Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

NGHIÊN CỨU NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BÁN LẺ TẠI CÁC CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 94 trang )






























BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MÌNH






Nguyễn Thị Phương Thảo

NGHIÊN CỨU NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BÁN LẺ TẠI CÁC
CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở TP. HỒ CHÍ MINH






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ





Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013






























BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MÌNH



Nguyễn Thị Phương Thảo

NGHIÊN CỨU NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BÁN LẺ TẠI CÁC

CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Kinh doanh Thương mại
Mã số: 60340121


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. VÕ THANH THU



Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế này là công trình nghiên cứu của bản thân,
được đúc kết từ quá trình học tập và nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua. Các
thông tin và số liệu được sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực.

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013
Người cam đoan

Nguyễn Thị Phương Thảo














MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………
1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài…………………………………
2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu……………………….
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………
4. Tổng quan nghiên cứu………………………………………………
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………
6. Tóm tắt nội dung nghiên cứu……………………………………….
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT………………………………………
1.1. Một số lý thuyết về mô hình cửa hàng tiện ích………………………
1.1.1. Lịch sử hình thành cửa hàng tiện ích……………………………….
1.1.2. Định nghĩa cửa hàng tiện ích……………………………………….
1.1.3. Sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và các loại hình tương tự……
1.1.3.1. Sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và cửa hàng tạp hóa…………
1.1.3.2. Sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và siêu thị……………………
1.1.4. Vai trò của cửa hàng tiện ích………………………………………
1.2. Chất lượng dịch vụ…………………………………………………

1.2.1. Dịch vụ……………………………………………………………
1.2.1.1. Khái niệm về dịch vụ………………………………………………
1.2.1.2. Đặc điểm của dịch vụ……………………………………………….
1.2.2. Chất lượng dịch vụ………………………………………………….
1.3. Các nhân tố tác động đến chất lượng dịch vụ………………………
1.3.1. Theo nghiên cứu của Gronroos (1984)……………………………
1.3.2. Theo nghiên cứu của Parasuraman và cộng sự (1985)………………
1.3.3. Theo một số nghiên cứu khác……………………………………….
1.4. Các mô hình đo lường chất lượng dịch vụ…………………………
1
1
4
4
4
7
7
9
9
9
10
10
10
11
13
14
14
14
14
15
16

17
17
20
20
1.4.1. Mô hình chất lượng kỹ thuật và chất lượng chức năng (Gronroos,
1984)………………………………………………………………
1.4.2. Mô hình 5 khoảng cách chất lượng dịch vụ (Parasuraman và cộng
sự, 1985)…………………………………………………………….
1.4.3. Mô hình chỉ tính đến cảm nhận về sự thực hiện dịch vụ (Cronin và
Taylor, 1992)………………………………………………………
1.5. Chất lượng dịch vụ bán lẻ…………………………………………
1.5.1. Các nhân tố tác động đến chất lượng dịch vụ bán lẻ……………….
1.5.2. Mô hình đo lường chất lượng dịch vụ bán lẻ RSQS (Dabholkar và
cộng sự, 1996)………………………………………………………
1.5.2.1. Giới thiệu mô hình…………………………………………………
1.5.2.2. Các nhân tố cấu thành……………………………………………….
1.6. Mô hình nghiên cứu đề xuất và các giả thuyết……………………
CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU………………………………
2.1. Quy trình nghiên cứu………………………………………………
2.2. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu…………………………………………………
2.2.1.1. Nghiên cứu sơ bộ……………………………………………………
2.2.1.2. Nghiên cứu chính thức……………………………………………
2.2.2. Mẫu và thông tin mẫu……………………………………………….
2.2.3. Phương pháp phân tích dữ liệu……………………………………
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ KHẢO SÁT VÀ KẾT LUẬN…………………
3.1. Đặc điểm của mẫu khảo sát…………………………………………
3.2. Kiểm định các thang đo……………………………………………
3.2.1. Kiểm định Cronbach’s Apha đối với các thang đo lý thuyết……….
3.2.2. Đánh giá chất lượng dịch vụ bán lẻ bằng phân tích nhân tố khám

phá (EFA)…………………………………………………………
3.3. Phân tích kết quả……………………………………………………
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DỊCH VỤ BÁN LẺ TẠI CÁC CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở TP. HỒ CHÍ
MINH……………………………………………………………………….

21

22

25
26
26

28
28
29
31
34
34
34
34
34
40
40
42
43
43
46
46



50
54


58
4.1. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bán lẻ tại các cửa hàng
tiện ích ở Tp. Hồ Chí Minh thông qua kết quả khảo sát…………….
4.2. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo…………………
KẾT LUẬN…………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

58
65
68















DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1. So sánh sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và cửa hàng tạp hóa
Bảng 1.2. So sánh sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và siêu thị………….
Bảng 1.3. Thành phần cấu thành chất lượng dịch vụ bán lẻ trong một số
nghiên cứu………………………………………………………
Bảng 2.1. Bản dịch thang đo thang đo chất lượng dịch vụ bán lẻ RSQS…….
Bảng 3.1. Đặc điểm của mẫu khảo sát………………………………………
Bảng 3.2. Kiểm định Cronbach’s Alpha của thành phần Cơ sở vật chất của
các cửa hàng tiện ích ở Tp. HCM……………………………
Bảng 3.3. Kiểm định Cronbach’s Alpha của thành phần Sự tin cậy của các
cửa hàng tiện ích ở Tp. HCM……………………………………
Bảng 3.4. Kiểm định Cronbach’s Alpha của thành phần Sự tương tác cá
nhân của các cửa hàng tiện ích ở Tp. HCM………………………
Bảng 3.5. Kiểm định Cronbach’s Alpha của thành phần Cách giải quyết vấn
đề của các cửa hàng tiện ích ở Tp. HCM…………………………
Bảng 3.6. Kiểm định Cronbach’s Alpha của thành phần Chính sách của các
cửa hàng tiện ích ở Tp. HCM……………………………………
Bảng 3.7. Hệ số KMO và kiểm định Bartlett………………………………
Bảng 3.8. Kết quả EFA thang đo chất lượng dịch vụ tại các cửa hàng tiện
ích ở Tp. Hồ Chí Minh…………………………………………


