Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận văn thạc sĩ Ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) đánh giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.64 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH


MAI THỊ THU THẢO



ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP
BAO DỮ LIỆU (DEA)
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG



TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
i

LỜI CAM ĐOAN




Tôi cam đoan những nội dung trong luận văn này là kết quả của quá trình
học tập, nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của tôi. Các số liệu trong luận
văn là trung thực, chính xác và được thu thập từ nguồn chính thống và đáng tin cậy.

Tôi cam đoan rằng luận văn này chưa được công bố trên bất kỳ một tài liệu
khoa học nào.



TP. Hồ Chí Minh, năm 2013
Tác giả





Mai Thị Thu Thảo






ii

MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN THEO
PHƯƠNG PHÁP DEA 3
1.1. Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần 3
1.1.1. Ngân hàng thương mại 3
1.1.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần 3
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
cổ phần 5
1.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài 5
1.1.3.2 .Các nhân tố bên trong 7
1.2. Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần 11
1.2.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
cổ phần 11
1.2.1.1. Đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính 11
1.2.1.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên 15
1.2.2. Đánh giá hiệu quả bằng cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số 16
1.2.2.1. Giới thiệu tổng quát về phương pháp DEA 16
1.2.2.2. Các cách tiếp cận đánh giá hiệu quả 16
1.2.2.3. Các cách lựa chọn biến đầu vào và đầu ra trong phương pháp DEA20
1.2.3. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây 21
iii

1.2.3.1. Một số nghiên cứu trên thế giới đánh giá hiệu quả hoạt động của
ngân hàng bằng phương pháp DEA 21

1.2.3.2. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng bằng
phương pháp DEA ở Việt Nam 23
1.3. Phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA 25
1.3.1. Mô hình DEA
CRS
25
1.3.2. Mô hình DEA
VRS
và hiệu quả quy mô 28
1.3.3 Chỉ số Malmquist và đo lường thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp 30
Kết luận Chương 1 32
CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG MÔ HÌNH DEA ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN 34
2.1. Thực trạng họat động của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn
2008 – 2011 34
2.1.1. Về năng lực tài chính 36
2.1.1.1. Mức độ an toàn và khả năng huy động vốn, cho vay 37
2.1.1.2. Về chất lượng tài sản có 39
2.1.1.3. Về khả năng sinh lời 40
2.1.1.4. Về tính thanh khoản 41
2.1.2. Về năng lực công nghệ 42
2.1.3. Về nguồn nhân lực 43
2.1.4. Về năng lực quản trị 45
2.2. Một số điểm mạnh và yếu của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 46
2.2.1. Một số điểm mạnh 46
2.2.2. Một số điểm yếu 48
2.3. Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP Việt Nam 50
2.3.1. Giới thiệu mô hình nghiên cứu 50
2.3.2. Quy trình nghiên cứu cụ thể 51
2.3.2.1. Chọn lựa DMU 51

2.3.2.2. Lựa chọn biến đầu ra và đầu vào 52
iv

2.3.2.3. Mô hình DEA 53
Kết luận Chương 2 55
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ GỢI Ý GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN VIỆT NAM 56
3.1. Kết quả nghiên cứu 56
3.1.1. Hiệu quả kỹ thuật theo hai mô hình DEA
CRS
và DEA
VRS
56
3.1.2. Quy mô tổng tài sản và hiệu quả kỹ thuật 59
3.1.3. Hiệu quả quy mô 61
3.1.4. Ước lượng năng suất nhân tố tổng hợp TFP 62
3.2. Kết luận và gợi ý giải pháp 64
3.2.1. Kết luận liên quan đến các mục tiêu nghiên cứu 64
3.2.1.1 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ nhất 64
3.2.1.2 Kết luận liên quan đến mục tiêu nghiên cứu thứ hai 65
3.2.2. Một số gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP
Việt Nam 66
3.2.2.1. Đối với các NHTMCP Việt Nam 66
3.2.2.2. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước 69
Kết luận Chương 3 70
KẾT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC








v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CRS: Constant returns to scale - Sản lượng không đổi theo quy mô
DEA: Data envelopment analysis - Phân tích bao dữ liệu
DMU: Decision making unit- Đơn vị ra quyết định
DRS: Decreasing returns to scale - Sản lượng giảm theo quy mô
EPS: Earnings per share - Hệ số thu nhập trên cổ phiếu
effch: Technical efficiency change – Thay đổi hiệu quả kỹ thuật
IRS: Increasing returns to scale – Sản lượng tăng theo quy mô
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NIM: Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
NM: Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
PE: Pure technical efficiency – Hiệu quả kỹ thuật thuần
pech: Pure Technical efficiency change – Thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần
ROA: Return on assets - Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản
ROAA: Return on assets average - Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân
ROE: Return on equity - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
ROEA: Return on equity average - Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân
SE: Scale efficiency – Hiệu quả quy mô
sech: Scale efficiency change - Thay đổi hiệu quả quy mô
TC: Technical change - thay đổi kỹ thuật

