BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HÀ THÀNH
ĐỀ TÀI :
QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG
TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM-
CHI NHÁNH 5 TPHCM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HÀ THÀNH
ĐỀ TÀI :
QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG
TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM-
CHI NHÁNH 5 TPHCM
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
MÃ SỐ :60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN VĂN SĨ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt i
Danh mục các bảng biểu ii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1-Lý thuyết về quản lý nợ xấu của các Ngân hàng thương mại 3
1.1. Tổng quan về nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Khái niệm nợ xấu 3
1.1.1.1. Nợ xấu theo quan điểm thế giới 3
1.1.1.2. Nợ xấu theo quan điểm Việt Nam 4
1.1.2. Nguyên nhân hình thành nên nợ xấu 6
1.1.2.1. Nguyên nhân khách quan 6
1.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan 9
1.2. Lý thuyết về quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại 11
1.2.1. Khái niệm quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại 11
1.2.2. Mục tiêu của quản lý nợ xấu 12
1.2.3. Nội dung của quản lý nợ xấu 12
1.2.3.1. Xây dựng chiến lược và thực thi quản lý nợ xấu 12
1.2.3.2. Các biện pháp xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại 14
1.3. Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại 18
1.4. Khái quát về quản lý nợ xấu của một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam 18
1.4.1. Trung Quốc 18
1.4.2. Thái Lan 19
1.4.3. Hàn Quốc 20
1.4.4. Mỹ 21
1.4.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 22
Chương 2-Thực trạng nợ xấu và quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam- Chi nhánh 5 TPHCM 24
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh 5TPHCM. 24
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
– Chi nhánh 5 TPHCM 24
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi
nhánh 5 TP.HCM 25
2.1.3. Kết quả hoạt động của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh 5
TPHCM trong thời gian qua 25
2.2. Thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi
nhánh 5 TPHCM 30
2.3. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi
nhánh 5 TPHCM 33
2.3.1. Hệ thống pháp luật về quản lý nợ xấu 33
2.3.2. Thực trạng xây dựng chiến lược quản lý nợ xấu 34
2.3.3. Thực trạng quản lý nợ xấu 35
2.3.3.1. Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp vay vốn và cơ cấu lại nợ 35
2.3.3.2. Xử lý tài sản đảm bảo, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh 37
2.3.3.3. Sử dụng hệ thống pháp luật để giải quyết nợ xấu 39
2.3.3.4. Sử dụng dự phòng rủi ro 40
2.3.3.5. Bán các khoản nợ 41
2.3.3.6. Chứng khoán hoá các khoản nợ xấu 41
2.4. Thực trạng nợ xấu ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam – Chi nhánh 5 TPHCM 42
2.5. Đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam –
Chi nhánh 5 TPHCM 44
2.5.1. Những mặt đạt được 44
2.5.2. Những mặt hạn chế 45
2.5.3. Nguyên nhân tồn tại 46
Chương 3-Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP
Công Thương Việt Nam-Chi nhánh 5 TPHCM 49
3.1. Định hướng hoạt động và quản lý nợ xấu của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt
Nam – Chi nhánh 5 TPHCM đến năm 2015 49
3.1.1. Định hướng hoạt động của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi
nhánh 5 TPHCM đến năm 2015 49
3.1.2. Định hướng quản lý nợ xấu của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam– Chi
nhánh 5 TPHCM đến năm 2015 50
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương
Việt Nam – Chi nhánh 5 TPHCM 50
3.2.1. Các giải pháp về tín dụng 50
3.2.1.1. Hoàn thiện quy trình tín dụng và nâng cao chất luợng thẩm định 50
3.2.1.2. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát khách hàng 53
3.2.1.3. Định giá và tái định giá giá trị tài sản đảm bảo 54
3.2.1.4. Hoàn thiện qui trình quản lý và xử lý nợ có vấn đề 55
3.2.1.5. Xây dựng bộ cẩm nang tín dụng cho cán bộ tín dụng của ngân hàng 55
3.2.1.6. Hoàn thiện công tác phân loại nợ xấu 55
3.2.1.7. Hoàn thiện công tác xử lý nợ xấu 57
3.2.2. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác quản trị rủi ro 61
3.2.3. Các giải pháp về hệ thống thông tin 61
3.2.4. Các giải pháp về nguồn nhân lực 62
3.2.5. Các giải pháp về kiểm tra, giám sát 63
3.3. Các giải pháp hỗ trợ 64
3.3.1. Đối với Chính phủ 64
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước 66
3.3.3. Đối với toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam 69
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO iii
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CBTD : Cán bộ tín dụng
CN5 : chi nhánh 5 TPHCM
DN : Doanh nghiệp
DPRR : Dự phòng rủi ro
GHTD : Giới hạn tín dụng
KHDN : Khách hàng Doanh nghiệp
NHCT : Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
TCTD : Tổ chức tín dụng
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
Trđ : triệu đồng
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1- Nguồn vốn huy động giai đoạn 2008-2012 26
