Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

BỘ BA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH, ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH


NGUYỄN THỊ THANH HẢI


BỘ BA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH, ĐỘ MỞ
THƯƠNG MẠI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ




TP. HCM, tháng 11/2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH HẢI

BỘ BA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH, ĐỘ MỞ
THƯƠNG MẠI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Nguyễn Thị Liên Hoa

TP. HCM, tháng 11/201
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của chính tác
giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn
trong thời gian qua, các số liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của cô PGS.TS.
Nguyễn Thị Liên Hoa

Tác giả luận văn


NGUYỄN THỊ THANH HẢI
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 2
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 9
2.1 Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế 9
2.1.1 Phát triển tài chính tác động đến tăng trưởng kinh tế 10
2.1.2 Tăng trưởng kinh tế tác động đến phát triển tài chính 13
2.1.3 Mối quan hệ 2 chiều giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế 13
2.2 Mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế 14
2.2.1 Độ mở thương mại tác động đến tăng trưởng kinh tế 14

2.2.2 Tăng trưởng kinh tế có tác động đến độ mở thương mại 17
2.3 Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và độ mở thương mại 17
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
3.1 Mô hình nghiên cứu 20
3.1.1 Kiểm định nghiệm đơn vị 20
3.1.2 Kiểm định đồng liên kết 21
3.1.3 Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger 23
3.2 Dữ liệu 25
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
4.1 Thống kê mô tả dữ liệu 27
4.2 Hệ số tương quan 28
4.3 Kiểm định nghiệm đơn vị 28
4.4 Kiểm định đồng liên kết 29
4.5 Kiểm định quan hệ nhân quả Granger và bổ sung thêm mô hình ECM 33
4.6 Phân tích phản ứng xung 38
4.6.1 Phản ứng của GDP trước cú sốc xuất khẩu 38
4.6.2 Phản ứng của GDP trước cú sốc nhập khẩu 41
4.6.3 Phản ứng của xuất khẩu trước cú sốc GDP 42
4.6.4 Phản ứng của nhập khẩu trước cú sốc GDP 43
4.6.5 Phản ứng của nhập khẩu trước cú sốc cung tiền M2 (LnM2) 44
4.7 Phân rã phương sai 45
4.7.1 Phân rã phương sai biến tăng trưởng (LnGDP) 46
4.7.2 Phân rã phương sai biến nhập khẩu (LnIM) 47
4.7.3 Phân rã phương sai biến xuất khẩu (LnEX) 48
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN 50
5.1 Các kết quả nghiên cứu chính 50
5.2 Một số gợi ý chính sách 50
5.3 Những hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Các giá trị thống kê mô tả về các biến lnGDP, lnM2, lnDC, lnEX và lnIM
của Việt Nam giai đoạn từ quý 3/1999 đến quý 1/2012 27
Bảng 2. Hệ số tương quan giữa các biến lnGDP, lnM2, lnDC, lnEX và lnIM của
Việt Nam trong giai đoạn từ quý 3/1999 đến quý 1/2012 28
Bảng 3. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP 29
Bảng 4. Xác định độ trễ tối ưu 30
Bảng 5. Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen 32
Bảng 6. Kết quả kiểm định nhân quả Granger 35
Bảng 7. Xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế 40












DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1: GDP bình quân đầu người tính bằng USD qua các năm (USD/người) 4
Hình 2: Tăng trưởng GDP từ năm 2007 đến năm 2012 5
Hình 3: Mối quan hệ nhân quả giữa phát triển tài chính, độ mở thương mại và tăng
trưởng kinh tế 18
Hình 4. Phản ứng của GDP trước cú sốc của xuất khẩu 38
Hình 5. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ gia tăng xuất khẩu và tỷ lệ xuất khẩu

trong GDP 40
Hình 6. Phản ứng của GDP trước cú sốc nhập khẩu 41
Hình 7. Phản ứng của xuất khẩu trước cú sốc GDP 42
Hình 8. Phản ứng của nhập khẩu trước cú sốc GDP 43
Hình 9. Phản ứng của nhập khẩu trước cú sốc cung tiền M2 (LnM2) 44
Hình 10. Phân rã phương sai biến tăng trưởng (LnGDP) 46
Hình 11. Phân rã phương sai biến nhập khẩu (LnIM) 47
Hình 12. Phân rã phương sai biến xuất khẩu (LnEX) 48






