Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 145-154 Trường Đại học Cần Thơ
145
MÙA VỤ VÀ KÍCH CỠ DI CƯ CỦA CÁ KÈO
(Pseudapocryptes elongatus) TRONG ĐIỀU KIỆN
AO NUÔI
Trần Đắc Định
1
và Võ Thành Toàn
1
ABSTRACT
A study on migratory season and size of the goby (Pseudapocryptes elongatus)
from captivity condition was carried out from December 2008 to December
2009 in Bac Lieu province. The goby started to migrate after 4 months in
culture; and from 6
th
to 8
th
month of culture, a number of the migratoty goby
was higher and the highest number was the 6
th
month. The result showed that
the goby started to migrate when they reached the size of 89.8 mm in standard
length and the most migratory size of 101 mm. The results also indicated that
migration of the goby was not affected by the temperature but the migration
was influenced by the salinity in the ponds. The results from analyses of the
gonad development, gonadosomatic index (GSI) and hepatosomatic Index
(HSI) indicated that the goby still not matured yet when they migrated.
Keywords: goby, Pseudapocryptes elongatus, migratory size, migratory
season
Title: Study on migratory season and size of the goby (Pseudapocryptes
elongatus) in captivity condition.
TÓM TẮT
Nghiên cứu về mùa vụ và kích cỡ di cư của cá kèo (Pseudapocryptes
elongatus) từ ao nuôi quảng canh cải tiến được thực hiện ở vùng ven biển tỉnh
Bạc Liêu trong thời gian từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 12 năm 2009. Kết
quả cho thấy cá kèo nuôi bắt đầu di cư từ tháng nuôi thứ 4, các tháng nuôi thứ
6, 7 và 8 có số cá thể di cư cao, trong đó tháng thứ 6 có số lượng di cư cao
nhất. Kích cỡ của cá kèo bắt đầu di cư khi chiều dài (chuẩn) là 89,8 mm và di
cư nhiều nhất ở chiều dài 101 mm. Theo dõi sự ảnh hưởng của nhiệt độ và độ
mặn cho thấy biến động của nhiệt độ nước trong ao không lớn nhưng vào các
tháng có độ mặn cao hơn thì số cá thể di cư nhiều hơn. Phân tích các giai đoạn
thành thục, hệ số thành thục sinh dục (GSI) và hệ số tích lũy năng lượng (HSI)
cho thấy cá kèo trong quá trình di cư đều chưa đến giai đoạ
n thành thục sinh
dục.
Từ khóa: cá kèo, Pseudapocryptes elongatus, mùa vụ di cư, kích cỡ di cư.
1
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 145-154 Trường Đại học Cần Thơ
146
1 GIỚI THIỆU
Cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) trước đây là một trong những đối tượng
khai thác có sản lượng cao ở vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long; tuy
nhiên trong những năm gần đây sản lượng khai thác đã giảm đi đáng kể, không
đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng cao. Xuất phát từ đó, các mô
hình nuôi cá kèo phát triển ở các tỉnh ven biển như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà
Vinh, Bến Tre, Cà Mau,… Do đặc tính dễ nuôi, thích nghi với những biến
động của môi trường nước, ít bị bệnh, hiệu quả kinh tế cao nên diện tích thả
nuôi cá kèo đã tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, do nguồn lợi cá kèo tự nhiên
đã suy giảm nhanh chóng, do đó nguồn cá kèo giống khai thác tự nhiên cung
cấp cho nghề nuôi cũng giảm đi đáng kể, không đáp ứng được nhu cầu nuôi
đang phát triển.
Trước nhu cầu phát triển nghề nuôi và quản lý nguồn lợi cá kèo, đã có khá
nhiều nghiên cứu về cá kèo đã được thực hiện; bao gồm nghiên cứu về đặc
điểm sinh học và vòng đời (Trần Đắc Định và ctv., 2002; Võ Thành Toàn và
ctv., 2005; Tran Dac Dinh at el., 2007; Tran Dac Dinh, 2008; Trương Hoàng
Minh, 2009; Trương Quốc Phú và Trương Hoàng Minh, 2010), nghiên cứu về
kỹ thuật và mô hình nuôi (Dương Nhựt Long, 2005; Phạm Văn Khánh và ctv.,
2008; Nguyễn Tấn Nhơn, 2008; Nguyễn Thị Ngọc Anh và ctv., 2009). Các
nghiên cứu này đã cung cấp nhiều thông tin hữu ích về vòng đời, phân bố, đặc
điểm sinh học sinh sản, hiện trạng khai thác và mô hình nuôi. Tuy nhiên, sự
hiểu biết về tập tính di cư của cá kèo theo thủy triều như mùa vụ di cư và kích
cỡ di cư vẫn còn chưa được nghiên cứu. Do đó, nghiên cứu này nhằm xác định
mùa vụ di cư và kích cỡ di cư của cá kèo trong mô hình nuôi quảng canh cải
tiến nhằm bổ sung thêm dẫn liệu khoa học về tập tính của cá kèo phân bố ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về mùa vụ và kích cỡ di cư của cá kèo trong mô hình nuôi quảng
canh cải tiến được tiến hành tại phường 8, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Tổng
diện tích nuôi là 4.000 m
2
, trong đó diện tích ao 1.000 m
2
, diện tích trảng 3.000
m
2
, độ sâu ao 0,8 m và độ sâu của trảng từ 0,3 - 0,4 m. Tổng số cá kèo giống
được thả nuôi là 7.000 con với chiều dài chuẩn (SL) từ 4 - 5 cm, toàn bộ cá
trước khi thả nuôi đều được đánh dấu bằng phương pháp cắt một phần vi đuôi
(Richard và Lee, 1989).