Bảng 2.2- Dư nợ cho vay giai đoạn 2008-2012 27
Bảng 2.3-Số lượng thẻ ATM và thẻ tín dụng phát hành giai đoạn 2008-2012 27
Bảng 2.4- Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại giai đoạn 2008-2012 28
Bảng 2.5 -Thu dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2008 – 2012 29
Bảng 2.6- Kết quả hoạt động giai đoạn 2008 – 2012 29
Bảng 2.7- Cơ cấu nợ xấu theo nhóm nợ 30
Bảng 2.8- Cơ cấu nợ xấu theo loại hình khách hàng 31
Bảng 2.9-Cơ cấu nợ xấu theo mục đích vay vốn 32
Bảng 2.10-Số tiền cơ cấu nợ của khách hàng vay giai đoạn 2008 – 2012 37
Bảng 2.11 -Số tiền thu nợ thông qua biện pháp phát mãi tài sản của chính khách hàng vay
giai đoạn 2008 – 2012 38
Bảng 2.12- Số tiền thu nợ thông qua biện pháp phát mãi tài sản của bên bảo lãnh / bên thứ 3
giai đoạn 2008 – 2012 39
Bảng 2.13- Số tiền thu nợ thông qua biện pháp khởi kiện giai đoạn 2008 – 2012 39
Bảng 2.14-Số tiền dự phòng rủi ro sử dụng để xử lý nợ giai đoạn 2008 – 2012 40
Bảng 2.15-Nợ xấu, lãi suất bình quân và thu nhập tương ứng giai đoạn 2008 – 2012 43
Bảng 2.16-Kết quả hoạt động giai đoạn 2008 – 2012 43
1
MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Thời gian qua, hoạt động của hệ thống NHTM đang phải đối mặt với nhiều khó khăn
và thách thức. Vấn đề trọng tâm hiện nay là xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM, bởi nó làm
tắc nghẽn dòng tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, xử lý nợ xấu là bước đi quan
trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại, đã
và đang ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước,
đến lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế, tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các
ngân hàng.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên tác giả đã chọn vấn đề:“Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh 5 TPHCM” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Để có thể giải quyết được vấn đề nghiên cứu đặt ra và với qui mô của một luận văn, tôi
cho rằng vấn đề quan trọng đầu tiên mà tôi cần giải quyết là tìm hiểu các lý thuyết về nợ
xấu trong bối cảnh hiện tại và thực tiễn vấn đề nợ xấu và quản lý nợ xấu tại Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh 5 TPHCM. Chỉ có thế, tôi mới đưa ra được
các giải pháp nhằm nâng cao khả năng quản lý nợ xấu tại ngân hàng này.
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu các cơ chế, quy định, quy trình quản lý nợ xấu trên thế giới
để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Qua đó, đề tài đi sâu phân tích thực trạng nợ
xấu và thực trạng quản lý nợ xấu cũng như biện pháp xử lý nợ xấu tại NH TMCP Công
Thương Việt Nam – CN 5 trong thời gian qua. Qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – CN 5.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích hệ thống, thống kê, so sánh. Do những hạn
chế khách quan mang tính ngành nghề nên đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp điều tra
phân tích. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp phân tích không có nghĩa mang nặng tính
2
lý thuyết mà cách tiếp cận và giải quyết vấn đề dựa trên tính logic của hiện tượng kinh tế,
các quy luật kinh tế và các lý thuyết kinh tế để suy luận.
Dựa trên các số liệu thống kê, báo cáo của Ngân hàng TMCP Công Thuơng Việt Nam
– Chi nhánh 5 TPHCM và Ngân hàng nhà nước Việt Nam –chi nhánh TPHCM. Sau khi
dùng phương pháp phân tích sơ bộ, căn cứ trên kết quả phân tích, rút ra những mặt đạt được
- chưa được và ra kết luận cũng như đề xuất các giải pháp cần thực hiện để nâng cao chất
lượng quản lý và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – CN5.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa quan trọng về mặt thực tiễn. Nó đưa ra cái nhìn tổng
quát về một lĩnh vực trọng yếu hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh của NHTM – lĩnh vực
quản lý nợ xấu. Đề tài cung cấp một bức tranh toàn cảnh về hoạt động quản lý xấu trong
những năm gần đây và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu tại
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – CN 5 nói riêng và toàn hệ thống Ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam nói chung.
Do những hạn chế nhất định nên đề tài chỉ dừng lại ở nội dung kiện toàn các quy trình,
biện pháp quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – CN 5. Thực tế,
bối cảnh hội nhập có rất nhiều vấn đề mà ngân hàng cần phải đối mặt và cải cách để nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình. Đề tài có thể mở rộng nghiên cứu đánh giá thực trạng
hoạt động và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu của toàn hệ
thống Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam hay có thể mở rộng ra hệ thống NHTM
trên địa bàn TPHCM.
Kết cấu của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1 :Lý thuyết về quản lý nợ xấu của các NHTM
Chương 2:Thực trạng nợ xấu và quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công Thương
Việt Nam-Chi nhánh 5 TPHCM
Chương 3:Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam- chi nhánh 5 TPHCM
3
CHƢƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nợ xấu tại các NHTM.