1

TÓM TẮT
Mục tiêu của bài viết này nhằm mục đích điều tra tính đồng liên kết và quan
hệ nhân quả Granger giữa phát triển tài chính, độ mở thương mại và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam để xem xem có mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa phát triển tài
chính, độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế trong trường hợp ở Việt Nam hay
không. Qua đó, xem xét các mối quan hệ nhân quả đạt được giữa các biến thông qua
kiểm định nhân quả Granger dựa trên các giả thuyết nguồn cung dẫn dắt (supply-
leading), nguồn cầu phụ thuộc (demand-following) và độ mở thương mại có tác
động lên tăng trưởng kinh tế, với cơ sở dữ liệu được lấy theo quý (từ quý 3/1999
đến quý 1/2012). Kết quả cho thấy có mối quan hệ cân bằng dài hạn đối với một số
cặp biến như là: Tổng sản phẩm trong nước thực tế (LnGDP) và xuất khẩu (LnEX),
LnGDP và nhập khẩu (LnIM), cung tiền M2 (LnM2) và tín dụng trong nước
(LnDC), LnM2 và LnIM, LnDC và LnIM. Thêm vào đó, kiểm định quan hệ nhân
quả Granger và bổ sung thêm mô hình ECM cho thấy có mối quan hệ nhân quả hai

chiều giữa GDP và xuất khẩu, GDP và nhập khẩu, cung tiền M2 và tín dụng trong
nước, cung tiền M2 và nhập khẩu, và cuối cùng là mối quan hệ nhân quả hai chiều
giữa tín dụng trong nước và nhập khẩu. Thông qua đó, bài nghiên cứu ủng hộ cho
giả thuyết độ mở thương mại có tác động đến tăng trưởng kinh tế và tác động này là
tích cực. Đồng thời, bài viết còn chỉ ra là: Không những độ mở thương mại tác động
đến tăng trưởng kinh tế mà tăng trưởng kinh tế cũng có tác động ngược lại lên độ
mở thương mại.




2


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa phát triển tài chính, độ mở
thương mại và tăng trưởng kinh tế đang rất được quan tâm nghiên cứu.
Đối với mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế, nhiều
nghiên cứu đã đưa ra các kết quả trái ngược nhau về mối quan hệ nhân quả giữa
phát triển tài chính và tăng trưởng. Từ đó, Patrick (1966) đã phát triển hai giả thuyết
về mối quan hệ nhân quả giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế, đó là: Giả
thuyết nguồn cung dẫn dắt (supply-leading), nguồn cầu phụ thuộc (demand-
following). Trong đó, giả thuyết nguồn cung dẫn dắt thừa nhận có mối quan hệ nhân
quả từ phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế, còn giả định nguồn cầu phụ thuộc
thừa nhận có mối quan hệ nhân quả từ sự tăng trưởng kinh tế đến phát triển tài
chính. Ngoài ra còn có những quan điểm ủng hộ cho mối quan hệ hai chiều giữa
phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là, mặc dù phần lớn các nghiên
cứu thực nghiệm đều ủng hộ cho quan điểm phát triển tài chính có tác động đến
tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu của Mazur and Alexander (2001) hay nghiên
cứu của Calderon and Liu (2003). Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu chỉ ra rằng

sự tăng trưởng kinh tế lại là nguyên nhân thúc đẩy cho sự phát triển tài chính như
các nghiên cứu của Soukhakian (2007), Adnan Hye (2011),…
Đối với mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế, hiện nay cũng có
hai quan điểm trái chiều về mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này. Quan điểm
thương mại có tác động lên tăng trưởng kinh tế được ủng hộ bởi các nhà kinh tế học
nổi tiếng như Adam Smith (1776), David Ricardo (1817), hay Edwards and


3

Sebastian (1992),…Trong giả thuyết này, có những tác giả ủng hộ cho giả thuyết
xuất khẩu có tác động đến tăng trưởng; Một sự mở rộng xuất khẩu sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế cả về chiều rộng và chiều sâu (Phan Thế Công, 2011), đồng thời
thương mại xuất khẩu là hình thức mong muốn của thương mại, vì nó tạo ra ngoại tệ
cho nền kinh tế, do đó thúc đẩy tăng trưởng (Omotola Awojobi, 2013). Mặt khác,
cũng có những quan điểm ủng hộ cho giả thuyết nhập khẩu có tác động đến tăng
trưởng như nghiên cứu của Lawrence and Weinstein (1999). Bên cạnh quan điểm
thương mại có tác động lên tăng trưởng kinh tế thì cũng có quan điểm ủng hộ cho
giả thuyết tăng trưởng kinh tế có tác động đến thương mại như nghiên cứu của
Lancaster, K. (1980) hay Katircioglu et al. (2007),…
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một câu chuyện thành công về quá trình
phát triển. Công cuộc đổi mới kinh tế và chính trị bắt đầu triển khai từ năm 1986 đã
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với thu nhập
bình quân đầu người dưới 100 đô la Mỹ, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
thấp chỉ trong vòng 25 năm với thu nhập đầu người lên tới 1.224 đô la Mỹ vào cuối
năm 2010 và tăng lên mức 1.596 đô la Mỹ vào cuối năm 2012. Quá trình gia tăng
GDP bình quân đầu người ở Việt Nam được thể hiện trong hình 1 dưới đây.