10
12

27
35
43


46

47

48

48

49
51

51







DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 1.1. Mô hình chất lượng kỹ thuật và chất lượng chức năng –
Gronroos (1984)…………………………………………………
Hình 1.2. Mô hình 5 khoảng cách chất lượng dịch vụ (Parasuraman và
cộng sự, 1985)…………………………………………………….
Hình 1.3: Mô hình đo lường chất lượng dịch vụ bán lẻ - RSQS (Dabholkar,
Thorpe và Rentz (1996)…………………………………………
Hình 1.4. Mô hình nghiên cứu đề xuất……………………………………
Hình 3.1. Đồ thị mẫu phân bố theo giới tính………………………………

Hình 3.2. Đồ thị mẫu phân bố theo độ tuổi………………………………….
Hình 3.3. Đồ thị mẫu phân bố theo thu nhập………………………………


22

23

29
32
44
45
45






1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài
Với hơn 90 triệu người và 60% dân số nằm trong độ tuổi lao động, Việt Nam
đã và đang có tiềm năng rất lớn đối với ngành dịch vụ bán lẻ. Mặc dù hầu hết dân số
có mức thu nhập trung bình thấp, tuy nhiên với mức thu nhập ngày càng tăng (1.540
USD/người/năm 2012), tỉ lệ người có mức thu nhập trung bình cao hơn được dự
báo sẽ tăng mạnh từ khoảng 1% năm 2010 lên tới 10% vào năm 2030. Điều này sẽ
dẫn đến việc tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là ở những đô thị
lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ.

Vào tháng 5/2013, Kantar Worldpanel, công ty hàng đầu thế giới về nghiên
cứu thị trường dựa trên chương trình nghiên cứu hành vi người tiêu dùng, đã báo
cáo về bức tranh tổng thể ngành bán lẻ, tiệm tạp hóa vẫn là điểm đến được ưa
chuộng nhất khi đi mua sắm hàng tiêu dùng nhanh. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là
kênh mua sắm hiện đại đã vượt qua chợ, trở thành kênh mua sắm được ưa chuộng
thứ hai. Ở khu vực 4 thành phố chính, kênh mua sắm hiện đại đã đạt 18% thị phần,
với mức tăng trưởng hai con số hàng năm. Hiện nay, 85% người thành thị và 24%
người tiêu dùng nông thôn có mua sắm ở các kênh hiện đại ít nhất một lần trong
năm. Các cửa hàng tiện lợi và siêu thị mini sẽ tiếp tục phát triển mạnh, đến năm
2022 mỗi hộ gia đình ít nhất sẽ mua sắm ở các cửa hàng một lần trong năm.
Vì nhu cầu ngày càng cao về vệ sinh an toàn thực phẩm, về xuất xứ hàng hóa,
cộng với lối sống công nghiệp ngày càng phát triển tại các đô thị lớn, người tiêu
dùng cũng không còn nhiều thời gian và nhận ra nhiều bất cập đối với các loại hình
chợ truyền thống, phần lớn người tiêu dùng ở đây đã bắt đầu hình thành và sử dụng
nhiều hơn thói quen mua sắm tại các Đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng tiện ích,….
Chính điều này đã khiến cho kênh phân phối hiện đại ngày càng được nhân rộng và
có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian gần đây.
Cùng với sự phát triển chung của kênh mua sắm hiện đại, mô hình cửa hàng
tiện ích cũng đã, đang thâm nhập và có hướng phát triển tốt ở thị trường Việt Nam.
2

Với lợi thế về quy mô cửa hàng và thuận tiện về giờ phục vụ, cửa hàng tiện ích
ngày càng có mặt nhiều hơn ở các khu dân cư, nơi gần trường học,… để đáp ứng
nhu cầu mua sắm nhỏ gọn và tiết kiệm thời gian, nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu
cao về chất lượng hàng hóa. Theo Công ty nghiên cứu thị trường Kantar
Worldpanel, mức tăng trưởng của mô hình cửa hàng tiện ích so với cùng kỳ năm
trước lên đến 80%, gắn với nhu cầu về sự tiện lợi của người tiêu dùng thành thị.
Khắc phục được nhược điểm của chợ truyền thống cũng như siêu thị, các cửa hàng
tiện ích có thể sẽ soán ngôi trên thị trường bán lẻ trong tương lai không xa. Đây là
cánh tay nối dài của các doanh nghiệp và nhà cung cấp nhằm đưa hàng hóa đến gần

hơn với người tiêu dùng, từng bước làm thay đổi thói quen mua sắm của người Việt
Nam. Sự phát triển các cửa hàng tiện ích tại nhiều khu dân cư, khu công nghiệp góp
phần phục vụ nhu cầu mua sắm ngày càng cao của người tiêu dùng.
Nắm bắt được thế mạnh của mô hình cùng với nhu cầu của người tiêu dùng
trẻ ở các thành phố lớn, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã có chiến lược phát
triển mạnh cho loại hình cửa hàng tiện ích. Không khó để người tiêu dùng có thể kể
tên những chuỗi cửa hàng tiện ích hiện có ở những thành phố lớn vì độ bao phủ
ngày càng rộng của nó. Có thể kể ra đây như: Shop & Go, Circle K, B’s Mart, Coop
Foods, Satra Foods, Ministop,… Tuy nhiên, nhưng con số và những cái tên trên đây
chỉ phản ánh hiện trạng hoạt động của các cửa hàng tiện ích. Mặc dù có phần sôi nổi
và hấp dẫn, nhưng để tồn tại và phát triển bền vững, các nhà quản lý không thể
không rút kết những bài học quý báu từ sự thất bại và trì trệ của một số chuỗi cửa
hàng tiện ích đã từng tồn tại. Điển hình cho sự thất bại trong loại hình kinh doanh
này là sự diệt vong của chuỗi cửa hàng G7 Mart của Trung Nguyên. Đi tiên phong
trong việc phát triển chuỗi cửa hàng tiện ích ở Việt Nam, năm 2006, chỉ trong vòng
2 tháng, G7 Mart đã đưa vào hoạt động chuỗi cửa hàng gồm 500 cửa hàng chuẩn,
9500 cửa hàng thành viên, với ý tưởng xây dựng chuỗi cửa hàng tiện ích dựa trên
nền sản xuất sẵn có của các cửa hàng tạp hóa cũ, liên kết với các nhà phân phối, nhà
sản xuất trong nước, tạo nên một hệ thống phân phối thống nhất hoàn chỉnh. Nhưng
do không nắm bắt được nhu cầu thực tế lúc bấy giờ của người tiêu dùng, cùng với
3