1.1.1. Khái niệm nợ xấu.
1.1.1.1. Nợ xấu theo quan điểm thế giới.
Theo ngân hàng Trung ương Liên minh Châu Âu.
Nợ xấu trong các NHTM gồm:
- Những khoản nợ không thể thu hồi được: những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những
khoản nợ không có căn cứ để đòi bồi thường từ nợ; người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích,
không còn tài sản để thanh toán nợ; những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được
với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ; những khoản nợ mà khách nợ đã
chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn
lại không đủ để trả nợ.
- Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng: là những khoản nợ không có tài sản
thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng
để trả và lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không
thể thu hồi được đầy đủ.
Theo định nghĩa Nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hợp quốc.
Về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc
chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng
có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
Theo Basel II.
Tháng 6 năm 2004, ủy ban Basel đã xây dựng Hiệp định mới về “Tiêu chuẩn vốn
quốc tế” - mà chúng ta vẫn gọi là Basel II, và được chỉnh sửa liên tục trong các thời gian
4
tiếp theo. Theo đó, các ngân hàng sẽ sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu của nội bộ để đánh giá
vấn đề rủi ro tín dụng, từ đó xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu.
Cụ thể, theo yêu cầu của Basel II, các ngân hàng sẽ sử dụng các mô hình dựa trên hệ
thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín dụng. Các ngân hàng sẽ xác định các
biến số như PD - Probability of Default: xác suất khách hàng không trả được nợ; LGD: Loss
Given Default - tỷ trọng tổn thất ước tính; EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách
hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Thông qua các biến số trên, ngân hàng sẽ
xác định được EL: Expected Loss - tổn thất có thể ước tính.
Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa trên công thức
sau:
EL = PD x EAD x LGD
1.1.1.2. Nợ xấu theo quan điểm Việt Nam.
Quan niệm về nợ xấu của ngân hàng trước năm 2000.
Trước năm 2000, hệ thống NHTM Việt Nam chưa có quy định cụ thể về nợ xấu mà chỉ
có các quy định về nợ quá hạn, nợ khó đòi phát sinh trong hoạt động tín dụng của các NHTM.
Khi đó, nợ xấu trong thời kỳ này bao gồm các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi và việc
phân loại nợ xấu được xác định theo thời gian quá hạn bao gồm: nợ quá hạn dưới 90 ngày,
nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày, nợ quá hạn từ trên 180 ngày đến 360 ngày, nợ quá hạn
trên 360 ngày, trong đó các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày được gọi là nợ khó đòi. Theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các TCTD chỉ có thể chuyển nợ quá hạn đối
với từng kỳ hạn trả nợ bị quá hạn, không được chuyển toàn bộ khoản vay sang nợ quá hạn.
Việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ cụ thể được căn cứ vào nguyên nhân khách quan hoặc
chủ quan dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi không thu hồi được.
Quan niệm về nợ xấu theo Quyết định 149/2001/QĐ-TTg.
Ngày 05/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 149/2001/QĐ-
TTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM. Theo Quyết định này có thể
hiểu nợ xấu bao gồm các khoản nợ tồn đọng phát sinh trước thời điểm 31/12/2000 và không
5
có khả năng trả nợ, mặc dù ngân hàng áp dụng nhiều giải pháp theo quy định hiện hành
nhưng vẫn không thu hồi được nợ. Như vậy, khác với giai đoạn trước, các NHTM phân loại
các khoản nợ xấu tồn đọng không căn cứ vào thời gian quá hạn cụ thể mà căn cứ vào tính
chất và khả năng thu hồi nợ thông qua các biện pháp bảo đảm của khoản vay (có TSBĐ
hoặc không có TSBĐ) và tình trạng pháp lý khách hàng (không còn tồn tại hoặc còn tồn tại,
hoạt động) để phân loại thành 03 nhóm nợ tương ứng với các cơ chế xử lý kèm theo khác
nhau, bao gồm: (i) Nợ xấu tồn đọng có TSBĐ (nợ tồn đọng nhóm 1); (ii) Nợ xấu tồn đọng
không có TSBĐ và không còn đối tượng thu hồi (nợ tồn đọng nhóm 2);(iii) Nợ xấu tồn đọng
không có TSBĐ nhưng con nợ đang còn tồn tại, hoạt động (nợ tồn đọng nhóm 3).
Quan niệm về nợ xấu theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (giai đoạn hiện
nay)và Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/03/2013(sẽ có hiệu lực kể từ
ngày 01/06/2014).
Theo đó ,nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”.
Các tiêu chí để phân loại nợ xấu cụ thể như sau:
Trích Điều 6, Điều 7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
* Phân loại nợ theo phương pháp định lượng:
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả
nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 ở trên; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng
không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; các khoản nợ khác được phân loại
vào nhóm 3.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; các khoản nợ khác
được phân loại vào nhóm 4.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả
6
nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 3
trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; các
khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5.
* Phân loại nợ theo phương pháp định tính:
Nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là không
có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là có
khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 - Nợ nghi ngờ bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng tổn
thất cao.
Nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/03/2013 mở rộng định nghĩa các khoản vay.