4


Hình 1: GDP bình quân đầu người tính bằng USD qua các năm (USD/người)
Nguồn: Ngân hàng thế giới (WorldBank)
Thêm vào đó, tỷ lệ dân nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 9,64%
cuối năm 2012, đồng thời chỉ số an ninh xã hội khác cũng được cải thiện đáng kể.
Không những thế, Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình
trong khu vực và quốc tế bằng việc chủ tọa thành công Hội nghị thường niên 2009
Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ IMF và đóng vai trò
Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia ĐôngNam Á (ASEAN) nhiệm kỳ 2010. Mặc dù vậy,
bên cạnh những thành quả to lớn đã đạt được thì vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách
thức đã tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng nền kinh tế ở Việt Nam, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008. Biến cố kinh tế thế giới đã tác động rõ nét
tới mức độ ổn định và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Các số liệu
thống kê cho thấy, GDP nước ta tăng liên tục từ năm 2000 đến 2007, đạt mức
8,48% và sau đó sụt giảm xuống. Đến năm 2012 là năm có tỷ lệ tăng GDP thấp nhất
trong vòng nhiều năm kể từ năm 1998, được thể hiện trong hình 2 ở dưới đây.


5


Hình 2: Tăng trưởng GDP từ năm 2007 đến năm 2012
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra nhận định khá
tích cực về tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 và dự báo năm 2014. Trong
vòng 2 năm qua lạm phát giảm liên tục và dừng ở mức 7,3% vào tháng 7/2013, cán
cân thương mại thặng dư nhờ xuất khẩu tăng nhanh, tỷ giá hối đoái ổn định. Thị
trường chứng khoán Việt Nam cũng tăng dần từ 18% năm 2012 và khoảng 19%

trong 7 tháng đầu năm 2013 sau khi giảm liền 2 năm 2010 và 2011. Nhờ đó, tăng
trưởng tiếp tục tăng qua các quý và ước đạt 5,54% trong quý III/2013, đưa GDP 9
tháng đầu năm tăng 5,14% cao hơn cùng kỳ năm ngoái. Do vậy, tăng trưởng cả năm
được dự báo có phần khả quan hơn so với mức dự báo ban đầu của Ủy ban giám sát
tài chính quốc gia (5,3%). Thêm vào đó, Ngân hàng thế giới (WorldBank) cũng cho


6

rằng ổn định vĩ mô Việt Nam đạt được gần đây đã giúp Việt Nam vượt qua được
những sóng gió, bất ổn vừa qua của kinh tế toàn cầu.
Trong nền kinh tế ở Việt Nam, hệ thống tài chính đóng vai trò vừa là kênh tiết
kiệm cho khu vực hộ gia đình, vừa là kênh đầu tư cho khu vực doanh nghiệp và
cũng là kênh truyền dẫn các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ để điều chỉnh
nền kinh tế đi đúng hướng. Theo Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, trong 10 tháng
qua, rủi ro của hệ thống tổ chức tín dụng đã giảm bớt với những chuyển biến tích
cực như: Thanh khoản hệ thống dồi dào với sự gia tăng mạnh của tiền gửi của khu
vực dân cư và tổ chức kinh tế (tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động giảm) khiến cho mặt
bằng lãi suất huy động, cho vay và cả liên ngân hàng giảm mạnh xuống mức thấp
ngang với thời điểm năm 2006. Tính đến tháng 10/2013, mặt bằng lãi suất huy động
giảm 2-3%, lãi suất cho vay giảm 3-5% so với đầu năm. Lãi suất liên ngân hàng duy
trì ổn định ở mức 3-4%/năm đối với các kỳ hạn ngắn. Bên cạnh đó, cơ cấu tín dụng
cũng có sự chuyển biến tích cực với việc cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu đồng tiền trở nên
hợp lý hơn (tín dụng Việt Nam đồng (VNĐ) tăng trong khi tín dụng ngoại tệ giảm).
Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái từ đầu năm đến nay khá ổn định và chỉ có
vài biến động nhỏ mang tính thời vụ và tâm lý nhất thời. Theo nhận định của Ủy
ban giám sát tài chính quốc gia, thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái nhiều khả
năng sẽ tiếp tục duy trì được sự ổn định trong những tháng cuối năm 2013 do cung
ngoại tệ tiếp tục dồi dào (nguồn cung đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI (Foreign
Direct Investment), hỗ trợ phát triển chính thức–ODA (Official Development