những yếu kém trong việc quản lý nguồn hàng, vấn đề trang trí cửa hàng…, chuỗi
cửa hàng này ra đi lặng lẽ kéo theo sự sụp đổ về niềm tin với những ai đặt kỳ vọng
lớn vào sự thành công của một doanh nghiệp nội địa trên thị trường bán lẻ. Cùng
với G7 Mart, những cái tên đã từng được biết nhiều trong giai đoạn đầu phát triển
cửa hàng tiện ích ở Việt Nam như Chuỗi cửa hàng Speedy, cửa hàng V-24h,
FamilyMart,… cũng đã rút dần khỏi thị trường. Liệu rằng sự phát triển trở lại gần
đây của những cái tên mới sẽ làm thế nào để khắc phục được những yếu kém trong
cách thức phục vụ và chất lượng dịch vụ tại cửa hàng, đáp ứng được sự kỳ vọng của

người tiêu dùng để mô hình này thực sự là mô hình kinh doanh hiệu quả và bền
vững tại thị trường Việt Nam?
Với sự phát triển khá lúng túng và yếu kém trong giai đoạn đầu, hiện nay, mô
hình kinh doanh cửa hàng tiện ích ở nước ta vẫn còn kém xa so với các nước có
điều kiện kinh tế ngang bằng trong khu vực. Ông Kigure Takehiko - chủ tịch Công
ty TNHH Cửa hàng tiện lợi gia đình VN, đơn vị sở hữu cửa hàng tiện lợi
FamilyMart tại Việt Nam, hiện ở Việt Nam, cho biết Family Mart mới có kế hoạch
mở lại 20 cửa hàng cho đến cuối năm 2013, thì hiện nay ở Thái Lan đã có hơn 700
cửa hàng này. Theo một khảo sát về hành vi mua sắm của người tiêu dùng ở một số
thành phố lớn tại Châu Á do tổ chức Nomura Research Institue tiến hành vào tháng
10 – 11 năm 2011 cho thấy, mức người đi mua sắm hàng tháng ở cửa hàng tiện ích
tại Tp. Hồ Chí Minh chỉ có 14%, trong khi ở Bangkok là 95%, ở Manila là 69%, ở
Kuala Lampar là 81%. Những con số khách quan trên đây phần nào nói lên được
mức độ yêu thích và thường xuyên mua sắm tại cửa hàng tiện ích ở nước ta còn rất
kém. Vậy ngoài các lý do khách quan như thị hiếu tiêu dùng, thói quen mua sắm,
các chính sách,… thì nội tại các doanh nghiệp trong nước đã thiếu sót những gì
khiến cho cửa hàng tiện ích chưa phải là nơi mua sắm yêu thích của người tiêu dùng
như vậy?
Với tất cả lý do trên đây, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu về: “NGHIÊN
CỨU NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ BÁN LẺ TẠI
CÁC CỬA HÀNG TIỆN ÍCH Ở TP. HỒ CHÍ MINH” để làm đề tài Luận Văn
4

của mình. Qua nghiên cứu trên cả mặt lý luận và thực tiễn, tác giả mong muốn kết
quả nghiên cứu của mình sẽ đóng góp một cái nhìn khoa học về những vấn đề tồn
tại bên trong doanh nghiệp xét trên khía cạnh chất lượng dịch vụ bán lẻ tại cửa hàng
tiện ích để giúp các nhà quản lý có thể phát huy thế mạnh và khắc phục những hạn
chế của doanh nghiệp. Từ đó các nhà quản lý cửa hàng tiện ích có thể xây dựng các
giải pháp và định hướng phát triển cho cửa hàng mình dựa trên một dịch vụ bán lẻ
tốt, đáp ứng được sự kỳ vọng của khách hàng, góp phần tạo nên sự phát triển bền

vững cho mô hình kinh doanh cửa hàng tiện ích.
2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhắm đến các mục tiêu cụ thể sau:
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ bán lẻ tại các cửa
hàng tiện tích trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị dựa trên kết quả định lượng để nâng
cao chất lượng dịch vụ bán lẻ ở cửa hàng tiện ích tại Tp. Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ bán lẻ
tại các cửa hàng tiện ích trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: khách hàng đã từng mua sắm tại các cửa hàng tiện ích ở
Tp. Hồ Chí Minh.
4. Tổng quan nghiên cứu:
Mô hình cửa hàng tiện ích là một trong các mô hình của ngành kinh doanh bán
lẻ hiện đại, đã ra đời và phát triển từ lâu trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, vì tính
chất mới mẻ và còn hạn hẹp về độ phủ rộng của các loại hình kinh doanh bán lẻ nói
chung, trong đó có mô hình cửa hàng tiện ích nên mới chỉ có một vài nghiên cứu
liên quan đến chất lượng dịch vụ bán lẻ, chủ yếu là với hình thức siêu thị.
5