Định nghĩa mới bao gồm cả (i) các khoản vay bằng thẻ tín dụng ; (ii) các khoản mục ngoại
bảng; (iii) đầu tư vào trái phiếu công ty chưa niêm yết, (iv) đầu tư ủy thác và (v) tiền gửi tại
các tổ chức tín dụng (TCTD) khác do đó đối tượng phân loại nợ sẽ rộng hơn so với quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN
1.1.2. Nguyên nhân hình thành nên nợ xấu.
1.1.2.1. Nguyên nhân khách quan.
Đây là những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp gây ra tình trạng nợ xấu tại ngân
hàng, tuy nhiên lỗi chính không nằm về phía ngân hàng.
- Môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh doanh và tài chính của các DN
suy giảm
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao. Những tác động tiêu cực
này khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại. Trong khi đó, tại các DN chỉ
số tồn kho tăng mạnh,dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và phần vốn vay ngân
7
hàng khi đến hạn không có khả năng thanh toán dẫn đến nợ quá hạn Bên cạnh đó, rất nhiều
DN hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu
nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế. Vì vậy, khi môi
trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng, đồng thời tiêu thụ
hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh và khả
năng trả nợ vay ngân hàng của DN.
- Do sự mất ổn định và thiếu đồng bộ, hợp lý của pháp luật, môi trường pháp lý cho kinh
doanh tín dụng chưa đầy đủ.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật văn bản dưới luật hướng
dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn
bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động của Ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và
gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số vấn đề cưỡng chế và thu hồi nợ như trường hợp
khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý TSBĐ nợ vay. Thực tế, NHTM
không làm được điều này vì NHTM không có chức năng chế buộc khách hàng…cùng nhiều
các quy định khác dẫn đến tình trạng không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn
đọng. Chính vì môi trường pháp lý không chặt chẽ tạo cho khách hàng có cơ hội lợi dụng sơ
hở của pháp luật, gây bế tắc cho Ngân hàng khi giải quyết các khoản thu hồi.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra Ngân hàng và đảm
bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải tiến căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra
giám giát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ
mới thanh tra Ngân hàng vẫn chưa theo kịp. Thanh tra Ngân hàng còn hoạt động một cách
thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro
và vi phạm. Do vậy, có những sai phạm của NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo,
có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả xảy ra rồi mới can thiệp.
-Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
8
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về DN và Ngân
hàng. Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước họat động bước đầu đáng
khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa
phải là cơ quan định mức tín nhiệm DN một cách độc lập và có hiệu quả, thông tin cung cấp
còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức cho Ngân hàng trong việc mở rộng và
kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.
- Chức năng kinh doanh độc lập, quyền tự quyết của ngân hàng chưa được đảm bảo.
Mặc dù pháp luật đã chỉ rõ chức năng của NHTM là chức năng kinh doanh, nhưng
thực tế các ngân hàng không thể tránh khỏi những tác động, chỉ thị của NHNN, của Chính
phủ nhằm can thiệp, chi phối hoạt động kinh doanh của họ. Việc các NHTM nhà nước vẫn
chưa tách bạch được những khoản vay thương mại và vay phi thương mại nên tỷ lệ nợ quá
hạn cao đối với các khoản vay phi thương mại theo sự chỉ đạo như: cho vay đánh bắt cá xa
bờ, cho vay thu mua nông sản để bình ổn giá, các dự án đã được duyệt trước,… Ngay cả
NHNN – cơ quan quyền lực cao nhất trong lĩnh vực ngân hàng cũng đã lấn sân các NHTM,
can thiệp sâu vào hoạt động cho vay của NHTM. Chính vì vậy, NHTM đã nảy sinh tính ỷ lại
vào NHNN khi gặp khó khăn, gây hạn chế tính chủ động kinh doanh.
- NHNN chưa đủ mức độ độc lập để điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả. Hơn nữa, NHNN
còn nhiều hạn chế về trình độ nghiệp vụ thanh tra giám sát hệ thống tài chính. Hệ thống bộ
máy tổ chức NHNN theo tỉnh, thành phố và quan hệ quản lý hành chính càng làm giảm tính
độc lập của NHNN.
- Trình độ, năng lực quản lý, điều hành yếu kém của khách hàng.
Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn gây nên tình trạng
nợ xấu cho NHTM. Việc sử dụng tiền vay hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào trình
độ và năng lực điều hành sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Có một thực tế là khi DN
vay tiền của Ngân hàng để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đa phần là tập trung vốn
đầu tư về tài sản vật chất chứ ít DN nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ
máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh
phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của phương án sản
9
xuất kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Thêm vào đó, do hạn chế về kiến thức kinh doanh nên khi lập các phương án kinh
doanh, các dự án đầu tư, DN đã không tính đến những biến động của thị trường, đưa ra
những phương án kinh doanh không hiệu quả, quản lý vốn lỏng lẻo nên bị các đơn vị khác
chiếm dụng vốn quá nhiều, đầu tư dàn trải không hiệu quả, dẫn đến làm ăn thua lỗ, không
trả được nợ cho Ngân hàng.Một số DN sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tài
sản cố định làm cho vốn bị đọng gây ra nợ quá hạn cho ngân hàng.