Assistance) và kiều hối).
Bên cạnh sự phát triển của tài chính, thương mại ở Việt Nam cũng có những
khởi sắc rất đáng quan tâm đó là: Trong 10 tháng đầu năm, xuất khẩu tiếp tục tăng


7

trưởng khá ước tính khoảng 108 tỷ USD (tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước),
nhập siêu ở mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây (thâm hụt 187 triệu USD).
Xu hướng có phần cải thiện hơn trong năm 2013 so với năm 2012 khi hoạt động
động xuất khẩu và nhập khẩu của khu vực này lần lượt tăng 3% và 3,5% so với
cùng kỳ. Tăng trưởng nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất và máy
móc phục vụ sản xuất cũng tăng khá cho thấy triển vọng phục hồi sản xuất trong
nước sáng sủa hơn.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển
tài chính, độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế. Do đó, mục tiêu nghiên cứu
của bài viết này là xem xét mối quan hệ giữa phát triển tài chính, độ mở
thương mại và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Thông qua đó, tác giả muốn
nghiên cứu xem yếu tố nào tác động lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, trên cơ sở dữ liệu hàng quý từ quý
3/1999 đến quý 1/2012 được thu thập từ kho dữ liệu IFS (International Financial
Statistics) của Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF (International Monetary Fund) về các chỉ
số: Cung tiền M2, tín dụng trong nước, xuất khẩu và nhập khẩu. Ngoài ra, do không
tìm được số liệu chính thức của GDP thực và GDP danh nghĩa theo quý nên tác giả
sử dụng số liệu của thầy GiangLe được lấy từ DataStream. Đồng thời dựa trên
nghiên cứu trước đây của Katircioglu et al. (2007), tác giả sẽ đi kiểm định đồng liên
kết giữa các cặp biến của các nhân tố phát triển tài chính, độ mở thương mại và tăng
trưởng kinh tế. Sau đó tác giả sẽ đi kiểm định nhân quả Granger và bổ sung thêm
mô hình hiệu chỉnh sai số ECM (Error Correction Model) giữa các cặp biến của các
nhân tố trên dựa trên các giả thuyết nguồn cung dẫn dắt (supply-leading), nguồn cầu



8

phụ thuộc (demand-following) và thương mại có tác động lên tăng trưởng kinh tế
trong bối cảnh nền kinh tế ở Việt Nam.
Cấu trúc của bài nghiên cứu được trình bày như sau:
• Chương 1: Giới thiệu khái quát về bài nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và
mục tiêu bài nghiên cứu.
• Chương 2: Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây.
• Chương 3: Mô tả về phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu.
• Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
• Chương 5: Kết luận: Chốt lại những kết quả nghiên cứu chính và đưa ra
những giải pháp.

















9

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
TRƯỚC ĐÂY
Tác giả tập trung vào bài nghiên cứu của Katircioglu et al. (2007) viết về: Bộ
ba phát triển tài chính, thương mại và tăng trưởng kinh tế ở Ấn Độ để áp dụng cho
thực tế ở Việt Nam. Tác giả hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ khả thi để có thể đưa ra
những giải pháp giúp cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam ngày càng vững mạnh
hơn. Những mối quan hệ giữa bộ ba phát triển tài chính, độ mở thương mại và tăng
trưởng kinh tế qua các nghiên cứu trước đây sẽ được tổng hợp trong phần trình bày
bên dưới.
2.1 Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế:
Phát triển tài chính là một hiện tượng phản ánh việc cung cấp một cấu trúc
thượng tầng tài chính giúp nâng cao cả hoạt động sản xuất và vận hành nền kinh tế
một cách trôi chảy. Nó cung cấp nguồn vốn cần thiết, định giá giá trị kinh tế của các
nguồn lực đang được giao dịch và hỗ trợ tiến trình thực hiện chính sách công. Việc
cung ứng vốn dưới hình thức tín dụng, kiểm soát lãi suất thị trường, .… là sự phản
ánh của phát triển tài chính trong một quốc gia nhằm mục đích để đạt được tăng
trưởng kinh tế (Omotola Awojobi, 2013).
Hiện nay, có nhiều ý kiến tranh luận về mối quan hệ giữa phát triển tài chính
và tăng trưởng kinh tế. Mặc dù các tài liệu có liên quan đã chỉ ra có mối quan hệ
nhân quả giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên mối quan hệ
nhân quả này nhìn chung là vẫn chưa rõ ràng. Xuất phát từ câu hỏi: liệu phát triển
tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay tăng trưởng kinh tế thúc đẩy phát triển tài
chính? Đã đưa ra hướng nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả giữa phát triển tài


