huy động nhanh. Một
tài sản được gọi là có tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển hoá thành tiền thấp và
có khả năng chuyển hoá ra tiền nhanh
3
.
Trong thực tế những tài sản có tính thanh khoản cao gồm các giấy tờ có giá như:
Trái phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu…những tài sản có tính thanh khoản thấp
như bất động sản, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị…
Như vậy, đứng trên phương diện của ngân hàng, thanh khoản là khả năng ngân
hàng đáp ứng đầy đủ và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt
động giao dịch như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch tài
chính khác.
1.1.1.2. Đo lường thanh khoản của ngân hàng
Trạng thái thanh khoản của NH được xác định thông qua mô hình Cung - Cầu về
thanh khoản.
Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, là
nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm những hoạt động sau đây:
- Các khoản tiền gửi đang chuyển.
- Doanh thu từ việc cung ứng các dịch vụ,
- Thu nợ tín dụng,
3
Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại – PGS.TS. Trần Huy Hoàng
- 5 -
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng,
- Vay mượn từ thị trường tiền tệ.
Cầu thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân hàng, các
khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, lĩnh vực kinh doanh của ngân
hàng, có những hoạt động tạo cầu thanh khoản:
- Khách hàng rút các khoản tiền gửi,
- Các nhu cầu tín dụng có chất lượng cao,
- Hoàn trả các khoản vay mượn phi tiền gửi,
- Chi phí hoạt động kinh doanh,
- Thanh toán cổ tức cho cổ đông.
Trong trường hợp nguồn cung thanh khoản không đủ để đáp ứng nhu cầu về thanh
khoản, ngân hàng sẽ rơi vào trạng thái thiếu hụt thanh khoản và phải tìm cách huy động
để bổ sung vốn thanh khoản. Thâm hụt thanh khoản xảy ra làm cho ngân hàng mất
những cơ hội đầu tư tốt có thể mang lại lợi nhuận, mất khách hàng khi họ phải đến
ngân hàng khác vay. Từ việc mất khách hàng vay vốn sẽ dẫn đến mất khách hàng tiền
gửi, vì giảm lòng tin của người gửi tiền, khả năng huy động vốn của ngân hàng kém đi.
Trong trường hợp này, nhà quản trị ngân hàng phải đưa ra quyết định ở đâu và thời
điểm nào cần phải bổ sung thanh khoản để đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp nhất và
kịp thời nhất. Ngân hàng thường áp dụng các biện pháp như: Sử dụng dự trữ bắt buộc
dư ra, bán dự trữ thứ cấp, vay qua đêm, tái chiết khấu, vay trên thị trường tiền tệ,…
Ngược lại với trạng thái thiếu hụt thanh khoản là thặng dư thanh khoản, lúc này
cung về thanh khoản lớn hơn cầu về thanh khoản, thường xảy ra khi nền kinh tế hoạt
động kém hiệu quả, ngân hàng không tiếp cận được với khách hàng hoặc không lựa
chọn được nhiều khách hàng để cho vay; do đó, nhà quản trị cần phải đưa ra quyết định
sử dụng nguồn thanh khoản thừa để đầu tư kiếm lời cho đến khi nguồn thanh khoản
này được sử dụng để đáp ứng thanh khoản trong tương lai. Thông thường, ngân hàng
- 6 -
thường sử dụng thanh khoản thừa này để mua các chứng khoán dự trữ thứ cấp đã bán
ra trước đó, cho vay trên thị trường tiền tệ,…
Để đảm bảo khả năng chi trả tức thời tại mọi thời điểm, các ngân hàng phải giám
sát hàng ngày dự trữ thanh khoản của mình. Dự trữ thanh khoản bao gồm cả dự trữ sơ
cấp bằng tiền (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi NHNN, tiền gửi các TCTD khác) và dự trữ thứ
cấp (giấy tờ có giá có đủ điều kiện để tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu, hạn mức tín dụng
được cấp bởi tổ chức tài chính khác,…). Đồng thời, các ngân hàng cần xây dựng chính
sách quản lý tài sản để đảm bảo duy trì nguồn vốn ổn định và có tính thanh khoản cao
trong dài hạn.
Theo bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF được nhiều nước áp dụng, các chỉ số
đánh giá sự lành mạnh về thanh khoản của ngân hàng bao gồm:
- Chỉ số tài sản thanh khoản trên tổng tài sản – hệ số tài sản thanh khoản (Liquid
asset to total asset – Liquid asset ratio): đo lường mức thanh khoản của ngân hàng, cho
biết khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt theo dự tính và bất thường của khách hàng.