- Các nguyên nhân xuất phát từ vấn đề đạo đức khách hàng.
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay, cố ý lừa đảo Ngân
hàng để chiếm đoạt tài sản. Nó biểu hiện là hành động có chủ ý của người vay, được tính
toán chuẩn bị trước nhằm mục đích chiếm đoạt tiền vay của Ngân hàng. Họ tìm cách làm
giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, hoặc điều chỉnh các báo cáo tài chính, hay làm các hóa
đơn, chứng từ mua bán khống…để vay được vốn của Ngân hàng sau đó sử dụng tiền vay
không đúng mục đích, không trả nợ. Trường hợp này không nhiều, tuy nhiên, khi vụ việc
phát sinh lại ảnh hưởng hết sức nặng nề, Ngân hàng khó thu hồi được nợ, có nguy cơ bị mất
vốn hoàn toàn hoặc chỉ thu hồi được một phần, làm liên quan đến uy tín của cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các DN khác.
1.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan.
- Sự yếu kém trong công tác xây dựng và thực thi chiến lược quản lý nợ xấu.
Với tình hình thực tiễn của nền kinh tế và đặc điểm của mỗi ngân hàng thì chiến lược
quản lý nợ xấu phải được xây dựng sao cho phù hợp. Tuy nhiên, do sự yếu kém trong công
tác này, các sai lầm ví dụ như trong việc đề ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng quá cao khi
chưa đồng bộ với một cơ chế kiểm soát, một qui trình tín dụng chặt chẽ sẽ dẫn đến sự gia
tăng của nợ xấu. Bên cạnh đó là sự mất hợp lý của cơ cấu cho vay, sự thiếu chính xác trong
nhận định xu hướng phát triển hay suy thoái của các ngành, các khách hàng mục tiêu dẫn
đến sự tập trung tín dụng sai lầm.
10
Bên cạnh việc xây dựng chiến lược thì việc thực thi nó cũng quan trọng không kém.
Một chiến lược đúng đắn có thể không được thực thi một cách có hiệu quả. Điều này có thể
xuất phát từ cơ chế kiểm soát nội bộ yếu kém nhưng cũng có thể là do sự thiếu ý thức, trình
độ của nhà quản lý, các nhân viên tín dụng.
- Thiếu thông tin thị trường :Thiếu thông tin khách hàng có thể sẽ dẫn đến thẩm định dự
án/phương án vay vốn không chính xác, đánh giá không đúng năng lực thật sự của khách
hàng, không phát hiện được những âm mưu lừa đảo, chiếm đoạt của khách hàng.
- Thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững.
Thực tế cho thấy, một số ngân hàng cho vay theo tín hiệu thị trường, nếu thị trường
nhà đất sôi động thì cho vay kinh doanh bất động sản,… Vì vậy, nhiều quyết định kinh
doanh chỉ dựa vào lợi ích ngắn hạn và khi môi trường kinh doanh thay đổi, hoặc có biến
động tiêu cực thì sẽ kéo theo những khoản nợ lớn cho ngân hàng.
- Công tác quản trị và phòng ngừa rủi ro chưa được chú trọng.
Hiện nay, việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của TCTD mang tính chất chủ
quan. Các ngân hàng chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán
chính xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác. Bên
cạnh đó, về phía các DN – đối tượng giải ngân vốn quan trọng của các TCTD, theo nghiên
cứu hiện có đến 90% là DN vừa và nhỏ, không ít DN có báo cáo tài chính không chính xác,
trong khi phần lớn các báo cáo tài chính này lại không được kiểm toán. Ngay cả đối với
những DN lớn được kiểm toán thì sự chậm chễ trong việc công bố báo cáo cũng như chất
lượng kiểm toán cũng gây không ít khó khăn cho ngân hàng.
Một số ngân hàng dồn vốn đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm như kinh doanh bất
động sản …. Trong khi đó, công tác định giá tài sản bảo đảm chưa sát với thực tế, vượt quá
giá chuyển nhượng trên thị trường, không phòng ngừa rủi ro khi thị trường bất động sản
đóng băng, không lường trước được những rủi ro pháp lý liên quan đến bất động sản.
- Sự yếu kém về trình độ và đạo đức của nhân viên tín dụng.
11
Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm
thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó còn mang tính bắt buộc. Thực
tế cho thấy, nhiều cán bộ ngân hàng đã thông đồng rút ruột với khách hàng, cho vay khống
dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Họ có thể thực hiện việc này thông qua việc làm sai
lệch cách nhìn về báo cáo tài chính và triển vọng của khách hàng, cũng như là sự sai lệch về
giá trị thực của TSBĐ .Tuy nhiên hiện chưa có tính toán, trong tỷ lệ nợ xấu có bao nhiêu
xuất phát từ đạo đức ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu còn nằm ở dạng “chuyển vốn cho vay
thành vốn góp.” Khoản nợ này không chỉ “rất xấu” mà còn nguy hiểm ở chỗ đôi khi chỉ tồn
tại trên sổ sách của con nợ và chủ nợ.