TCTD: Tổ chức tín dụng.
TE: Technical efficiency – Hiệu quả kỹ thuật
techch: Technological change – Thay đổi tiến bộ công nghệ
TFP: Total factor productivity - Năng suất nhân tố tổng hợp
tfpch: Total factor productivity change - Thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp
VRS: Variable returns to scale – Sản lượng thay đổi theo quy mô

vi

DANH MỤC BẢNG, BIỂU


Bảng 2.1: Số lượng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu về năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam
giai đoạn 2008-2011
Bảng 2.3: Tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2008-2011
Bảng 2.4: Nợ quá hạn và nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng năm 2010-2011
Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu về năng lực công nghệ của các NHTM Việt Nam qua các
năm
Bảng 2.6: Danh sách 15 NHTMCP nghiên cứu
Bảng 2.7: Tóm tắt dữ liệu của các biến trong mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô trung bình
của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
Bảng 3.2: Hiệu quả trung bình chung của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-
2011
Bảng 3.3: Số lượng các NHTMCP đạt hiệu quả tối ưu giai đoạn 2008 - 2011
Bảng 3.4: So sánh thứ tự xếp hạng theo quy mô tổng tài sản bình quân và hiệu quả
kỹ thuật bình quân giai đoạn 2008-2011
Bảng 3.5: Số lượng ngân hàng đang ở điều kiện DRS, IRS và CONS giai đoạn

2008-2011
Bảng 3.6: Chỉ số Malmquist bình quân toàn bộ mẫu giai đoạn 2008-2011
Bảng 3.7: Kết quả ước lượng effch, techch, pech, sech và tfpch trung bình cho 15
NHTMCP giai đoạn 2008-2011






vii

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Đồ thị 1.1: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu vào
Đồ thị 1.2: Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào
Đồ thị 1.3a: Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng thay đổi theo quy mô
Đồ thị 1.3b: Hiệu quả kỹ thuật trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô
Đồ thị 1.4: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu ra
Đồ thị 1.5: Mô hình DEA tối đa hóa đầu ra
Đồ thị 1.6: Đường biên CRS và VRS
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng kinh tế thế giới và Việt Nam giai đoạn 2008-2011
Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa các nhân tố đầu vào, đầu ra và hiệu quả của ngân hàng
thương mại cổ phần
Đồ thị 2.2: Thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi trung bình của các NHTMCP
Đồ thị 3.1: Hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô của các
NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008 - 2011
1

MỞ ĐẦU


1. Đặt vấn đề
Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian quan trọng thực hiện chức
năng chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Những bước thăng trầm của ngành ngân
hàng gắn liền với những thăng trầm của nền kinh tế. Sự lớn mạnh của ngân hàng
được xem là thước đo đo lường sự tăng trưởng của nền kinh tế và được đánh giá
trên nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh doanh, đó chính là hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
Một ngân hàng kinh doanh có hiệu quả sẽ góp phần vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế, gia tăng năng lực cạnh tranh, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính
Việt Nam đang phải chịu sức ép rất lớn từ quá trình hội nhập. Các ngân hàng Việt
Nam bị cạnh tranh gay gắt bỡi các trung gian tài chính phi ngân hàng và các ngân
hàng nước ngoài.
Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng cũng như trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu và Việt Nam đang gặp khó khăn, việc đánh giá hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối
với các ngân hàng trong việc xem xét sử dụng các nguồn lực một cách tổng thể,
tăng cường năng lực cạnh tranh mà còn có ý nghĩa đối với các cơ quan quản lý Nhà
nước trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động tốt hơn. Chính vì
lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) đánh giá hiệu
quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Ước lượng và phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại
cổ phần Việt Nam.
- Phân tích thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam.
- Gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2


Do nguồn dữ liệu hạn chế, đề tài nghiên cứu hiệu quả hoạt động của 15 ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2008-2011 (không tính đến các ngân
hàng thương mại cổ phần Nhà nước) thông qua các biến số đầu vào và đầu ra.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là phương
pháp định tính kết hợp với định lượng bằng cách sử dụng phương pháp phân tích
bao dữ liệu để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ
phần và mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần
theo phương pháp DEA.
Chương 2: Áp dụng mô hình DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng thương mại cổ phần.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và một số gợi ý giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.