- Kulkarni, V.R. 2011. Customer Expectation Management in
Convenience Stores Format in Organized Retail in India. The IUP Journal of
Marketing Management, Vol. X
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm khám phá sự ảnh tác động của các nhân
tố khác nhau - chất lượng hàng hóa, sự đa dạng về chủng loại và phân hạng hàng
hóa, độ cảm quan bề mặt hàng hóa, vị trí và giờ giấc làm việc của cửa hàng, thái độ
của nhân viên trong cửa hàng – với trải nghiệm của khách hàng khi mua sắm tại cửa
hàng tiện ích.
Nghiên cứu kết luận rằng mô hình cửa hàng tiện ích còn non trẻ, chỉ chiếm 5%
tổng doanh số bán lẻ ở Ấn Độ. Để tồn tại và phát triển được trước loại hình cửa

hàng Karina (loại hình cửa hàng truyền thống ở Ấn Độ với mối liên hệ trực tiếp với
khách hàng khi mua sắm, chi phí kinh doanh thấp, bán nợ cho khách hàng) là một
thách thức khó khăn nhất. Với kết quả từ nghiên cứu này, những nhà quản lý cửa
hàng tiện ích cần cố gắng cạnh tranh bằng cách làm tăng thêm tính tiện ích, chủng
loại và cấp độ hàng hóa, chất lượng hàng hóa cũng như dịch vụ hậu mãi và thêm
nhiều trải nghiệm mua sắm tiện ích khác cho khách hàng.
Nghiên cứu được tiến hành ở Ấn Độ, có tình hình kinh tế và những quan niệm
xã hội cũng như hành vi tiêu dùng của người dân khá giống Việt Nam. Tuy nhiên,
mô hình còn ít biến quan sát, mẫu nhỏ, chưa đề cập đến lòng trung thành của khách
hàng, chưa đưa ra được mô hình hồi quy tuyến tính giữa các biến với sự thỏa mãn
của khách hàng.
- Dabholkar và cộng sự, 1996. A Measure of Service Quality for Retail
Stores: Scale Development and Validation. Journal of the Academy of
Marketing Science, 24 (1), pp. 3-16.
Để phù hợp với ngành công nghiệp bán lẻ, nhóm tác giả đã phát triển Mô hình
dịch vụ bán lẻ - RetailService Quality Model (RSQS). Dựa trên SERVPERF, mô
hình RSQS bao gồm 28 biến quan sát, trong đó có 17 biến từ SERVPERF và 11
biến được phát triển từ nghiên cứu định tính. Mô hình RSQS do Dabholkar đề xuất
6

mang tính cấp bậc, gồm 5 thành phần chính được đặt tên là: cơ sở vật chất, sự tin
cậy, sự tương tác cá nhân, giải quyết vấn đề và chính sách. Các thành phần này
đứng vị trí thứ hai trong cấp bậc và bao gồm các đại lượng nhỏ hơn gồm 28 biến
quan sát.
Thang đo RSQS ra đời phù hợp rất nhiều cho các loại hình cửa hàng kinh vừa
sản phẩm, vừa dịch vụ. Nhưng vì thang đo này được nhóm tác giả phát triển và
kiểm định tại thị trường Mỹ nên có những đặc điểm không phù hợp với những đất
nước khác. Do đó, thang đo này đã được điều chỉnh và áp dụng để đo lường chất
lượng dịch vụ bán lẻ và sự thõa mãn của khách hàng ở một số loại hình cửa hàng
đặc thù ở một số nước khác nhau.

- Nguyễn Thị Mai Trang, 2006. Chất lượng dịch vụ, sự thỏa mãn và lòng
trung thành của khách hàng siêu thị tại Tp. Hồ Chí Minh. Tạp chí phát triển
khoa học và Công nghệ, Tập 9.
Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ siêu thị, sự thỏa mãn
và lòng trung thành của người tiêu dùng đối với siêu thị. Nghiên cứu này cho thấy,
thang đo SERVQUAL và thang đo chất lượng dịch vụ bán lẻ siêu thị (Dabholkar,
1996), ra đời và ứng dụng tại Mỹ và Châu Âu, có thể được áp dụng tại Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta cần một số điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp. Kết quả nghiên
cứu cho thấy chất lượng dịch vụ siêu thị bao gồm năm thành phần: chủng loại hàng
hóa, khả năng phục vụ nhân viên, trưng bày hàng hóa, mặt bằng siêu thị, và mức độ
an toàn trong siêu thị. Kết quả cũng chỉ ra rằng nếu tăng chất lượng dịch vụ thì sẽ
làm tăng mức độ thỏa mãn của khách hàng.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Một là, nghiên cứu này chỉ thực hiện cho
một số siêu thị ở Tp. Hồ Chí Minh. Khả năng tổng quát hóa kết quả của nghiên cứu
sẽ cao hơn nếu nó được lặp lại tại một số thành phố khá. Hai là, nghiên cứu chỉ xem
xét tác động của chất lượng dịch vụ vào sự thỏa mãn và lòng trung thành của khách
hàng. Có thể có nhiều yếu tố khác nữa góp phần vào việc giải thích cho sự thỏa mãn
và lòng trung thành của khách hàng.
7

5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Nguồn dữ liệu:
- Dữ liệu thứ cấp: tổng hợp, thu thập từ các các trang web uy tín, từ các bài
báo, nghiên cứu khoa học đã được công bố.
- Dữ liệu sơ cấp: thu thập từ việc trả lời các câu hỏi được gửi đến các đối
tượng khách hàng mua sắm tại các cửa hàng tiện tích trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp thực hiện:
- Nghiên cứu định tính: từ các dữ liệu thứ cấp, tác giả tổng hợp, phân tích và
chọn lọc ra các nhân tố để làm thang đo về chất lượng dịch vụ bán lẻ tại các cửa
hàng tiện ích. Sau đó, tác giả sẽ thực hiện các cuộc thảo luận nhóm với nhóm đối

tượng là khách hàng của cửa hàng tiện ích, từ 5-10 người để điều chỉnh lại thang đo.
- Nghiên cứu định lượng: sau khi bảng câu hỏi được hoàn chỉnh qua thảo luận
nhóm, tác giả sẽ tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp từ các khách hàng của cửa hàng
tiện ích, với mẫu dự kiến trên 200 người. Để đảm bảo tính đại diện của mẫu, tác giả
sử dụng cả 2 hình thức khảo sát: khảo sát trực tuyến và khảo sát trực tiếp. Với
những nhóm đối tượng định trước, tác giả sẽ tiến hành khảo sát với học sinh, sinh
viên, công nhân viên, và các đối tượng trực tiếp đến mua sắm tại các cửa hàng tiện
ích theo sự phân tán dân cư nhất định. Từ số liệu thu thập được, tác giả tiến hành
làm sạch và xử lý bằng SPSS (16.0) để xác định các nhóm nhân tố tác động đến
chất lượng dịch vụ bán lẻ tại các cửa hàng tiện ích.
6. Tóm tắt nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Trong chương 1, tác giả sẽ giới thiệu chung về các khái niệm cửa hàng tiện ích, chất
lượng dịch vụ. Nghiên cứu các lý thuyết về các nhân tố tác động đến chất lượng
dịch vụ, và đặc biệt là dịch vụ bán lẻ. Từ đó, giới thiệu các mô hình đo lường chất
lượng dịch vụ bán lẻ dựa trên các nhân tố tác động.
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
8