10

chính và tăng trưởng kinh tế. Có những nghiên cứu ủng hộ cho quan điểm phát triển

tài chính tác động đến sự tăng trưởng kinh tế (supply leading hypothesis), ngược lại
cũng có những nghiên cứu ủng hộ cho quan điểm tăng trưởng kinh tế tác động đến
phát triển tài chính (demand-following hypothesis). Ngoài ra còn có những quan
điểm ủng hộ cho mối quan hệ hai chiều giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh
tế.
2.1.1 Phát triển tài chính tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Schumpeter (1911) đã lập luận rằng sự phát triển tài chính, thông qua chức
năng quan trọng của nó về việc tăng cường hiệu quả của các trung gian bằng cách
giảm thiểu chi phí thông tin, chi phí giao dịch và chi phí giám sát có thể dẫn đến
tăng trưởng kinh tế. Ủng hộ cho quan điểm này, Patrick (1966) cũng cho rằng phát
triển tài chính tác động đến sự tăng trưởng kinh tế, có nghĩa là việc tạo ra các tổ
chức tài chính và thị trường tài chính làm gia tăng việc cung cấp dịch vụ tài chính
và do đó dẫn đến tăng trưởng kinh tế thực.
Nối tiếp những nghiên cứu sau này, rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác
cũng ủng hộ cho quan điểm trên và phần lớn đều cho rằng phát triển tài chính có tác
động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu được thực hiện dựa trên
cơ sở dữ liệu của nhiều quốc gia hoặc trong phạm vi một quốc gia riêng lẻ. Cụ thể
như sau:
- Một số nghiên cứu lấy dữ liệu từ nhiều quốc gia như: Nghiên cứu của King
and Levine (1993b) xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bốn
thước đo phát triển tài chính cho 80 nước trong giai đoạn 1960-1989. Kết quả
cho thấy các nước có hệ thống tài chính phát triển hơn thì tăng trưởng nhanh
hơn, có tỉ lệ đầu tư cao hơn và sử dụng vốn hiệu quả hơn. Hay nghiên cứu


11

của Levine and Zervos (1998) chỉ ra rằng sự phát triển của ngân hàng và thị
trường chứng khoán là yếu tố dự báo tốt cho tăng trưởng kinh tế. Họ đã
nghiên cứu thực nghiệm đối với 49 quốc gia trong giai đoạn 1976-1993 và

nhận thấy rằng ngay cả khi đã kiểm soát các yếu tố liên quan đến tăng
trưởng, thì sự thanh khoản của thị trường cổ phiếu và sự phát triển của ngân
hàng đều có tương quan dương và mạnh mẽ đến tỷ lệ tăng trưởng ở hiện tại
và tương lai. Từ đó, tác giả đã nhận định có một mối liên hệ mạnh mẽ và tích
cực giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế, và các yếu tố tài chính là
một phần của quá trình tăng trưởng. Còn Seetanah et al. (2008) điều tra mối
quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng trong trường hợp của 20 nền
kinh tế đảo trong giai đoạn 1980-2002, kết quả cho thấy phát triển tài chính
có tác động tích cực và đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Đồng thời tác giả
còn đưa ra rất nhiều kiến nghị chính sách cho chính phủ; Chính phủ nên cố
gắng phát triển lĩnh vực tài chính nhiều hơn và một trong những bước đầu
tiên là phải giảm thiểu sự tham gia của nhà nước trong hệ thống tài chính và
cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính cần được khuyến khích hơn.
- Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu dựa trên dữ liệu của từng quốc gia
riêng lẻ như: Murende and Eng (1994) đã tiến hành kiểm tra thực nghiệm
theo chuỗi thời gian từ năm 1979 đến năm 1990 ở Singapore. Kết quả chỉ ra
có một mối quan hệ nhân quả một chiều từ sự phát triển tài chính đến tăng
trưởng. Còn Bhattacharya and Sivasubramaniam (2003) đã kiểm định mối
quan hệ nhân quả giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở Ấn Độ
bằng cách sử dụng dữ liệu trong thời kỳ 1970 – 1999. Họ cũng chỉ ra rằng
phát triển tài chính đưa đến tăng trưởng GDP.