3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN THEO PHƯƠNG PHÁP DEA

1.1. Cơ sở lý luận hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ
phần
1.1.1. Ngân hàng thương mại
Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16/06/2010 định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận”.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, bao gồm: Huy động vốn, cấp
tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác như: dịch
vụ ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại
hối, quản lý tài sản, tư vấn tài chính…
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt và tồn tại dưới nhiều
loại hình khác nhau như: Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại
liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần… Đề tài đề cập đến ngân hàng thương
mại cổ phần là các ngân hàng do cổ đông (tổ chức và cá nhân) góp vốn.
1.1.2. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần
Hiệu quả là một thuật ngữ thông dụng sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như kinh tế, chính trị, xã hội… Trong lĩnh vực kinh tế, theo định nghĩa trong
tác phẩm “Từ điển kinh tế học” của tác giả Nguyễn Văn Ngọc: “Hiệu quả là mối
quan hệ giữa đầu vào nhân tố khan hiếm và sản lượng hàng hóa và dịch vụ” và
“khái niệm hiệu quả còn được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem thị trường phân
4


bổ nguồn lực tốt đến mức nào”.Vì các nhân tố đầu vào hay các nguồn lực là khan
hiếm nên việc phân bổ nguồn lực như thế nào là một vấn đề sống còn của bất kỳ
một quốc gia, tổ chức. Vì vậy, có thể hiểu hiệu quả là mức độ thành công mà các tổ
chức đạt được trong việc phân bổ các yếu tố đầu vào có thể sử dụng để sản xuất ra
các đầu ra nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Nguồn lực đầu vào của một doanh
nghiệp là các yếu tố đầu vào sản xuất như vốn, lao động, kỹ thuật Đầu ra là kết
quả kinh tế như sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận…
Như vậy, hiệu quả phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục
tiêu xác định. Nói cách khác, đó là khả năng biến các yếu tố đầu vào thành các đầu
ra trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó cho biết những lợi ích đạt
được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh kết quả kinh
tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Trên phương diện khác, Farrell (1957) cho rằng hiệu quả của doanh nghiệp
gồm hai thành phần: hiệu quả kỹ thuật TE và hiệu quả phân bổ. Hiệu quả kỹ thuật
phản ánh khả năng doanh nghiệp đạt được đầu ra tối đa từ đầu vào cho trước (họặc
khả năng doanh nghiệp sử dụng đầu vào tối thiểu để đạt được các đầu ra cho trước).
Hiệu quả phân bổ phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào theo tỷ lệ
tối ưu với mức giá tương ứng của chúng đã biết. Hiệu quả mà đề tài tập trung
nghiên cứu là hiệu quả kỹ thuật của các NHTMCP, nó phản ánh khả năng của một
ngân hàng biến các nguồn lực đầu vào (lao động, kỹ thuật, vốn…) thành các đầu ra
(dịch vụ, tiền vay, thu nhập, lợi nhuận…).
Hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có thể chia làm hai nhóm là hiệu quả
tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối được đo
bằng kết quả kinh tế trừ đi chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đặc điểm của chỉ
tiêu tuyệt đối là phản ánh quy mô, khối lượng của một hiện tượng trong điều kiện,
thời gian và địa điểm cụ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chỉ tiêu này
lại khó có thể so sánh được. Chẳng hạn như nếu một ngân hàng có quy mô lớn thì
hiệu số tuyệt đối giữa doanh thu đạt được trừ chi phí rất lớn nhưng chưa thể đánh
giá ngân hàng này hoạt động hiệu quả hơn ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn và
5


hiệu số tuyệt đối giữa doanh thu đạt được và chi phí nhỏ hơn. Do vậy, chỉ tiêu hiệu
quả tuyệt đối không cho biết khả năng sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các yếu tố đầu
vào.
Cách đánh giá hiệu quả tương đối xem xét tỷ lệ so sánh giữa kết quả đầu ra
và yếu tố đầu vào (chẳng hạn như: kết quả kinh tế/chi phí bỏ ra,…), thuận tiện hơn
trong việc so sánh theo thời gian và không gian cũng như cho phép so sánh hiệu quả
giữa các ngân hàng có quy mô khác nhau, các thời kỳ khác nhau.
Một cách đơn giản, hiệu quả tương đối đối với trường hợp doanh nghiệp có
một biến đầu vào và một biến đầu ra có thể được xác định bằng công thức:
EF (Efficiency) = output/input (1)
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần
Ngân hàng trước hết là một tổ chức. Theo lý thuyết hệ thống thì một tổ chức
luôn hoạt động trong môi trường cụ thể và chịu sự tác động của nhiều nhân tố môi
trường và nhân tố nội tại của tổ chức.
Các nhân tố môi trường là các nhân tố bên ngoài mà tổ chức khó kiểm soát
nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả hoạt động của tổ chức, bao
gồm: môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước, môi trường pháp lý.
Các nhân tố nội tại của tổ chức có thể kiểm soát được và điều chỉnh, có ảnh hưởng
riêng biệt đến tổ chức. Nhóm nhân tố bên trong bao gồm: năng lực tài chính, năng
lực quản trị, điều hành, khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ và nguồn nhân lực.
Hầu hết các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTMCP đều ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
1.1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
* Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Với vai trò là một định chế tài chính trung gian quan trọng, NHTMCP là
chiếc cầu nối gắn liền khu vực đầu tư và khu vực tiết kiệm của nền kinh tế. Khi hai
khu vực này bị ảnh hưởng thì NHTMCP cũng bị ảnh hưởng. Trong một môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường.