- Tài sản thanh khoản trên nguồn vốn ngắn hạn (Liquid assets to shortterm
liabilities): cho biết khả năng đáp ứng việc rút vốn ngắn hạn của khách hàng mà không
ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng.
- Tổng tiền gửi của khách hàng so với tổng dư nợ (Customer deposit to total
noninterbank loans): dùng để phát hiện những vấn đề thanh khoản, tỷ lệ này thấp cho
thấy nguy cơ căng thẳng trong hệ thống ngân hàng và có thể là dấu hiệu dẫn đến sự suy
giảm niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng.
- Chênh lệch giữa lãi suất liên ngân hàng cao nhất và thấp nhất (Spread between
highest and lowest interbank rate): để đánh giá các vấn đề thanh khoản và rủi ro của hệ
thống ngân hàng, nếu chênh lệch càng lớn cho thấy một vài ngân hàng đang gặp vấn đề
về thanh khoản
4
.
4
Bộ chỉ số lành mạnh tài chính theo tiêu chuẩn IMF (NHNN, 2011)
- 7 -
1.1.2. Lý luận chung về Rủi ro thanh khoản của ngân hàng:
1.1.2.1. Khái niệm Rủi ro thanh khoản
Theo A.Vento, rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro của ngân hàng khi ngân hàng
không có đủ các nguồn tài chính để thanh toán các nghĩa vụ nợ vào thời điểm đến hạn,
hoặc là phải sử dụng những nguồn tài chính với chi phí cao mặc dù ngân hàng vẫn có
khả năng thanh toán
5
.
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không có đủ lượng tiền mặt để đáp ứng
nhu cầu rút tiền tức thì của khách hàng, hoặc không thể thực hiện các cam kết giải ngân
các khoản tín dụng đến hạn như đã cam kết. Khi đó, ngân hàng phải chuyển đổi các tài
sản khác thành tiền mặt, hoặc huy động các nguồn vốn từ bên ngoài với chi phí cao
như vay trên thị trường liên ngân hàng, vay tái chiết khấu,…
Rủi ro thanh khoản là một trong những dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang rơi vào
tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Hậu quả là ngân hàng mất dần các khoản
tiền gửi cũ vì áp lực rút tiền ngày càng gia tăng, không thể thu hút thêm các khoản tiền
gửi mới vì thái độ dè dặt của công chúng đối với ngân hàng, một số ngân hàng thì ở
trong tình thế cho vay một cách miễn cưỡng vì phải huy động vốn với mức lãi suất cao
hơn lãi suất cho vay, làm suy giảm hơn nữa lợi nhuận của ngân hàng.
1.1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản của ngân hàng
thương mại
Nguyên nhân khách quan:
- Chính sách tiền tệ của NHNN:
Để thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về chính sách tiền tệ, NHNN sử
dụng ba công cụ bao gồm nghiệp vụ thị trường mở, quy định về dự trữ bắt buộc, và áp
dụng lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá của NHTM.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động của NHNN mua hoặc bán cho NHTM trái
phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu của chính NHNN. Khi muốn
5
A.Vento (2009)
- 8 -
tăng cung tiền, NHNN mua trái phiếu từ các NHTM, số tiền mà NHNN trả cho NHTM
làm tăng cung tiền cho nền kinh tế đồng thời cũng làm tăng cung thanh khoản cho
NHTM. Ngược lại, khi muốn giảm cung tiền, NHNN bán trái phiếu cho các NHTM, số
tiền mà NHNN thu về làm giảm cung ứng tiền tệ của nền kinh tế đồng thời cũng làm
giảm cung thanh khoản của NHTM.
Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc là biện pháp điều chỉnh mà NHNN bắt buộc các
NHTM phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối thiểu tại NHNN. Nếu tỷ lệ bắt buộc
quy định cao thì sẽ làm cho nguồn cung thanh khoản của NHTM tăng và ngược lại.
Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là lãi suất mà NHNN áp dụng khi NHNN chiết
khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá từ NHTM. Nếu lãi suất này thấp, tức chi phí
vay tiền từ NHNN rẻ, đây sẽ là nguồn vốn giá rẻ mà các NHTM có thể dễ dàng huy
động để đáp ứng cầu thanh khoản.
- Chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp:
Theo thời vụ ở những tháng cuối năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết toán công nợ cho những doanh
nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực hiện cam kết giải ngân
cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa tạo nên một chu kỳ
căng thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Điều này làm cho dòng tiền quay
trở lại ngân hàng không cao mặc dù lãi suất có thể tiếp tục tăng nóng.
- Ngoài ra, những sự cố khách quan khác cũng có thể là yếu tố làm gia tăng RRTK
cho NHTM như sự mất lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng, khách hàng mất
khả năng chi trả, …
Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM
- Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ:
Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định
chế tài chính khác, sau đó chuyển hoá chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn. Do
đó, đã xảy ra tình trạng mất cân xứng giữa ngày đáo hạn của các khoản sử dụng vốn và
- 9 -
ngày đáo hạn của các nguồn vốn huy động, thường gặp nhất là dòng tiền thu hồi từ các
tài sản đầu tư nhỏ hơn dòng tiền phải chi ra để chi trả tiền gửi đến hạn. Do đó, dòng
tiền vào bên tài sản có thường không trùng khít để trang trải dòng tiền ra bên tài sản
nợ. Vậy nên, NHTM luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh
khoản.
- Biến động lãi suất:
Tiền gửi ngân hàng rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất đầu tư. Khi lãi suất
trên thị trường tài chính thay đổi, khách hàng gửi tiền có xu hướng rút tiền gửi của họ ở
NHTM có lãi suất thấp và tìm kiếm NHTM khác có lãi suất huy động cao hơn. Trong
khi đó, những khách hàng có nhu cầu tín dụng sẽ tìm cách trì hoãn việc hoàn trả các
khoản nợ đã đáo hạn hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất đã thỏa
thuận với NHTM có lãi suất thấp, tìm cách trả trước hạn hoặc trì hoãn việc rút vốn vay
với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất cao. Như vậy, biến động lãi suất
đồng thời ảnh hưởng đến cả tiền gửi và tiền vay tức dòng tiền vào, dòng tiền ra và sau
đó là đến thanh khoản của NHTM.
- Tính chất đặc biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn sẵn sàng
đáp ứng cầu thanh khoản:
Đối với lĩnh vực kinh doanh khác (không phải kinh doanh tiền tệ), các doanh
nghiệp có thể trì hoãn nợ với khách hàng, chậm thanh toán với đối tác, thậm chí chủ
động chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh,… Nhưng với NHTM kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ hết sức nhạy cảm, các ngân hàng không thể làm như vậy. Bất kỳ một sự
thiếu hụt nào về thanh khoản đều có thể gây tâm lý lo lắng trong công chúng, và nếu
NHTM không giải quyết ngay khó khăn này, khách hàng gửi tiền có thể đồng loạt kéo
đến ngân hàng để rút tiền, trạng thái thiếu hụt thanh khoản sẽ trở nên trầm trọng và
NHTM có thể bị phá sản. Mặt khác, trên bảng cân đối kế toán của NHTM, bên tài sản
nợ luôn có một tỷ lệ nhất định các khoản tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn
nhưng có thể rút trước hạn. Đây là những tài sản nợ mà NHTM có nghĩa vụ phải trả
- 10 -
ngay lập tức nếu khách hàng có nhu cầu rút, vì thế NHTM luôn luôn sẵn sàng đáp ứng
nhu cầu thanh khoản.
- Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém:
Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho
một ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ; hoặc trong tổng
huy động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút vốn một cách bất ngờ
thì dẫn đến rủi ro thanh khoản.
- Rủi ro mất cân đối trong cơ cấu tài sản:
Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều
hành mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị TSN và TSC. Trong danh mục tài
sản của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó quan
trọng nhất là trái phiếu chính phủ và/hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ/tín
phiếu kho bạc mặc dù lãi suất không hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ quan
trọng cho ngân hàng để nhận chiết khấu từ NHNN một khi thanh khoản có vấn đề.
Điều này, bất cứ ngân hàng nào, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu nhưng với tiềm
lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng lớn hơn trong việc đấu
thầu các loại tài sản trên.
- Rủi ro từ tính lỏng của tài sản không ổn định:
Tính lỏng của tài sản là đặc tính của tài sản có thể chuyển nhanh sang tiền mặt. Một
NHTM có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của ngân hàng
này giảm sút, ngân hàng này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến
được trước hay một sự kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc
cho vay đối với ngân hàng đó, đồng thời cũng đối mặt với RRTK nếu thị trường hoạt
động của ngân hàng này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. RRTK thường đi kèm
với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì
ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của
ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ
- 11 -
các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với
rủi ro vỡ nợ. Như vậy, RRTK gắn liền với rủi ro tín dụng.