Số lượng cá di cư ra khỏi mô hình nuôi được ghi nhận bằng cách đặt lú ở cống
cấp nước mỗi tháng 2 lần vào thời kỳ con nước cường, mỗi lần thu kéo dài 2-3
ngày, thời gian nghiên cứu tháng 12 năm 2008 đến tháng 12 năm 2009. Trong
quá trình nghiên cứu, cá kèo nuôi được bổ sung thức ăn viên với mức độ vừa
đủ; nước trong ao được cấp thêm vào thời điểm con nước cường, cùng thời
điểm với việc thu mẫu cá di cư ra khỏi ao. Mẫu cá di cư được mang về Khoa
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 145-154 Trường Đại học Cần Thơ
147
Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ để xác định chiều dài cá (SL) khi bắt đầu di
cư, chiều dài cá (SL) khi di cư nhiều nhất. Ngoài ra một số đặc điểm sinh học
sinh sản của cá trong giai đoạn di cư cũng được xác định như giai đoạn thành
thục, hệ số thành thục (GSI), hệ số tích lũy năng lượng (HSI). Nhiệt độ và độ
mặn trong ao nuôi cũng
được ghi nhận hàng tháng.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Mùa vụ di cư
Tổng số 7.000 cá giống được thả nuôi có bổ sung thức ăn và theo dõi số lượng
cá di cư ra khỏi ao bằng cách đặt lú ở cống cấp nước. Kết quả cho thấy từ tháng
nuôi thứ nhất đến tháng nuôi thứ 3 cá không di cư ra khỏi ao nuôi, đến tháng
nuôi thứ 4 cá bắt đầu có hiện tượng di cư (trung bình 40 cá thể/ngày). Quá trình
di cư sau
đó kéo dài trong suốt 6 tháng tiếp theo cho đến tháng nuôi thứ 9, mặc
dù việc theo dõi sự di cư của cá vẫn được tiếp tục cho đến tháng nuôi thứ 12,
sau đó mới tiến hành thu hoạch. Kết quả thu hoạch cho thấy cá trong ao nuôi
đã di cư hoàn toàn, nghĩa là không còn cá kèo thả nuôi trong ao sau 12 tháng
nuôi.
Bảng 1: Các thông số về mùa vụ di cư của cá kèo trong ao nuôi
Thời gian di cư
(ngày)
Tháng
nuôi
Di cư
Số cá thể
di cư trung
bình/ngày
Tổng số Con nước
rằm, 15 âl
Con nước
rong, 30 âl
Số cá thể
di cư
1 Chưa di cư 0 0 0 0 0
2 Chưa di cư 0 0 0 0 0
3 Chưa di cư 0 0 0 0 0
4 Bắt đầu di cư 40 7 7 0 280
5 Đang di cư 23 9 9 0 207
6 Đang di cư 74 14 6 8 1.036
7 Đang di cư 57 13 6 7 741
8 Đang di cư 51 11 5 6 561
9 Đang di cư 2 3 3 0 6
10 Không còn di cư 0 0 0 0 0
11 Không còn di cư 0 0 0 0 0
12 Không còn di cư 0 0 0 0 0
Tổng 57 36 21 2.831
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 145-154 Trường Đại học Cần Thơ
148
Số lượng cá thể di cư của cá kèo qua các tháng nuôi được trình bày ở Bảng 1.