6

Các tổ chức và cá nhân luôn có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh,
đồng thời gia tăng khả năng trả nợ. Ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng tín
dụng, nâng cao chất lượng tín dụng, làm giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận. Mặt
khác, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định góp phần tạo việc làm cho nền kinh tế,
tăng thu nhập cho cá nhân và tổ chức, ổn định nguồn vốn đầu vào cho ngân hàng
thương mại, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Ngược lại, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội không ổn định ảnh hưởng
không tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ
của các doanh nghiệp giảm, nợ quá hạn và nợ xấu tăng cao làm giảm hiệu quả hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Bên cạnh môi trường kinh tế, chính trị xã hội trong nước, NHTMCP còn chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ từ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đây là
một xu thế tất yếu của thời đại tạo nên những chuyển biến toàn diện trên nhiều lĩnh
vực với nhiều mức độ khác nhau thông qua quá trình trao đổi thông tin giữa các
quốc gia, cá nhân và các nền kinh tế. Trong lĩnh vực kinh tế, xu thế này thường
được đề cập đến là quá trình tự do hóa. Làn sóng tự do hóa xuất hiện từ những năm
1980 bắt đầu bằng quá trình tự do hóa thương mại, tiếp đến là làn sóng đầu tư trực
tiếp nước ngoài kéo theo nhu cầu tự do hóa dịch vụ tài chính đã tạo nhiều thuận lợi
cho nền kinh tế nhiều quốc gia phát triển, trong đó có các ngân hàng thương mại.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng thương mại có thể tiếp nhận nguồn vốn dồi dào,
kinh nghiệm quản lý và trình độ khoa học công nghệ từ nước ngoài để nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, những
mặt trái của quá trình toàn cầu hóa và sự cạnh tranh với các tổ chức tín dụng nước
ngoài, những tập đoàn tài chính đầy tiềm lực là những thử thách không nhỏ đối với
các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
thì những biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ngoài nhất là
các thị trường tiêu thụ càng gây bất lợi cho hoạt động của NHTMCP, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

* Môi trường pháp lý
7

Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ và đầy đủ của hệ thống pháp luật,
các văn bản dưới luật, việc chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Trong đó, hệ
thống pháp luật đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hướng nền kinh tế, vừa
tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh
doanh, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, người tiêu dùng,
người lao động và cộng đồng xã hội nói chung. Là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống tài chính, NHTMCP chịu sự kiểm soát chặt chẽ về phương diện pháp lý hơn
so với các ngành khác. Nhiều chính sách ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
NHTMCP như chính sách cạnh tranh, phá sản, sát nhập, cơ cấu và tổ chức ngân
hàng; các quy định về cho vay, bảo hiểm tiền gửi, dự phòng rủi ro tín dụng; các
chính sách tài chính tiền tệ, thuế, tỷ giá… Một môi trường pháp lý phù hợp bảo đảm
sự hoạt động ổn định và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại,
giữ vững niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính – ngân hàng, đồng thời
bảo vệ công chúng sử dụng dịch vụ ngân hàng và phòng chống các loại tội phạm tài
chính – ngân hàng. Đây chính là những nền tảng vững chắc để ngân hàng thương
mại phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Ngược lại, một môi trường
pháp lý không đồng bộ và chưa đầy đủ, không phù hợp với yêu cầu phát triển của
nền kinh tế sẽ là rào cản lớn cho quá trình phát triển kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến hoạt động của NHTMCP và làm giảm sút hiệu quả hoạt động của
NHTMCP.
1.1.3.2. Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong bao gồm các nhân tố nội bộ của chính các NHTMCP
như năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ và
nguồn nhân lực.
* Năng lực tài chính
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một NHTMCP tại một thời
điểm nhất định. Năng lực tài chính thể hiện trước hết ở mức độ an toàn vốn và khả

năng huy động vốn. Tiềm lực về vốn thể hiện qua chỉ tiêu quy mô vốn chủ sở hữu,
quy mô vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn. Nó phản ánh sức mạnh tài chính của một
8