Tuy nhiên, không phải tất cả các lỗi này đều xuất phát từ vấn đề đạo đức mà có thể
xuất phát từ vấn đề trình độ của nhân viên tín dụng, từ đó dẫn đến chất lượng thẩm định
thấp, quản lý lỏng lẻo, không sâu sát khách hàng.
-Hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân
hàng đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền.
Bởi lẽ, việc sở hữu chéo sẽ dẫn đến tình trạng các Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để cho
các DN sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia, hoặc dễ dàng
cho các công ty con của các DN có vốn sở hữu tại ngân hàng vay vốn, thậm chí khi một
TCTD lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khác và biến ngân hàng này thành "sân sau”
của mình, họ có thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những dự án không an toàn
hoặc cho DN có quan hệ thân thiết. Việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc
thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến nợ xấu.
1.2. Lý thuyết về quản lý nợ xấu tại các NHTM.
1.2.1. Khái niệm quản lý nợ xấu tại các NHTM.
Quản lý nợ xấu bao gồm quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính
sách quản lý và kinh doanh tín dụng của ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn,
hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và
hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm phù
hợp đối với mục tiêu trong từng giai đoạn của mỗi ngân hàng.
12
1.2.2. Mục tiêu của quản lý nợ xấu.
Mục tiêu của quản lý nợ xấu tại mỗi ngân hàng và các thời điểm khác nhau là khác
nhau. Tuy nhiên, theo một cách chung nhất thì mục tiêu của quản lý nợ xấu trong bất kỳ
hoàn cảnh nào và đối với bất kỳ ngân hàng nào thì đó chính là việc phải xây dựng và thực
thi được một qui chế, chính sách sàng lọc khách hàng phù hợp với từng thời kỳ sao cho phải
hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro không thể thu hồi được của các khoản cho vay mà không
ảnh hưởng tới mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.
Cụ thể, mục tiêu quản lý nợ xấu gồm:
- Bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh: một khi tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao,
vượt quá giới hạn an toàn, uy tín của NHTM sẽ bị giảm sút đồng thời với việc gia tăng chi
phí (chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu, chi phí trích lập DPRR, và các chi phí
khác liên quan) sẽ ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng. Do đó, một trong
những mục tiêu hàng đầu của quản lý nợ xấu là bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh
doanh, hạn chế đến mức thấp nhất việc thất thoát nguồn vốn của các NHTM.
- Quản lý khách hàng: một khi công tác quản lý khách hàng (quản lý dòng tiền, kiểm tra và
giám sát quá trình sử dụng vốn, quản lý TSBĐ,…) được thực hiện tốt thì nợ quá hạn, nợ xấu
do nguyên nhân chủ quan sẽ không xảy ra. Do đó, mục tiêu quản lý nợ xấu nhằm quản lý
khách hàng mà cụ thể là quản lýcác khoản tín dụng cấp cho khách hàng.
-Tuân thủ các tiêu chí thẩm định và các điều kiện cấp tín dụng của ngân hàng. Để hạn chế
thấp nhất các khoản nợ xấu phát sinh, các NHTM khi thực hiện cấp tín dụng phải tuân theo
các chuẩn mực cấp tín dụng hiện hành, đảm bảo thu hồi được nguồn vốn và mang lại lợi
nhuận. Do đó, thông qua việc quản lý nợ xấu, NHTM tìm ra nguyên nhân phát sinh nợ xấu
từ đó đưa ra các biện pháp chế tài phù hợp, qua đó đảm bảo việc tuân thủ các tiêu chí thẩm
định và các điều kiện cấp tín dụng của ngân hàng.
1.2.3. Nội dung của quản lý nợ xấu:
1.2.3.1. Xây dựng chiến lƣợc và thực thi quản lý nợ xấu:
Mỗi ngân hàng đều phải xây dựng cho mình một chiến lược quản lý nợ xấu phù hợp
với chiến lược kinh doanh của mình trong từng thời kì, và phải linh hoạt có thể điều chỉnh
13
tuỳ theo diễn biến thị trường. Chiến lược quản lý nợ xấu cũng phải chỉ ra được những điểm
mạnh, điểm yếu của ngân hàng, cũng như những cơ hội và thách thức đối với ngân hàng để
phát huy tối đa tiềm lực của ngân hàng. Như ta thấy hoạt động kinh doanh của NHTM chủ
yếu là cho vay nên thường đi kèm với rủi ro tiềm ẩn ,nợ xấu là không thể tránh được. Vì thế
cần phải xác định giới hạn cần thiết của nợ xấu hay cụ thể hơn là xác định mức độ và tỷ lệ
của nợ xấu thích hợp.
Ngoài ra, chiến lược quản lý nợ xấu hay chiến lược quản lý rủi ro tín dụng cần đặc
biệt chú trọng đến việc đa dạng hoá danh mục khách hàng, ngành hàng nhằm giảm bớt rủi
ro. Tránh tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ”, tín dụng chỉ tập trung vào một khách hàng/
nhóm khách hàng liên quan, ngành hàng hay một lĩnh vực nào đó. Không chỉ thế, cơ cấu tín
dụng còn phải phù hợp với cơ cấu nguồn vốn huy động được.