Từ các mô hình trên, trong chương 2 tác giả dùng phương pháp nghiên cứu định
tính để điều chỉnh, hoàn thiện thang đo cho mô hình nghiên cứu đề xuất. Sau đó,
dùng phương pháp nghiên cứu định lượng để điều tra, khảo sát với thang đo chính
thức để đạt được 1 mẫu đủ lớn đưa vào phân tích ở chương sau.
Chương 3: Kết quả khảo sát và kết luận
Trong chương 3, tác giả sẽ tóm lược sơ các thông tin và đặc tính mẫu. Sau đó trình
bày chi tiết các bước xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0, tiến hành các kiểm
định về độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá để phát hiện các nhóm
nhân tố có ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ bán lẻ ở các cửa hàng tiện ích tại Tp.
Hồ Chí Mính.
Chương 4: Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bán lẻ tại các cửa

hàng tiện ích ở tp. Hồ Chí Minh
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3, tác giả sẽ nêu 1 số kiến nghị cho các nhà quản
lý cửa hàng tiện ích, nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ bán lẻ thông
qua các nhân tố trong nghiên cứu. Phần cuối chương 4, tác giả đưa ra một số hạn
chế nghiên cứu này gặp phải và đề xuất hướng nghiên cứu cho các đề tài tiếp theo.









9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Một số lý thuyết về mô hình cửa hàng tiện ích
1.1.1. Lịch sử hình thành cửa hàng tiện ích
Cửa hàng tiện ích đầu tiên trên thế giới được sinh ra tại bang Texas, Mỹ vào
cuối những năm 1920. Tại Mỹ, một đất nước rộng lớn với khu vực nhà ở và khu
vực thương mại thường cách xa nhau, cho nên dễ thấy việc người dân thường mua
những hàng hóa thiết yếu hàng ngày ở siêu thị vào một thời gian cố định nào đó. Có
nhiều trường hợp xảy ra khi mà một món đồ cần thiết nào đó lại đột ngột không
được chuẩn bị trong lúc mua sắm số lượng lớn ở siêu thị. Để đáp ứng nhu cầu đột
xuất này, cửa hàng tiện lợi đã được phát triển dưới dạng một cửa hàng có thể bán
những hàng hóa thiết yếu hàng ngày với số lượng nhỏ nhất. Công ty Southland,
thành lập tại bang Texas Dallas, Mỹ, vào năm 1927 đã cho ra đời những cửa hàng
tiện ích như thế. John Jefferson Green, người điều hành một cửa hàng bán đá lẻ
công ty sản xuất đá Southland, đã điều hành việc kinh doanh ngày qua ngày, với 16

giờ mỗi ngày mà không có một kỳ nghỉ nào vào cả mùa hè khi có hạn hán kéo dài.
Vào mùa hè năm 1927, ông đã đề xuất công ty cho ông được bán thêm thực phẩm
và đồ dùng cá nhân để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đề xuất của ông đã
được chấp nhận. Vào ngày 01/05/1928, ông đã trả 1000 USD như một phần doanh
thu của công ty để đảm bảo cho lời đề nghị của mình. Hình thức kinh doanh cửa
hàng tiện ích đã ra đời từ đó. Ban đầu, cửa hàng này khá nhỏ và chủ yếu bán đồ
uống, thức ăn nhẹ, thực phẩm mới qua sơ chế, dược phẩm không cần đơn bác sĩ và
tạp chí.
Tuy nhiên, phần lớn người Nhật lại cho rằng cửa hàng tiện ích được sinh ra tại
Nhật Bản. Theo những tài liệu thu thập được, thì chủ blogspot có tên “All-of-
conveniencestore” cũng có đưa ra lịch sử hình thành cửa hàng tiện ích ở Nhật. Theo
đó, cửa hàng tiện ích đầu tiên ở Nhật được thành lập tại ga Tajimi ở Gifu vào năm
1962. Cửa hàng này được lập nên từ những người quan tâm đến các dịch vụ của tàu
hỏa. Nhưng cũng có thể cửa hàng Mỹ được xây dựng ở Osaka vào năm 1969 là hình
thức cửa hàng tiện ích đầu tiên của người Nhật. Năm 1971, Cocostore được lập tại
10

Aichi, năm 1972, Family Mart được lập tại Saitaman, và vào năm 1974, cửa hàng
Seven Eleven được ra đời lần đầu tiên tại Tokyo.
1.1.2. Định nghĩa cửa hàng tiện ích
Hiện nay tại Việt Nam chưa có văn bản chính thức nào quy định về loại hình
kinh doanh này. Theo như định nghĩa của Hiệp hội Các cửa hàng tiện ích và bán lẻ
nhiên liệu của Mỹ (NACS) thì: “Một cửa hàng tiện ích là một loại hình kinh doanh
bán lẻ với mục tiêu căn bản là cung cấp cho người dân một địa điểm thuận tiện để
mua sắm nhanh chóng nhiều chủng loại sản phẩm tiêu dùng (phần lớn là thực phẩm
hoặc thực phẩm và nhiêu liệu) và dịch vụ.”
Ở Việt Nam, ta có thể nhận thấy, cửa hàng tiện ích: là một loại cửa hàng nhỏ,
diện tích khoảng trên 50m2 chuyên bày bán các loại hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu
hàng ngày về những món đồ lặt vặt, và có thể được tìm thấy trên mọi con phố. Loại
hình này thường được coi như là cánh tay kéo dài của các siêu thị, đại siêu thị, len