NHTMCP và ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh của ngân hàng như khả năng huy
động vốn và cho vay, khả năng đầu tư tài chính, trình độ trang bị công nghệ và khả
năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thương mại. Như vậy, vốn là điều kiện cơ bản
đảm bảo quy mô kinh doanh của một NHTMCP và bù đắp tổn thất có thể xảy ra,
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Thứ hai là chất lượng tài sản có. Tài sản có là những tài sản được hình thành
từ các nguồn vốn của NHTMCP trong quá trình hoạt động, phản ánh sức khỏe của
một ngân hàng thương mại. Chất lượng tài sản có thể hiện qua các chỉ tiêu như: tỷ
lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản
nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hóa của danh mục tín dụng.
Nợ xấu ảnh hưởng đến tính an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản của các
NHTMCP. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các NHTMCP không có điều kiện mở
rộng tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hơn.
Trong phạm vi toàn nền kinh tế, nợ xấu cao sẽ là vật cản kìm hãm, làm chậm quá
trình luân chuyển vốn của nền kinh tế và tác động tiêu cực đến sản xuất, lưu thông
hàng hóa.
Một NHTMCP có chất lượng tài sản có tốt luôn bảo đảm khả năng thanh
toán trong mọi tình huống, đa dạng hóa danh mục đầu tư để phân tán rủi ro, đồng
thời giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa thanh khoản và khả năng sinh lời; từ đó
làm gia tăng hiệu quả hoạt động của NHTMCP. Nếu thị trường biết rằng chất lượng
tài sản có của NHTMCP kém sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của
ngân hàng thương mại. Điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc đổ
xô đi rút tiền ở NHTMCP.
Thứ ba là mức sinh lời. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
của NHTMCP và được thể hiện qua các chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt đối của lợi
nhuận sau thuế, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài

sản có…Nó thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh của ngân hàng và
do đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
9

Một chỉ tiêu khác phản ánh năng lực tài chính của NHTMCP là khả năng
thanh khoản. Đảm bảo khả năng thanh khoản là một nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ
NHTMCP nào. Điều này có nghĩa là, NHTMCP hoặc có sẵn lượng vốn khả dụng,
hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay bên ngoài với chi phí hợp lý và kịp
thời, hoặc có thể nhanh chóng chuyển tài sản thành tiền với mức giá thỏa đáng để
đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Khả năng thanh khoản
kém chứng tỏ NHTMCP đang thiếu hụt thanh khoản và là dấu hiệu đầu tiên cho
thấy ngân hàng đang ở trong tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Điều này
có thể dẫn đến NHTMCP mất dần các khoản tiền gửi cũ, không thể thu hút thêm
tiền gửi mới hoặc phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, càng làm suy giảm lợi
nhuận và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP.
* Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức
Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội
đồng quản trị đối với ban giám đốc; mức độ cam kết trong việc thực hiện các chính
sách tiền lương và thu nhập; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện các chiến
lược, chính sách kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ.
Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của NHTMCP. Nói
đến chất lượng và năng lực quản lý là nói đến yếu tố con người trong bộ máy quản
lý và hoạt động, thể hiện ở việc đề ra chính sách kinh doanh đúng đắn và có hiệu
quả, xây dựng các thủ tục, điều hành các quy trình nghiệp vụ hợp lý, sát thực và
đúng pháp luật; đồng thời tạo lập một cơ cấu tổ chức phù hợp, vận hành hiệu quả,
giảm thiểu rủi ro về đạo đức trong hệ thống quản lý.
Một NHTMCP yếu kém về năng lực quản lý đồng nghĩa với một ban giám
đốc hay hội đồng quản trị yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách,
chiến lược hợp lý, phù hợp với những thay đổi của thị trường làm lãng phí các
nguồn lực và làm giảm hiệu quả hoạt động của NHTMCP.

Năng lực quản lý của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc cũng bị chi
phối bởi cơ cấu tổ chức của NHTMCP. Cơ cấu tổ chức phản ánh cơ chế phân bổ các
nguồn lực phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của NHTMCP, phù hợp với đặc
10

trưng của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Hiệu quả của cơ cấu tổ chức
không chỉ phản ánh ở số lượng các bộ phận trực thuộc, sự phân công, phân cấp giữa
các bộ phận mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng, ban trong việc
triển khai hoạt động kinh doanh. Một cơ cấu tổ chức phù hợp phát huy mọi nguồn
lực, gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP và ngược lại.
* Năng lực về công nghệ
Với trình độ phát triển ngày càng cao, khoa học kỹ thuật đã và đang trở thành
nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Trong lĩnh vực ngân hàng, công
nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực đầu vào quan
trọng, tạo ra lợi thế cạnh tranh và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của mỗi
NHTMCP. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính
tác nghiệp như hệ thống thông tin điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền
tự động mà còn cả hệ thống thông tin quản lý, hệ thống báo cáo rủi ro…trong nội bộ
ngân hàng. Những công nghệ mang tính tác nghiệp giúp ngân hàng mở rộng các
kênh tiếp cận khách hàng, đa dạng hóa các dịch vụ, phục vụ khách hàng tốt hơn,
giảm thiểu chi phí và sai sót có thể xảy ra. Trong khi đó, hệ thống thông tin nội bộ
giúp NHTMCP quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, tăng cường khả
năng dự báo rủi ro và hạn chế những tổn thất. Năng lực công nghệ còn thể hiện ở
khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ, tính liên kết công nghệ giữa các ngân
hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng. Một NHTMCP với công
nghệ hiện đại có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, chiếm lĩnh thị
phần, gia tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động.
* Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng không thể thiếu của bất kỳ doanh
nghiệp hay NHTMCP nào, là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của