RRTK là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặc biệt là
đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp, một tổ chức kinh
tế có tài sản rất nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố RRTK này
khi “tính lỏng” của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở
mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh
của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể.
1.1.3. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại
Hệ thống NHTM đóng vai trò cơ bản như là người tạo thanh khoản cho nền kinh tế
thông qua các hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay và nhiều hoạt động tài chính
khác. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán,
tức là phải đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và các nhu
cầu thanh toán đột xuất. Rủi ro này có thể dẫn đến phá sản một ngân hàng ngay cả khi
ngân hàng đó vẫn đảm bảo hoạt động có lợi nhuận. RRTK của một ngân hàng không
chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và uy tín của bản thân ngân hàng đó, mà nó
còn có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống ngân hàng, tiềm ẩn khả năng đổ vỡ hệ
thống. Thật vậy, khi một ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả, với vai trò
điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế, ngân hàng trung ương sẽ hỗ trợ thanh khoản cho
ngân hàng này thông qua các nghiệp vụ của mình, làm gia tăng rủi ro cho cả hệ thống
và gia tăng chi phí cứu trợ. Mặt khác, RRTK có hiệu ứng lan truyền do các ngân hàng
thường vay mượn lẫn nhau. Khi một ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản
vay nợ sẽ làm ảnh hưởng đến các ngân hàng khác và từ đó kéo theo sự sụp đỗ của toàn
bộ hệ thống.
Như vậy, đối với bản thân ngân hàng, khi xảy ra RRTK, tùy theo mức độ nghiêm
trọng mà ngân hàng có thể phải chấp nhận chuyển hóa các tài sản có thanh khoản thành
- 12 -
tiền với chi phí cao; tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt
khe hơn, ví dụ, phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn
nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay; đình trệ
hoạt động dẫn đến giảm thu nhập; mất uy tín dẫn đến mất khách hàng.
Trong trường hợp đặc biệt, RRTK có thể đẩy ngân hàng tới tình trạng mất khả năng
thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng. Khi một ngân hàng mất đi khả
năng thanh khoản thì sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối với không chỉ chính bản thân ngân
hàng mà còn đối với khách hàng của các ngân hàng khác. Họ sợ rằng, ngân hàng nơi
mình gửi tiền cũng có thể phá sản nên tìm mọi cách để rút tiền khỏi ngân hàng đó. Nếu
niềm tin của công chúng bị lung lay thì có thể dẫn đến hàng loạt ngân hàng mất khả
năng thanh toán chỉ trong một thời gian ngắn và khiến cả hệ thống ngân hàng rơi vào
tình trạng hỗn loạn, sự hỗn loạn này của hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội - chính trị của một quốc gia.
1.2. Lý luận chung về lợi nhuận ngân hàng
1.2.1. Khái niệm lợi nhuận của ngân hàng
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ban hành năm 2010 (điều 4, khoản 3) chỉ rõ: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân
hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Như vậy, ngân hàng thực
chất cũng là một doanh nghiệp, nhưng điểm làm nên sự khác biệt của những doanh
nghiệp này chính là họ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Do đó, hoạt động của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường cũng là hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
Lợi nhuận của ngân hàng là khoản chênh lệch được xác định giữa tổng doanh thu
phải thu trừ đi tổng các khoản chi phí phải trả. Lợi nhuận thực hiện trong năm là kết
quả kinh doanh của ngân hàng bao gồm lợi nhuận hoạt động nghiệp vụ và lợi nhuận
các hoạt động khác.
Lợi nhuận gộp = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
- 13 -
Lợi nhuận ròng = Lợi nhuận gộp – Thuế thu nhập
(Thuế thu nhập được Nhà nước quy định theo từng thời kỳ)
Trong đó:
Thu nhập của ngân hàng bao gồm:
- Thu về hoạt động tín dụng (thu lãi cho vay, thu lãi chiết khấu, phí cho thuê tài
chính, phí bão lãnh,…)
- Thu về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ (thu lãi tiền gửi, dịch vụ thanh toán, dịch
vụ ngân quỹ,…)
- Thu từ các hoạt động khác như: thu lãi góp vốn, mua cổ phần; thu về mua bán
chứng khoán; thu về kinh doanh ngoại tệ; …
- Các khoản thu khác bất thường.
Chi phí của ngân hàng bao gồm:
- Chi về hoạt động huy động vốn (trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền tiết kiệm, trả lãi tiền
vay, trả lãi kỳ phiếu trái phiếu,…).