Kết quả cho thấy cá bắt đầu di cư từ tháng nuôi thứ 4 với số lượng trung bình
là 40 cá thể/ngày, đến tháng nuôi thứ 9 chỉ di còn 2 cá thể/ngày. Trong thời
gian cá di cư, các tháng thứ 6, 7 và 8 có số lượng cá di cư cao, trong đó ở tháng
nuôi thứ 6 có số lượng di cư cao nhất (74 cá thể/ngày) (Hình 1). Kết quả cũng
cho thấy tổng số 2.831 cá thể đánh dấu được đánh bắt lại trong tổng số 7.000
cá thể đánh dấu được thả ra nuôi, chiếm tỉ lệ khoảng 40%. Kết quả này chỉ ra
rằng cá kèo nuôi thí nghiệm có tỉ lệ chết khoảng 60%, trong đó bao gồm
nguyên nhân là cá chết trong quá trình nuôi và một phần do ảnh hưởng của
phương pháp đánh đấu là cắt một phần vi đuôi của cá. Tuy nhiên so với các
nghiên cứu trước đây thì tỉ lệ sống của cá kèo nuôi cũng chỉ đạt khoảng 40-
50%, điều đó cho thấy phương pháp cắt một phần vi đuôi không ảnh hưởng
nhiều đến tỉ lệ chết của cá.
Kết quả cho thấy cá kèo di cư mỗi tháng 2 lần, tương ứng với 2 thời kỳ triều
lên trong tháng đó là con nước rằm (15 âm lịch) và con nước rong (30 âm lịch).
Tuy nhiên, trong 2 tháng đầu di cư, cá kèo chỉ di cư vào thời điểm con nước
rong. Kết qủa cũng tương tự ở tháng cuối của quá trình di cư (tháng nuôi thứ
9), nghĩa là cá cũng chỉ di cư vào thời điểm con nước rong (Hình 2). Trong giai
đoạn con nước rong hay còn gọi là con nước ba mươi (âl) tương ứng với thời
điểm trăng non, trời tối. Kết quả này phù hợp với của Esteves et al. (2000); các
tác giả này cho thấy đối với họ cá bống (Gobiidae) chúng thường xuất hiện vào
ban đêm nhiều hơn so với ban ngày. Trong nghiên cứu hiện tại cho thấy trong
suốt thời gian cá di cư từ tháng nuôi thứ 4 đến tháng nuôi thứ 9, đều quan sát
thấy cá kèo luôn di cư trong giai đoạn con nước rong, tức con nước 30 âl, là
thời điểm trăng non. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy số ngày cá di cư giữa các
tháng nuôi dao động khá rộng (từ 3 đến 14 ngày), trong đó ở các tháng nuôi thứ
6, 7 và 8 có số ngày di cư cao, đặc biệt ở tháng nuôi thứ 6 cá di cư 14
ngày/tháng.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
12 3 456789101112
Số cá thể di cư/ngày
Tháng nuôi
Hình 1: Số cá thể di cư trung bình trong một ngày qua các tháng nuôi
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 145-154 Trường Đại học Cần Thơ
149
0
2
4
6
8
10
12
14
16
123456789
Số ngày cá di cư
Tháng nuôi
Tổng số ngày
Con nước rằm
(15 âl)
Con nước rong
(30 âl)
Hình 2: Sự di cư của cá kèo qua các tháng nuôi theo hai con nước thủy triều
3.2 Kích cỡ di cư
Bảng 2: Kích cỡ di cư của cá kèo trong mô hình ao nuôi
Tháng
nuôi
Trạng thái Chiều dài
chuẩn, mm
Chiều dài nhỏ
nhất (L
min
), mm
Chiều dài lớn
nhất (L
max
), mm
1 Chưa di cư 59,8 ± 11,9 39 94
2 Chưa di cư 61,2 ± 14,1 40 98
3 Chưa di cư 64,6 ± 13,6 48 98
4 Bắt đầu di cư 89,8 ± 9,9 70 110
5 Đang di cư 93,04 ± 10,1 74 110
6 Đang di cư 100,6 ± 22,1 36 151
7 Đang di cư 110,9 ± 8,9 95 125
8 Đang di cư 114,6 ± 11,7 80 135
9 Đang di cư 112,5 ± 35 110 115
10 Không còn di cư - - -
11 Không còn di cư - - -
12 Không còn di cư - - -
Cá được thả nuôi từ tháng 12 năm 2008 với kích thước chiều dài chuẩn của cá
dao động từ 40 đến 50 mm. Sau một tháng nuôi cá đạt chiều dài trung bình
59,8 mm. Tháng nuôi thứ 4 thì cá bắt đầu di cư với chiều dài 89,8 mm (Bảng
2). Kết quả cũng cho thấy ở thời điểm di cư nhiều nhất (tháng nuôi thứ 6) thì cá
có chiều dài 100,6 mm. Ở tháng cuối của quá trình di cư (tháng nuôi thứ 9) cá
có chiều dài trung bình 114,6 mm (Bảng 2).