NHTMCP, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới. Nguồn nhân lực
cần đảm bảo cả số lượng và chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở trình
độ, kỹ năng, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Một ngân hàng thương mại với
nguồn nhân lực đầy đủ, có chất lượng sẽ giúp ngân hàng thương mại ngăn ngừa và
11

giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh, giúp giữ chân
khách hàng cũ và phát triển khách hàng mới. Nói cách khác, đội ngũ nhân viên giỏi
giúp NHTMCP giảm chi phí hoạt động, gia tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động.
Khi nguồn nhân lực không đảm bảo, các NHTMCP không thể triển khai các
chiến lược kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu của khách hàng dẫn đến sự cạnh tranh
lẫn nhau giữa các ngân hàng để tìm kiếm nguồn nhân lực. Điều này làm gia tăng chi
phí, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
1.2. Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ
phần
1.2.1. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần
1.2.1.1. Đánh giá hiệu quả thông qua các chỉ tiêu tài chính
Các chỉ tiêu tài chính là công cụ thường được sử dụng phố biến để phân tích,
đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp, trong đó có các NHTMCP. Đây là các
chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ giữa hai biến số tài chính cho phép so sánh
hoạt động giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng thông qua việc phân tích xu
hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Nhiều chỉ tiêu tài chính khác
nhau được sử dụng để đánh giá nhiều khía cạnh khác nhau trong hoạt động của
NHTMCP. Các nhóm chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng bao gồm: các chỉ tiêu
phản ánh khả năng sinh lời, kết quả kinh doanh và rủi ro của ngân hàng.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Các chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng sinh lời của NHTMCP theo từng
góc độ khác nhau. Đây là nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá công tác quản
lý và các hoạt động chiến lược của NHTMCP thành công hay thất bại. Nhóm chỉ

tiêu này bao gồm: tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu (ROE), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
(NIM), tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NM).


ROA =
Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản

12













ROA là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tính hiệu quả quản lý, cho thấy khả năng
chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng, thể hiện khả năng sinh lợi trên
mỗi đồng tài sản của NHTMCP.
ROE là chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng, thể
hiện khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn của cổ đông. Đây là chỉ tiêu quan trọng
nhất đối với các cổ đông. Chỉ tiêu này còn được sử dụng khá phổ biến trong phân

tích hiệu quả hoạt động vì phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.
NIM đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng
thương mại có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời
và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất.
NM đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi (chủ yếu là các
nguồn thu từ dịch vụ) với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng thương mại phải chịu
(tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, chi phí tổn thất tín dụng…) .
EPS đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ đông tính trên mỗi cổ phiếu hiện
đang lưu hành.
Trong một số trường hợp, tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên cũng được xem
xét để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
NIM =
Thu nhập lãi – Chi phí lãi

Tổng tài sản

ROE =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu

NM =
Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi
Tổng tài sản

EPS =
Lợi nhuận sau thuế

Tổng số cổ phiếu thường

13


Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, các mô
hình phân tích khả năng sinh lời cũng được đưa ra xem xét như mô hình đánh đổi
rủi ro và lợi nhuận, mô hình phân chia tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu và mô
hình tách các chỉ số phân tích lợi nhuận trên tài sản. Bằng cách tách các tỷ lệ ROA,
ROE thành nhiều tỷ lệ khác để đánh giá sự phụ thuộc của các chỉ tiêu ROA, ROE
vào các tỷ lệ khác; hoặc phân tích mối quan hệ giữa ROA và ROE; các nhà quản trị
có thể đánh giá toàn diện hơn hiệu quả hoạt động của NHTMCP.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh
Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường gia
tăng hiệu quả hoạt động bằng cách giảm chi phí và tăng năng suất lao động. Nhóm
chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại bao gồm các tỷ số như sau:
- Tổng chi phí hoạt động/ tổng thu từ hoạt động: Chỉ tiêu này phản ánh mối
quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, cho biết khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động
của ngân hàng thương mại.
- Tổng thu nhập hoạt động/ tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử
dụng tài sản. Tỷ lệ này gồm 2 phần là thu nhập lãi bình quân trên tổng tài sản và thu
nhập ngoài lãi bình quân trên tổng tài sản. Khi cạnh tranh trên thị trường tín dụng
gia tăng và các khoản vay kém chất lượng ngày càng nhiều, các ngân hàng thương
mại chuyển hướng vào việc tăng thu nhập ngoài lãi (từ phí dịch vụ).
- Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/số bình quân nhân viên làm việc
toàn thời gian) là chỉ tiêu đo lường khả năng tạo ra thu nhập của một nhân viên
ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử
dụng lao động của ngân hàng thương mại.
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
Ngoài việc quan tâm đến giá trị cổ phiếu và lợi nhuận cao, các NHTMCP cần
phải quản trị rủi ro để bảo đảm ngân hàng hoạt động an toàn. Hoạt động của ngân
hàng thương mại liên quan đến các loại rủi ro chính: tín dụng, thanh khoản, thị
trường, lãi suất, thu nhập và rủi ro phá sản. Các chỉ tiêu tài chính thường sử dụng để