Bên cạnh đó, để có thể thực hiện được việc quản lý nợ xấu thì ngân hàng phải xây
dựng các qui trình, qui chế và thực thi chúng một cách hợp lý. Cụ thể:
- Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng.
Khi các ngân hàng tiến hành hoạt động tín dụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình
từ khâu tìm kiếm khách hàng, đến thẩm định, giải ngân đến các kiểm tra giám sát trước và
sau cho vay. Việc xây dựng, thực hiện và quản lý nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng sẽ
giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro các khoản nợ xấu phát sinh, phát hiện và chấn chỉnh kịp
thời các sai phạm và thiếu sót trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Xây dựng và thực thi qui chế kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Một khía cạnh khác cũng rất quan trọng của hoạt động kiểm tra giám sát hoạt động
tín dụng là công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Thông qua công tác này có thể phát
hiện,ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện quy trình nghiệp vụ
tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát nội bộ còn góp phần phát hiện ngăn chặn những
rủi ro đạo đức do CBTD gây ra. Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ được thực hiện bởi
một bộ phận độc lập với hoạt động tín dụng đó là phòng kiểm tra nội bộ, có chức năng đưa
ra các đánh giá một cách khách quan đối với hoạt động tín dụng. Trên cơ sở đó, bộ phận
14
kiểm tra nội bộ thực hiện chức năng tư vấn cho các bộ phận nghiệp vụ và là công cụ quản lý
của ban lãnh đạo ngân hàng.
1.2.3.2. Các biện pháp xử lý nợ xấu tại các NHTM:
Nợ xấu luôn tồn tại song song với hoạt động ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu được đặt ra
là phải xử lý các khoản nợ xấu sau khi đã phát sinh. Sau đây là một số biện pháp xử lý nợ
xấu :
a/ Yêu cầu tái cơ cấu tài chính DN và cơ cấu lại nợ
Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là DN, sau khi phân tích thực trạng tài
chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng có khả năng phát triển để
thanh toán nợ xấu cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp cấu trúc lại hay tái cơ
cấu DN.
Tái cơ cấu DN là quá trình thực hiện tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh, tái cơ
cấu tài chính DN có hiện trạng kinh doanh, tài chính kém nhưng có khả năng phục hồi. Việc
thực hiện tái cơ cấu DN được thực hiện giữa các bên có liên quan: nhà đầu tư, nhà kinh
doanh, ngân hàng cho vay nợ với mục đích cao nhất là hồi sinh, tăng giá trị cho DN.
Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp dụng cho các
khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được quyết định tiếp tục duy
trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ với đối tượng khách hàng này,
khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay
thực thi các hành động cần thiết để cải thiện tình hình của họ, và sửa chữa sai sót. Trên cơ
sở đó, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp:
Điều chỉnh kỳ hạn nợ:
Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường được thực hiện thông qua việc hoãn hoặc/và
giảm khối lượng nợ gốc phải thanh toán của kỳ hạn trả nợ, nhưng không được giảm tổng số
nợ phải trả. Nếu được sử dụng một cách cẩn thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nợ là một hình
thức được chấp nhận khi thực hiện cơ cấu lại nợ.
15
Gia hạn nợ:
Đây là phương án tránh áp lực trả nợ của khách hàng để hỗ trợ khách hàng tiếp tục
kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp thêm tín dụng giúp khách hàng vượt qua
khó khăn đồng thời tạo khả năng thu hồi các khoản nợ trước. Đây không phải là biện pháp
tốt vì nó mang tính mạo hiểm cao.
Giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả:
Giải pháp này có thể được xem xét áp dụng tuỳ thuộc vào thiện chí trả nợ vay của
khách hàng và tuân thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước và của từng ngân hàng.
Việc giảm, miễn lãi đối với khách hàng coi như sự hy sinh một phần doanh thu của ngân
hàng để có thể tận thu hồi được nguồn vốn đã cho vay.
b/ Xử lý TSBĐ, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng không có khả năng
phát triển, chây ỳ trong việc trả nợ… NHTM chủ động xử lý các TSBĐ nợ vay theo các
hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường; Bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài
sản; Bán cho Công ty mua bán nợ của Nhà nước. Trong trường hợp khoản vay không được
thanh toán đầy đủ thì ngân hàng được xử lý TSBĐ theo nguyên tắc và cơ chế theo luật định.
Đối với các khoản cho vay có sự bảo lãnh của bên thứ 3: Ngân hàng yêu cầu bên bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay, ngân hàng chủ động xử lý tài sản bảo lãnh tương tự như các tài sản thế
chấp cầm cố của bên vay.
Thực hiện quyền truy đòi cho vay gián tiếp: nếu đến hạn mà người thanh toán không
thực hiện nghĩa vụ thì ngân hàng truy đòi người đi vay, người bảo lãnh.