lỏi vào các khu dân cư để phục vụ người tiêu dùng một cách nhanh chóng, tiện lợi
và hiệu quả nhất.
1.1.3. Sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và các loại hình tương tự
1.1.3.1. Sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và cửa hàng tạp hóa
Bảng 1.1. So sánh sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và cửa hàng tạp hóa
Cửa hàng tạp hóa
Cửa hàng tiện ích
- Có mặt trên cả nước, từ thành thị
đến nông thôn.
- Được đặt gần như ở các con
đường, con hẻm nhỏ nhất, với quy mô
tùy thuộc vào diện tích mà chủ cửa hàng
có hoặc thuê được.
- Chủ cửa hàng thường là hộ gia
đình cá thể, kinh doanh tự phát, thường
kinh doanh đơn lẻ, không phát triển theo
- Có mặt ở các thành phố và thành
thị lớn.
- Đặt dọc các con đường, con phố,
không thể chen vào sâu tận những con
hẻm nhỏ như cửa hàng tạp hóa, diện tích
thường từ 50m2 trở lên
- Chủ sở hữu có thể là các doanh
nghiệp nhỏ, hoặc các đại gia trong
ngành bán lẻ, phải có đăng ký kinh
11

dạng chuỗi được, vốn kinh doanh ít.

- Giờ mở cửa thường từ 7-8h sáng

đến 8-9 giờ tối, theo giờ sinh hoạt của
người dân địa phương, có thể đóng cửa
vào các ngày lễ Tết.
- Không phục vụ thực phẩm ăn
nhanh ngay tại cửa hàng.


- Thường có quầy đứng bán hàng,
chủ cửa hàng và người phụ việc đứng
sau đó và họ phải tự đi quanh cửa hàng
để lấy món hàng khách cần, tự tay gói
chúng lại.
- Nguồn gốc xuất xứ hàng hóa
thường không được kiểm tra và đảm bảo.
- Giá hàng hóa thường thấp hơn.
- Hàng hóa thường không được
niêm yết giá trước mà khách hàng tự biết
hoặc hỏi chủ cửa hàng, họ thường có
danh mục giá của các loại sản phẩm.
- Thường không in hóa đơn thanh
toán, đôi khi khách hàng có thể ghi nợ
với chủ cửa hàng và thanh toán vào lần
khác.
- Chỉ áp dụng các chương trình
khuyến mãi của nhà cung cấp khi có
chương trình.
doanh, có thể mở rộng theo dạng chuỗi
theo hình thức nhượng quyền.
- Có giờ mở cửa khá linh hoạt,
thường trên 18 giờ/ngày, hoặc cũng có

những cửa hàng mở cửa 24/24 giờ, 7/7
ngày, không kể lễ tết.
- Vì tính tiện lợi, cửa hàng có thể
cung cấp các món ăn nhanh và có bàn
ghế, các trang bị phục vụ cho việc ăn
ngay tại cửa hàng.
- Nhân viên chỉ đứng sau quầy thu
ngân, khách hàng tự chọn lấy món hàng
mình cần và mang đến quầy thanh toán.


- Đảm bảo hàng hóa có nguồn gốc,
xuất xứ rõ ràng, uy tín.
- Giá hàng hóa thường cao hơn.
- Hàng hóa được niêm yết giá rõ
ràng để khách hàng có thể tự chọn so
sánh và chọn món hàng với mức giá họ
muốn.
- Hàng hóa được tính tiền và thanh
toán ngay tại quầy thu ngân, nhân viên
sẽ in hóa đơn thanh toán cho khách
hàng.
- Ngoài các chương trình của nhà
cung cấp, các cửa hàng vẫn hay có
chương trình khuyến mãi riêng cho
12


- Không cung cấp chỗ đậu xe riêng
và không có trách nhiệm giữ xe cho

khách.
- Chỉ chấp nhận thanh toán bằng
tiền mặt.
khách.
- Dù ít hay nhiều vẫn tạo không
gian để xe cho khách và đôi chỗ có
người trông xe và dắt xe cho khách
- Ngoài tiền mặt có thể thanh toán
bằng thẻ tín dụng hoặc thẻ thanh toán.
Nguồn: Tổng hợp
1.1.3.2. Sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và siêu thị
Bảng 1.2. So sánh sự khác nhau giữa cửa hàng tiện ích và siêu thị
Siêu thị
Cửa hàng tiện ích
- Có diện tích và khối lượng,
chủng loại hàng hóa lớn.
- Cung cấp thực phẩm, hàng tạp
hóa và gia dụng, có cả hàng tươi sống.
- Được bố trí có lối đi rộng để
khách hàng có thể dùng xe đẩy hoặc
giỏ nhựa lớn để đi chọn các món hàng
cần thiết.
- Khách hàng thường đến siêu thị
định kỳ hoặc ngẫu nhiên và mua hàng
với số lượng lớn, đôi khi là mua những
món hàng ngoài dự kiến ban đầu.
- Giá cả thường thấp hơn, đặc biệt
cho các khách hàng mua số lượng lớn
vì họ được các nhà cung cấp để giá thấp
với số lượng hàng cung ứng nhiều.

- Tích hợp nhiều dịch vụ khác như
ATM, quầy bán thức ăn nhanh và đồ
- Diện tích nhỏ hơn và chỉ cung
cấp một số loại hàng hóa cần gấp.
- Cung cấp đa số là thực phẩm và
một số hàng hóa tiêu dùng hàng ngày.
- Thường có ít kệ hàng và lối đi
hẹp, nên khách hàng chỉ có thể dùng
giỏ nhỏ hoặc không dùng giỏ để chọn
hàng.
- Khách hàng chỉ ghé mua những
món hàng với số lượng nhỏ trong lúc
gấp, thường không tốn thời gian cho
những món hàng không định trước.
- Giá hàng hóa thường cao hơn so
với siêu thị.