14

đánh giá rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm: tỷ lệ nợ xấu, hệ
số rủi ro tín dụng, tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ nhạy cảm lãi suất, dự
trữ thanh khoản/tổng tài sản, tỷ lệ đòn bẩy tài chính,…
- Tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu/tổng dư nợ cho vay): Là chỉ tiêu phản ánh chất lượng
tín dụng thường được sử dụng để đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng thương
mại. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng ngày càng cao.
- Hệ số rủi ro tín dụng (tổng dư nợ cho vay/tổng tài sản có). Hệ số này cho ta
thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có. Khoản mục tín dụng trong
tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ càng cao, nhưng đồng thời rủi ro tín dụng
cũng tăng lên.
- Tổng cho vay/tổng vốn huy động: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư
của một đồng vốn huy động, đồng thời cũng là chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng. Tỷ
lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng vốn huy động chủ yếu là để cho vay
nên rủi ro tín dụng càng cao. Tỷ lệ này càng thấp càng giảm thiểu rủi ro tín dụng
của ngân hàng vì ngân hàng đa dạng hóa danh mục đầu tư và dịch vụ cung ứng cho
khách hàng.
- Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm lãi suất và nợ nhạy cảm lãi suất: Tỷ lệ này đo
lường rủi ro lãi suất. Khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá các khoản
nợ nhạy cảm lãi suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể rơi vào tình
trạng bất lợi và thua lỗ nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi nợ nhạy cảm với lãi suất
vượt quá tài sản nhạy cảm lãi suất, ngân hàng sẽ thua lỗ nếu lãi suất tăng.
- Dự trữ thanh khoản/tổng tài sản: Đây là chỉ tiêu đo lường rủi ro thanh
khoản của ngân hàng thương mại. Tỷ lệ này càng nhỏ thì khả năng chống đỡ rủi ro
thanh khoản càng yếu và ngược lại. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này cao thì ngân hàng cần
xem lại khả năng đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận, vì tài sản thanh khoản có mức
sinh lợi thường thấp hơn nhiều so với các tài sản sinh lời khác.
- Tỷ lệ đòn bẩy tài chính (tổng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản): Chỉ tiêu này
phản ánh có bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu tạo ra một đồng tài sản và ngân hàng

thương mại phải dựa vào nguồn vốn vay nợ là bao nhiêu. Tỷ lệ này càng thấp chứng
15

tỏ ngân hàng thương mại vay nợ càng nhiều, tận dụng được đòn bẩy tài chính nhưng
đồng thời rủi ro cũng tăng lên.
Bên cạnh các nhóm chỉ tiêu trên, để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân
hàng thương mại, các nhà quản trị ngân hàng còn sử dụng các chỉ tiêu khác như:
Vốn huy động/ vốn tự có (phản ánh khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế),
tiền gửi không kỳ hạn/ tiền gửi có kỳ hạn (phản ánh khả năng cung ứng dịch vụ của
ngân hàng)…
Ngày nay, trong phân tích hoạt động kinh doanh và đánh giá hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nói chung và NHTMCP nói riêng, các tỷ số tài chính vẫn
thường được áp dụng vì phương pháp này tương đối đơn giản và dễ hiểu. Mỗi chỉ
tiêu tài chính biểu hiện mối quan hệ giữa hai biến số, phản ánh một khía cạnh trong
hoạt động của ngân hàng thương mại. Vì vậy, để đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại, chúng ta phải sử dụng hàng loạt các chỉ tiêu khác
nhau. Điều này gây không ít khó khăn cho các nhà quản trị và cả các cơ quan quản
lý nhà nước khi đánh giá và so sánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương
mại, nhất là khi đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tạo ra các sản phẩm,
dịch vụ tài chính phức tạp của NHTMCP. Để khắc phục các nhược điểm trong
phương pháp phân tích các hệ số tài chính, gần đây các nhà kinh tế đã sử dụng
phương pháp phân tích hiệu quả biên để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Phương pháp này giúp chúng ta nhìn thấy một bức tranh tổng thể
trong hoạt động của các NHTMCP.
1.2.1.2. Đánh giá hiệu quả bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên
Phân tích hiệu quả biên là phương pháp xác định chỉ số hiệu quả tương đối
dựa trên việc so sánh khoảng cách của các đơn vị (chẳng hạn, trong đề tài này là các
ngân hàng) với một đơn vị thực hiện hoạt động tốt nhất trên đường biên. Ưu điểm
của phương pháp này là cho phép xác định chỉ số hiệu quả chung của từng ngân
hàng và xếp hạng hiệu quả của ngân hàng dựa trên hoạt động thực tế. Đây cũng là

hiệu quả tốt nhất mà một ngân hàng đang thực hiện khi so sánh với các ngân hàng
16