12

- Ở cấp độ vi mô hơn, theo nghiên cứu của Demirguc-Kunt and Maksimovic
(1998), các định chế tài chính là rất quan trọng cho sự phát triển của các
doanh nghiệp. Để điều tra sự khác biệt trong hệ thống pháp luật và tài chính
ảnh hưởng như thế nào đến việc sử dụng nguồn tài chính bên ngoài để tài trợ
cho tăng trưởng của công ty, họ đã sử dụng dữ liệu cấp công ty từ 30 quốc

gia đang phát triển và phát triển, kết quả cho thấy rằng cả hai yếu tố: thị
trường chứng khoán tích cực và một hệ thống pháp luật phát triển là rất quan
trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Các công ty trong nước có
thị trường chứng khoán linh hoạt và được xếp hạng cao, phù hợp với quy
phạm pháp luật có thể có được nguồn vốn từ bên ngoài nhiều hơn và phát
triển nhanh hơn. Những phát hiện này là vững chắc và hỗ trợ cho các đề xuất
rằng sự phát triển của thị trường tài chính và các thể chế tạo điều kiện cho
tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh những nghiên cứu ủng hộ cho quan điểm phát triển tài chính có tác
động tích cực đến sự tăng trưởng thì cũng có quan điểm cho rằng phát triển tài
chính có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu của De Gregorio
and Guidotti (1995) chỉ ra rằng: Sự phát triển tài chính làm giảm đáng kể tốc độ
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có trải qua tỷ lệ lạm phát tương đối cao (đặc
biệt là ở châu Mỹ Latinh). Và đó là kết quả của việc tự do hóa tài chính trong một
môi trường pháp lý kém. Phát hiện của họ cũng cho thấy các kênh chính của truyền
dẫn từ phát triển tài chính đến tăng trưởng là hiệu quả của đầu tư, chứ không phải là
khối lượng đầu tư. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Adnan Hye (2011) cũng ủng
hộ cho quan điểm này khi xây dựng chỉ số phát triển tài chính (FDI) cho nền kinh tế
Ấn Độ và xem xét mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế.


13

Thêm vào đó, còn có nhiều nghiên cứu khác ủng hộ cho quan hệ nhân quả một
chiều từ phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế như: King và Levine (1993a),
Levine and Zervos (1998), Neusser and Kugler (1998), Choe and Moosa (1999), và
Seetanah (2007),…
2.1.2 Tăng trưởng kinh tế tác động đến phát triển tài chính:
Quan điểm thứ hai cho rằng sự tăng trưởng kinh tế có tác động đến phát triển
tài chính. Giả thuyết này phù hợp với quan điểm của Levine (1997), ông kết luận

rằng giữa tăng trưởng và phát triển tài chính có mối liên hệ nhân quả và hệ thống tài
chính được định hình bởi sự phát triển phi tài chính. Ví dụ như thay đổi trong viễn
thông, máy tính, các chính sách khu vực phi tài chính, các thể chế, và bản thân tăng
trưởng kinh tế ảnh hưởng đến chất lượng của các dịch vụ tài chính và cấu trúc của
hệ thống tài chính. Thông qua các nghiên cứu trước đó, ông thấy rằng: Cải tiến công
nghệ làm chi phí giao dịch thấp hơn, chính sách tiền tệ và tài khóa ảnh hưởng đến
việc đánh thuế các trung gian tài chính và việc cung cấp dịch vụ tài chính hay nói
cách khác những thay đổi chính trị và các thể chế trong nước có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến phát triển tài chính. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế làm thay đổi sự sẵn lòng
của người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư phải trả các chi phí liên quan tham gia vào hệ
thống tài chính. Soukhakian (2007) cũng ủng hộ cho giả thuyết này, ông kiểm định
2 giả thuyết đó là: Nguồn cung dẫn dắt và nguồn cầu phụ thuộc cho nền kinh tế của
Iran. Phát hiện của ông chỉ ra rằng: thứ nhất là có nhiều hơn một vector đồng liên
kết tồn tại giữa phát triển tài chính (M2) và thu nhập thực tế bình quân đầu người,
thứ hai là có quan hệ nhân quả một chiều chạy từ thu nhập thực tế bình quân đầu
người đến phát triển tài chính.



14

2.1.3 Mối quan hệ hai chiều giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế:
Quan điểm thứ ba cho rằng có mối tương quan đồng thời tác động qua lại giữa
phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế, ví dụ như nghiên cứu của Thornton
(1996); Thornton đã nghiên cứu mối quan hệ nhân quả Granger trên 22 nước châu
Á, Mỹ Latinh và các nền kinh tế đang phát triển vùng Caribbean nhằm đưa ra kết
luận về vai trò của sự phát triển hệ thống tài chính trong tăng trưởng kinh tế. Kết
quả cho thấy: Phát triển tài chính tác động đến tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng
kinh tế cũng có tác động đến phát triển tài chính. Tiếp theo đó, Demetriades and
Luitel (1996) đã sử dụng dữ liệu từ Ngân hàng Trung ương của Ấn Độ để xem xét