- Vì diện tích nhỏ và chỉ cung cấp
hàng thiết yếu nên không tích hợp
13

uống, dịch vụ cắt sửa quần áo,…
- Mở cửa thường từ 8 giờ sáng
đến 10 giờ tối.
- Có bãi giữ xe rộng cho khách
hàng, có thu phí giữ xe.
- Có nhiều chương trình khuyến
mãi cho khách hàng hơn.
- Thường đông khách nên khi

thanh toán có thể phải xếp hàng.
nhiều dịch vụ cộng thêm.
- Giờ mở cửa sớm hơn và có thể
mở 24/24.
- Chỉ có chỗ để xe nhỏ hẹp dọc
theo vỉa hè nhưng miễn phí gửi xe.
- Có ít chương trình khuyến mãi.

- Thanh toán nhanh, ít khi phải
xếp hàng vì số khách và hàng hóa ít.
Nguồn: Tổng hợp
1.1.4. Vai trò của cửa hàng tiện ích
- Cũng như các loại hình kinh doanh bán lẻ khác, cửa hàng tiện ích là cầu nối
giữa sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế.
- Là một mắc xích trong mạng lưới phân phối bán lẻ, giữ vai trò quan trọng
trong quá trình tái sản xuất, đưa hàng hóa chất lượng đến gần người tiêu dùng nhất
có thể.
- Cửa hàng tiện ích phần nào đấy giúp giảm các khâu trung gian trong hệ
thống phân phối so với những loại hình bán lẻ truyền thống trước đó, tạo nên một
liên kết phân phối dọc vững chắc và ngắn gọn từ người sản xuất đến người tiêu
dùng, giảm thiếu chi phí và thời gian giao dịch, góp phần hạ giá thành sản phẩm.
- Góp phần hướng người tiêu dùng đến các phương thức mua sắm và thanh
toán hiện đại, thích ứng với sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như các điều
kiện xã hội khác.
- Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất nội địa, địa phương có nhiều cơ hội đưa
sản phẩm đến người tiêu dùng thông qua cửa hàng tiện ích.
- Tạo việc làm cho người dân địa phương, đặc biệt là việc làm bán thời gian
cho các đối tượng học sinh, sinh viên và lao động phổ thông. Nhân viên cửa hàng
được huấn luyện và làm quen với phong cách làm việc chuyên nghiệp và hiện đại.


14

1.2. Chất lượng dịch vụ
1.2.1. Dịch vụ
1.2.1.1. Khái niệm về dịch vụ
Dịch vụ là một quá trình hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải
quyết các mối quan hệ giữa người cung cấp với khách hàng hoặc tài sản của khách
hàng mà không có sự thay đổi quyền sở hữu. Sản phẩm của dịch vụ có thể trong
phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất. (Lưu Văn Nghiêm, 2008)
Ví dụ: dịch vụ đào tạo, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ y tế, dịch vụ giải trí, dịch
vụ ăn uống, dịch vụ du lịch…
1.2.1.2. Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ là một loại hàng hóa đặc biệt, có các đặc trưng cơ bản khác với các
hàng hóa hiện hữu khác như sau:
- Tính vô hình của dịch vụ: đây là đặc điểm cơ bản cho thấy dịch vụ không tồn
tại dưới dạng vật thể. Dịch vụ không có hình dáng cụ thể; không thể cầm, cân,
đong, đo, đếm được dịch vụ giống như các sản phẩm hữu hình khác.
- Tính không thể tách rời: việc sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm dịch vụ được
thực hiện đồng thời. Đối với các sản phẩm hàng hóa, sau khi được sản xuất thường
thông qua một hệ thống phân phối trung gian rồi mới được sử dụng. Tuy nhiên, đối
với dịch vụ, quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra cùng một lúc. Người sử dụng dịch
vụ cũng tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ.
- Tính không đồng nhất: do việc sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời nên sản
phẩm dịch vụ không thể tiêu chuẩn hóa được. Dịch vụ chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố khó kiểm soát nên chất lượng dịch vụ khác nhau tùy theo thời gian, không
gian, người cung cấp dịch vụ hay khách hàng. Khách hàng tiêu dùng là người quyết
định chất lượng dịch vụ dựa vào cảm nhận của họ. Trong những thời gian khác
nhau, sự cảm nhận khác nhau; những khách hàng khác nhau có sự cảm nhận không
giống nhau.
15


- Tính không tồn trữ: dịch vụ không thể lưu kho, cất trữ cũng như vận chuyển
từ nơi này sang nơi khác. Do đó mà việc sản xuất và tiêu thụ dịch vụ bị giới hạn bởi
thời gian.
1.2.2. Chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ là một khái niệm gợi lên nhiều sự quan tâm và tranh luận
trong các tài liệu nghiên cứu vì những khó khăn của nó trong cả việc định nghĩa và
đo lường, mà chưa có một sự thống nhất nổi bật nào. Vì thế nên cho đến nay, đã có
một số lượng lớn các định nghĩa khác nhau dành cho khái niệm Chất lượng dịch vụ.
Ghobadian và cộng sự (1994) thừa nhận rằng hầu hết các định nghĩa về chất
lượng dịch vụ đều thuộc phạm trù hướng đến khách hàng. Juran (1999) đã thêm một
định nghĩa về chất lượng hướng đến khách hàng, “là những đặc tính của sản phẩm
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và vì thế tạo nên sự thỏa mãn cho khách
hàng”. Vì chất lượng dịch vụ có mối liên hệ với việc đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, chúng ta sẽ xem xét “chất lượng dịch vụ cảm nhận được” để hiểu hơn về
khách hàng (Arnauld và cộng sự, 2002). Gronroos (1984) và Parasuraman và cộng
sự (1985) xem xét chất lượng dịch vụ cảm nhận là sự khác nhau giữa sự kỳ vọng
của khách hàng và sự cảm nhận của họ về dịch vụ thực tế họ nhận được.
Các nhà nghiên cứu khác xem xét chất lượng dịch vụ cảm nhận như là một
thái độ. Arnauld và cộng sự (2002) đã định nghĩa Chất lượng cảm nhận “đối với sản
phẩm hữu hình hay dịch vụ” là “sự nhìn nhận, đánh giá của khách hàng về sự ưu tú
và vượt trội toàn diện của một thực thể trong việc cung cấp những lợi ích mong
muốn”. Hoffman và Bateson (2001) định nghĩa chất lượng dịch vụ như một thái độ
“được hình thành sau một sự đánh giá lâu dài và chung nhất về một sự trải nghiệm”.
Thái độ đó cũng được định nghĩa như “một sự đánh giá lâu dài và toàn diện của
khách hàng về một ý niệm hoặc một vật thể, như về một người, một nhãn hiện hay
một dịch vụ” (Arnauld và cộng sự, 2002). Việc xem xét chất lượng dịch vụ như
“một thái độ” cũng phù hợp với cách nhìn của Parasuraman và cộng sự (1998),
16