- Chi về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
- Chi về các hoạt động khác
- Chi nộp thuế, các khoản phí, lệ phí,…
- Chi về tài sản (khấu hao tài sản cố định, chi sửa chữa tài sản, chi về công cụ dụng
cụ,…)
- Chi dự phòng
- Chi cho nhân viên
- Chi khác
1.2.2. Các chỉ số đo lường lợi nhuận của ngân hàng
Để đánh giá hiệu qủa hoạt động của ngân hàng, người ta thường dùng các chỉ tiêu
liên quan đến lợi nhuận như sau:
- 14 -
1.2.2.1. Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA: Return on asset)
ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý của ngân hàng, cho thấy khả
năng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng.
ợậò
ổàảàảóìâ
Trong đó, ta thường sử dụng Tổng tài sản có bình quân để phản ảnh đúng đắn hơn
quá trình thay đổi tài sản của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE: Return on equity)
ROE đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập
mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư nguồn vốn vào ngân hàng.
ò
óìâ
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa ROA và ROE:
ò
ợậò
ổàả
x
ổàả
ốủởữ
ROA = ROE x
ổàả
ốủởữ
Trong đó:
Tỷ số đòn bẩy tài chính =
ổốủởữ
ổàả
Mối quan hệ trên cho thấy, thu nhập của một ngân hàng rất nhạy cảm với phương
thức tài trợ tài sản (sử dụng nhiều nợ hơn hay nhiều vốn chủ sở hữu hơn). Một ngân
hàng có ROA thấp vẫn có thể đạt ROE ở mức cao nếu như sử dụng nhiều nợ (gồm cả
tiền gửi của khách hàng) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu trong quá trình tài trợ tài
sản.
- 15 -
1.3. Mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi nhuận của ngân hàng
Trong quản trị thanh khoản, các ngân hàng hướng đến ba mục tiêu chính: Mục tiêu
thanh khoản, mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu vì sự an toàn của hệ thống.
Thứ nhất, với mục tiêu thanh khoản, nhà quản trị phải biết làm thế nào để đảm bảo
được các yêu cầu, trách nhiệm, nghĩa vụ tài chính sẽ đến hạn trong tương lai và khả
năng đáp ứng nghĩa vụ đó một cách tốt nhất.
Thứ hai, ngành ngân hàng là ngành kinh doanh tiền tệ có tính đặc thù, nhạy cảm,
giữa các ngân hàng có sợi dây liên kết đặc biệt, chỉ một biến động hay bất ổn của ngân
hàng này có thể ảnh hưởng đến các ngân hàng khác, từ đó ảnh hưởng đến sự an toàn
của cả hệ thống. Sự ổn định của các ngân hàng được đảm bảo khi thanh khoản của tất
cả các ngân hàng đều tốt. Đây là mục tiêu vì sự an toàn hệ thống trong quản trị thanh
khoản.
Thứ ba, mục tiêu quan trọng nhất của quản trị thanh khoản nói riêng và toàn bộ
hoạt động của ngân hàng nói chung chính là lợi nhuận. Nhiều ngân hàng có thể hướng
đến chính sách quản trị chấp nhận rủi ro cao để có thể đạt được lợi nhuận hợp lý. Điều
quan trọng là một ngân hàng có thể đo lường rủi ro để thực hiện lợi nhuận khả quan
hơn trong kỳ tới với những thách thức của thị trường và các chính sách điều hành của
nhà nước. Việc duy trì một trạng thái thừa thanh khoản sẽ làm cho ngân hàng không
tận dụng được hết nguồn lực để tăng lợi nhuận; ngược lại, việc thiếu hụt thanh khoản
sẽ làm ngân hàng gia tăng chi phí khi có các biến động nguồn vốn xảy ra.
Như vậy, thanh khoản và lợi nhuận là hai đại lượng có mục tiêu khác nhau, tỷ lệ
nghịch về lợi ích với nhau. Tuy nhiên, nếu xét một cách chi tiết thì không phải thanh
khoản và lợi nhuận trái ngược nhau mà thanh khoản giúp cho lợi nhuận tốt hơn. Thanh
khoản phải được ưu tiên, khi đó, lợi nhuận đã thu giữ mới được đảm bảo tồn tại, nếu
không thì việc tạo lại thanh khoản khi đã mất càng làm cho những khoản lợi nhuận
kiếm được mất đi. Tiếp cận ở khía cạnh này thì sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo, người