mối quan hệ giữa phát triển tài chính, tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lĩnh vực
ngân hàng ở Ấn Độ. Họ nhận ra rằng có quan hệ nhân quả hai chiều giữa phát triển
tài chính và tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ. Ngoài ra, các nghiên cứu của
Katircioglu et al. (2007) và Omotola Awojobi (2013) cũng ủng hộ cho giả thuyết
này.
2.2 Mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế:
Theo Sanusi (2008) thì độ mở thương mại bao hàm cả chính sách tự do thương
mại và nhiều yếu tố khác như: Bình ổn kinh tế (biểu thị bằng thâm hụt ngân sách
thấp và tỷ lệ lạm phát thấp), không có rào cản đối với những khoản đầu tư mới,
đồng thời có thêm những cải tiến trong giao thông vận tải, thông tin liên lạc và tiếp
thu đổi mới công nghệ.
Đối với mối quan hệ giữa thương mại và tăng trưởng kinh tế cũng có nhiều
quan điểm khác nhau, cụ thể là:



15

2.2.1 Độ mở thương mại tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Trong tác phẩm "Nguồn gốc của cải của các quốc gia" - The wealth of nations
(1776) của Adam Smith đã đề xuất một lý thuyết về tăng trưởng kinh tế. Đây là một
trong những tác phẩm ra đời sớm nhất và nổi tiếng nhất về thương mại và công
nghiệp, được công nhận là có đóng góp to lớn cho các nguyên lý kinh tế học hiện
đại. Adam Smith đã phát triển các nguyên tắc tự do kinh doanh và tất cả các hoạt
động kinh tế dẫn tới tự do thương mại bên trong cũng như bên ngoài, bởi vì nhờ nền
thương mại không bị giới hạn trong nước và ngoài nước mà một quốc gia có thể
phát triển toàn diện. Tiếp đó, vào năm 1817, nhà kinh tế học người Anh - David
Ricardo đã nghiên cứu và chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả
các quốc gia và gọi kết quả này là quy luật lợi thế so sánh. Nguyên tắc lợi thế so
sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có

hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất
mọi hàng hóa. Có thể nói, nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong
nghiên cứu thương mại quốc tế và là nền tảng của tự do hóa thương mại. Ủng hộ
cho quan điểm này, nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 - Paul
Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một
trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không
quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng
trưởng kinh tế của chính mình."
Nối tiếp những nghiên cứu ủng hộ cho giả thuyết độ mở thương mại có tác
động đến tăng trưởng kinh tế, Edwards and Sebastian (1992) sử dụng một cơ sở dữ
liệu chéo của 30 nước đang phát triển, kết quả cho thấy các quốc gia có chính sách
thương mại cởi mở hơn thì phát triển nhanh hơn so với các quốc gia có chính sách


16

hạn chế hơn. Thêm vào đó, nghiên cứu của Wacziarg (1998) cũng chỉ ra rằng mở
cửa thương mại có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế chủ yếu bằng cách tăng tỷ lệ
đầu tư trong nước so với GDP. Tuy nhiên, không chỉ tác động tích cực lên tăng
trưởng kinh tế thông qua việc tăng tỷ lệ đầu tư trong nước, mở cửa thương mại còn
làm tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp - TFP (total-factor productivity), và
các nước cởi mở hơn đã thực sự tăng trưởng năng suất nhanh hơn (Edward, 1998).
Ngoài ra, Rodriguez and Rodrik (2000) cũng đưa ra bằng chứng cho thấy chính
sách mở cửa thương mại (có nghĩa là các rào cản thuế quan và phi thuế quan thấp
hơn) có liên quan đáng kể với tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu
khác cũng ủng hộ cho quan điểm này như: Romalis (2007), Sanusi (2008) và Kim
and Lin (2009),…
Đối với quan điểm ủng hộ độ mở thương mại có tác động đến tăng trưởng
kinh tế, có những tác giả ủng hộ cho giả thuyết xuất khẩu có tác động đến tăng
trưởng kinh tế và cũng có những tác giả ủng hộ cho giả thuyết nhập khẩu có tác

động đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là:
- Trong thời gian trước đây, các nghiên cứu của Greenaway and Sapsford
(1994), Deme (2002) đã ủng hộ cho quan điểm xuất khẩu có tác động đến
tăng trưởng kinh tế. Còn gần đây nhất thì nghiên cứu của Omotola
Awojobi (2013) cũng ủng hộ cho quan điểm này, ông nói rằng: Có bằng
chứng chỉ ra thương mại xuất khẩu là hình thức mong muốn của thương
mại vì nó tạo ra ngoại tệ cho nền kinh tế, do đó thúc đẩy tăng trưởng.
- Đối với quan điểm ủng hộ cho giả thuyết nhập khẩu có tác động đến tăng
trưởng kinh tế, Lawrence and Weinstein (1999) cho rằng nhập khẩu nhiều
hơn các sản phẩm cạnh tranh sẽ thúc đẩy sự đổi mới. Đồng thời áp lực