Cronin và Taylor (1992). Dựa trên những cách nhìn nhận được bổ sung thêm, ta có
thể nêu ra một số định nghĩa về Chất lượng dịch vụ như sau:
Chất lượng dịch vụ được xác định bởi sự khác nhau giữa sự kỳ vọng của
khách hàng về việc thực hiện của những người cung cấp dịch vụ với sự đánh giá
của họ về dịch vụ mà họ được nhận (Parasuraman và cộng sự 1985, 1988).
Chất lượng dịch vụ có thể được định nghĩa như là “sự khác biệt giữa sự mong
đợi của khách hàng về việc thực hiện dịch vụ trước khi tiếp xúc với dịch vụ và sự
cảm nhận của họ về dịch vụ mà họ nhận được” (Asubonteng và cộng sự, 1996).
Chất lượng dịch vụ như một sự so sánh chủ quan của khách hàng về chất
lượng của loại dịch vụ họ muốn nhận được và cái thực sự họ được nhận (Gefan,
2002).
1.3. Các nhân tố tác động đến chất lượng dịch vụ
So với chất lượng hàng hóa thì đo lường chất lượng dịch vụ khó khăn hơn.
Việc khó khăn khi đo lường chất lượng dịch vụ là do có ít biểu hiện hữu hình tồn tại
khi khách hàng mua dịch vụ, ít quyền sở hữu, nhưng lại đòi hỏi cao hơn về sự trải
nghiệm và lòng tin (Parasuraman, 1985), so với khi mua hàng hóa. Việc đo lường
chất lượng dịch vụ cũng đòi hỏi cao hơn về sự tham gia của khách hàng vào quá
trình tiêu thụ (Gronroos, 1984).
Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng khái niệm chất lượng dịch vụ như là một
khoảng cách giữa sự kỳ vọng về dịch vụ và sự cảm nhận về việc thực hiện dịch vụ,
hoặc chỉ là sự cảm nhận riêng biệt về việc thực hiện dịch vụ (Hurley và Estalami,
1998). Mặt khác, các nhân tố chất lượng dịch vụ được xem như tiêu chuẩn để đánh
giá chất lượng dịch vụ (Parasuraman và cộng sự, 1985). Feinburg và De Ruyter
(1995) đã ủng hộ ý kiến này với việc họ công nhận rằng các nhân tố là phương tiện
cho việc đo lường chất lượng dịch vụ cảm nhận. Họ cũng thừa nhận rằng chất lượng
dịch vụ khách hàng cảm nhận thường được nhìn nhận như một khái niệm đa nhân
tố. Theo Robert (1995), việc nhận diện các nhân tố quyết định của chất lượng dịch
17

vụ là thiết yếu để có thể xác định cách đo lường, kiểm soát và cải thiện chất lượng

dịch vụ cảm nhận từ khách hàng.
1.3.1. Theo nghiên cứu của Gronroos (1984)
Nghiên cứu nguyên thủy nhất về các nhân tố của chất lượng dịch vụ được tiến
hành bởi Gronroos (1984). Ông tìm ra rằng sự cảm nhận về chất lượng của dịch vụ
bị tác động bởi trải nghiệm của khách hàng khi họ sử dụng dịch vụ. Vì thế, ông đã
tóm lược chất lượng cảm nhận của một loại dịch vụ cụ thể là kết quả của một quá
trình đánh giá; một sự so sánh giữa sự kỳ vọng của khách hàng về dịch vụ với sự
cảm nhận của khách hàng đó với dịch vụ mà anh ta nhận được. Ông cũng chỉ ra
rằng sự kỳ vọng bị ảnh hưởng bởi truyền thống, hệ tư tưởng, truyền thông truyền
miệng và kinh nghiệm đi trước về dịch vụ cộng với chính cảm nhận của khách hàng
có được khi người đó sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, ông lại không bàn đến mối quan
hệ giữa sự cảm nhận và sự kỳ vọng, và cách thức chúng tác động đến chất lượng
dịch vụ.
Gronroos (1984) đã nhận thấy rằng chất lượng dịch vụ bao gồm ba nhân tố
chung. Nhân tố thứ nhất là Chất lượng kỹ thuật. Nhân tố này chỉ đến kết quả hay
điều mang đến hay điều khách hàng nhận được từ dịch vụ. Đối với một cửa hàng
bán lẻ, Chất lượng kỹ thuật có thể bao gồm chủng loại hàng hóa cửa hàng cung cấp
và bãi đậu xe sẵn có. Nhân tố tiếp theo là chất lượng chức năng, nhằm chỉ đến
phương thức mà dịch vụ được phân phối. Khách hàng của một cửa hàng bán lẻ sẽ
đo lường xem liệu người bán hàng có thân thiện không hay hàng hóa có thể được trả
lại hay không. Cuối cùng, nhân tố còn lại là hình ảnh của doanh nghiệp. Hình ảnh
của một cửa hàng được xây dựng bởi cả hai chất lượng kỹ thuật và chất lượng chức
năng và một số các nhân tố khác khác như các hoạt động marketing truyền thống.
1.3.2. Theo nghiên cứu của Parasuraman và cộng sự (1985)
Mô hình phổ biến nhất về chất lượng dịch vụ thập niên 90 là mô hình được
xây dựng bởi Parasuraman và cộng sự (1985). Mô hình của họ xác nhận những
khám phá của Gronroos dựa trên ba vấn đề cơ bản: “1) Khách hàng khó đánh giá

×