khác. Những thông tin này giúp các nhà quản trị đánh giá được hiệu quả hiện tại của
ngân hàng và tìm cách cải thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Phân tích hiệu quả biên được chia thành 2 nhóm: tiếp cận tham số và tiếp cận
phi tham số. Cách tiếp cận tham số yêu cầu chỉ ra một dạng hàm cụ thể đối với
đường biên hiệu quả. Hạn chế của phương pháp này là nếu việc chỉ định dạng hàm
sai thì kết quả tính toán sẽ ảnh hưởng ngược đến các chỉ số hiệu quả, đồng thời cách
tiếp cận này đòi hỏi người sử dụng phải có một số kiến thức nhất định về toán học.
Cách tiếp cận phi tham số không yêu cầu đưa ra một dạng hàm cụ thể, cũng
như không đòi hỏi các ràng buộc về hình dáng của đường biên thực hiện tốt nhất.
Phương pháp thường được sử dụng trong cách tiếp cận này là phương pháp phân
tích bao dữ liệu DEA (Data Envelopment Analysis).
1.2.2. Đánh giá hiệu quả bằng cách tiếp cận hiệu quả biên phi tham số
1.2.2.1. Giới thiệu tổng quát về phương pháp DEA
Phương pháp DEA (DEA) là một cách tiếp cận phi tham số được khởi xướng
bỡi Charnes, Cooper và Rhodes (1978) để đo lường hiệu quả trong các tổ chức
công. Thực ra, nó lại có xuất phát điểm từ trước đó hơn 20 năm, bắt đầu từ ý tưởng
của Farrel. Mục tiêu của DEA là xây dựng một mặt bao lồi hiệu quả phi tham số sao
cho các điểm quan sát không nằm cao hơn đường giới hạn hiệu quả. Đường giới
hạn hiệu quả được xây dựng từ những đoạn thẳng kết nối các điểm hiệu quả nhất.
Vì DEA được xây dựng dựa trên các điểm thực tế (observed data) nên nó có
thể áp dụng được với các mẫu nghiên cứu nhỏ và thường được sử dụng trong phân
tích chuyên sâu theo lĩnh vực, địa phương. Mặc dù vậy, do đây là phương pháp tiếp
cận phi tham số, nó không tính toán mức sai số nên không tồn tại mức ý nghĩa hay
độ tin cậy; đồng thời điểm hiệu quả DEA là điểm hiệu quả tương đối giữa các đơn
vị khảo sát với nhau nên nếu có một DEA có điểm hiệu quả 100% (EF =1) nằm trên
đường giới hạn hiệu quả thì cũng không có nghĩa là nó đạt hiệu quả tối ưu trên thực
tế mà nó chỉ tốt hơn các đơn vị khác trong phạm vi khảo sát.

1.2.2.2. Các cách tiếp cận đánh giá hiệu quả
17

Phương pháp DEA đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị ra quyết định
DMU (Decision Making Unit) có hai hướng tiếp cận: hướng tiếp cận đầu vào trả lời
cho câu hỏi doanh nghiệp cần giảm chi phí tối thiểu là bao nhiêu để đạt đến trạng
thái tối ưu mà không thay đổi sản lượng đầu ra. Ngược lại, hướng tiếp cận đầu ra trả
lời cho câu hỏi doanh nghiệp cần tối đa hóa sản lượng là bao nhiêu để đạt đến trạng
thái tối ưu trong điều kiện giữ nguyên chi phí đầu vào.
* Cách tiếp cận đầu vào (Input – orientated measures)
Farrell minh họa ý tưởng của ông về hiệu quả kỹ thuật bằng cách sử dụng
một ví dụ đơn giản gồm các doanh nghiệp sử dụng 2 yếu tố đầu vào (x
1
và x
2
) để
sản xuất một đầu ra (y) trong điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô
1
. Các
doanh nghiệp nằm trên đường đẳng lượng đạt hiệu quả hoàn toàn, mô tả bằng
đường SS
,
trong Đồ thị 1.1, cho phép đo lường hiệu quả kỹ thuật.










Đồ thị 1.1: Hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận đầu vào
Nếu các doanh nghiệp sử dụng các lượng đầu vào, xác định tại điểm P để sản
xuất một đầu ra. Khi đó phi hiệu quả kỹ thuật của doanh nghiệp được xác định bằng
khoảng cách QP. Đây là lượng mà tất cả các yếu tố đầu vào có thể giảm xuống mà
không làm giảm đầu ra. Mức không hiệu quả này thường được tính theo phần trăm


1
Điều kiện sản lượng không đổi theo quy mô cho phép doanh nghiệp đại diện bằng một đường đẳng lượng
đơn vị - unit isoquant. Sau này, Farrell cũng đề cập đến việc mở rộng phương pháp của ông đối với trường
hợp 2 đầu vào, nhiều đầu ra và mô hình sản lượng thay đổi theo quy mô.

S
,


x
2
/y
x
1
/y

Q

P
O


S
S
,

×