Mặc dù biện pháp này là không mong muốn do việc phát mại TSBĐ hoặc đòi nợ bên
bảo lãnh thường rất phức tạp với nhiều thủ tục, tốn nhiều thời gian, khả năng thu hồi đầy đủ
nợ thường không cao, song ngân hàng vẫn buộc phải thực hiện để thu hồi vốn. Cho đến nay,
đây là một trong số các biện pháp thu hồi vốn có hiệu quả nhất cho các ngân hàng, đặc biệt
các khoản nợ do cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, khách hàng lừa đảo ngân hàng…
16
c/ Sử dụng hệ thống pháp luật để giải quyết nợ xấu.
Biện pháp kiện khách hàng ra Toà để đòi nợ được ngân hàng lựa chọn khi các biện
pháp trên không khả thi. Ngân hàng có thể nhờ Toà án can thiệp buộc khách hàng trả nợ,
chuyển giao TSBĐ tiền vay, phát mại tài sản của khách hàng hoặc nếu khách hàng là DN
không trả được nợ và ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn xin toà mở thủ
tục tuyên bố phá sản DN theo luật phá sản
Trên thực tế, việc phải sử dụng đến giải pháp này thường không đem lại hiệu quả cao
cho việc đòi nợ của ngân hàng vì thủ tục rắc rối, khách hàng thường là không còn khả năng
trả nợ, TSBĐ có tranh chấp về pháp lý hoặc không đủ giá trị bù đắp cho khoản vay, việc xử
lý tài sản hoặc thu hồi nợ thông qua cơ quan Thi hành án thường mất nhiều thời gian, tốn
kém về chi phí và thời gian
d/Sử dụng DPRR.
Theo thông lệ quốc tế, muốn xoá nợ tồn đọng phải có nguồn tiền nhất định. Ở Việt
Nam, tiền dùng để xử lý nợ là từ quỹ DPRR của ngân hàng hoặc từ Ngân sách nhà nước.
DPRR là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do
khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. DPRR được tính theo dư nợ
gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD.
Những trường hợp được xử lý từ quỹ DPRR là khi khách hàng vay vốn, bên được bảo
lãnh vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức bị giải thể, phá sản hoặc
cá nhân bị chết, mất tích hoặc không thực hiện được các nghĩa vụ nợ do bất khả kháng và
những khoản nợ thuộc nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn.
Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các ngân hàng vận dụng tối đa
nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là ngân hàng sử dụng nội lực
của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân
hàng. Việc sử dụng quá nhiều giải pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng trong khi vốn
cho vay vẫn không thu hồi được. Vì vậy, ngân hàng nên chú trọng vào các biện pháp thu hồi
nợ có tính triệt để hơn.
17
e/ Bán các khoản nợ:
Biện pháp này được ngân hàng sử dụng đối với các khoản nợ không có TSBĐ hoặc
không muốn mất thời gian đòi nợ. Ngân hàng sẽ chuyển quyền đòi nợ cho một TCTD hoặc
tổ chức hoặc cá nhân khác có chức năng theo quy định để sớm thu hồi vốn của mình. Khi
bán các khoản nợ xấu, ngân hàng thường chấp nhận bán với giá thấp hơn giá trị khoản nợ để
thu hồi vốn nhanh và tránh ảnh hưởng tới những khoản nợ còn lại. Để thực hiện có hiệu quả
biện pháp này, bên cạnh việc nhanh chóng đưa các khoản nợ xấu ra khỏi bảng tổng kết tài
sản, các ngân hàng thường thành lập một tổ chức có tính chuyên môn hoá cao gọi là Công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản. Công ty này sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện mua bán
tiếp theo.
f/ Chứng khoán hoá các khoản nợ xấu.
Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác xử lý nợ xấu đuợc áp dụng rộng rãi trên
thế giới là chứng khoán hoá các khoản nợ. Chứng khoán hoá là chuyển đổi một tập hợp có
chọn lọc các khoản vay có thế chấp của ngân hàng mà trước đó không có thị trường thứ cấp
để giao dịch thành các chứng khoán khả mại, có thể bán trên thị trường thứ cấp. Ngân hàng
có thể dùng kỹ thuật này để xử lý các khoản nợ xấu của mình nhưng cần có sự phát triển
mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng giao dịch mua bán nợ.
Đối mặt với áp lực rủi ro tín dụng và yêu cầu tăng vốn chủ sở hữu, công cụ quản lý
rủi ro chứng khoán hoá các khoản cho vay đã giúp ngân hàng hạn chế một cách hiệu quả rủi
ro tín dụng. NHTM bắt đầu bằng cách khoanh khoản nợ xấu có thế chấp và chuyển nó ra
khỏi nội bảng, hạch toán ngoại bảng để bán cho người đầu tư chứng khoán thông qua trung
gian là người được uỷ thác. Người được uỷ thác thường là tổ chức được bảo đảm không bị
phá sản và hoạt động chuyên nghiệp về phát hành chứng khoán. Đầu tư thông qua hoạt động
chứng khoán hoá giúp ngân hàng đa dạng hoá, giảm rủi ro, giảm các chi phí đối với việc
giám sát các khoản cho vay.
Công nghệ chứng khoán hoá hấp dẫn nhiều ngân hàng, bởi vì thông qua đó mà ngân
hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả năng thanh khoản của tài sản,