17

cạnh tranh và sự học hỏi từ các đối thủ nước ngoài là ống dẫn quan trọng
đi tới sự tăng trưởng.
Bên cạnh những nghiên cứu ủng hộ cho quan điểm độ mở thương mại có tác
động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế thì cũng có quan điểm cho rằng độ mở
thương mại cũng có thể có tác động tiêu cực đến tăng trưởng, ví dụ như nghiên cứu
của Wacziarg (1998); Wacziarg đã chỉ ra rằng: Có bằng chứng cho thấy quy mô của
chính phủ, được đo bằng tỷ lệ chi tiêu công so với GDP, tạo thành một kênh thông
qua đó chính sách thương mại ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
2.2.2 Tăng trưởng kinh tế có tác động đến độ mở thương mại:
Theo nghiên cứu của Katircioglu et al. (2007), khi kiểm tra tính đồng liên kết
và quan hệ nhân quả Granger giữa phát triển tài chính, thương mại quốc tế và tăng
trưởng kinh tế ở Ấn Độ trong khoảng thời gian 1965-2004, ông cho thấy có mối
quan hệ cân bằng dài hạn giữa phát triển tài chính, thương mại quốc tế và tăng
trưởng kinh tế. Đồng thời, kiểm định quan hệ nhân quả Granger chỉ ra rằng có mối
quan hệ nhân quả một chiều chạy từ tăng trưởng thu nhập thực tế tới tăng trưởng
thương mại quốc tế. Mới đây, Omotola Awojobi (2013) cũng cho thấy tăng trưởng

kinh tế là một chất xúc tác cho mở cửa thương mại chứ không phải theo chiều
ngược lại như đề xuất bởi Adam Smith và David Ricardo. Hay nói cách khác,
thương mại qua biên giới (cross-border trade) được tăng cường bởi sự tăng trưởng
trong sản lượng trong nước (trong trường hợp của Hy Lạp).
2.3 Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và độ mở thương mại:
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm gần đây cũng đã xem xét mối quan hệ giữa
phát triển tài chính và độ mở thương mại như là nghiên cứu của Beck (2002). Kết
quả ước lượng từ một dữ liệu bảng với 65 quốc gia trong 30 năm cho thấy có một
quan hệ nhân quả từ mức độ phát triển tài chính tới cán cân thương mại; Các nước
có mức độ phát triển cao hơn về tài chính thì có phần xuất khẩu công nghiệp trong


18

GDP và trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cũng cao hơn. Ngoài ra, hai yếu
tố này còn được xác định là các biến kinh tế vĩ mô có liên quan chặt chẽ với hiệu
suất tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia.
Hiện nay, trong khi một số tác giả lập luận rằng phát triển tài chính có tác
động đến tăng trưởng kinh tế thì những người khác lại đề xuất rằng độ mở thương
mại có tác động đến tăng trưởng kinh tế. Và trong hầu hết các nghiên cứu thực
nghiệm có liên quan gần đây, cả hai giả thuyết này cùng được xem xét, ví dụ như
nghiên cứu của Katircioglu et al. (2007) hay nghiên cứu của Omotola Awojobi
(2013). Trong nghiên cứu của mình, Katircioglu et al. đã xem xét mối quan hệ nhân
quả của 3 yếu tố: Phát triển tài chính, độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế ở
Ấn Độ. Còn Omotola Awojobi (2013) thì xem xét mối quan hệ nhân quả của 3 yếu
tố trên ở nền kinh tế của Hy Lạp. Omotola Awojobi nói rằng: Đối với giả thuyết độ
mở thương mại có tác động đến tăng trưởng là tiến bộ, lĩnh vực tài chính phải được
chủ động. phát triển tài chính có thể có hai hình thức và cả hai đều được thiết kế để
hướng tới sự phát triển kinh tế, cụ thể là tiết chế tài chính và tự do hóa tài chính.
Các kết quả từ hai nghiên cứu trên đều chỉ ra mối quan hệ nhân quả 2 chiều giữa

phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ 1 chiều từ tăng trưởng
kinh tế đến thương mại quốc tế. Riêng kết quả nghiên cứu của Omotola Awojobi
(2013) thì còn có thêm mối quan hệ 1 chiều từ mở cửa thương mại đến phát triển tài
chính, được thể hiện trong hình 3 ở dưới đây.


Phát triển tài chính
Đ

mở thươn
g
m

i
Tăng trưởng kinh tế




Hình 3: Mối quan hệ nhân quả giữa phát triển tài chính, độ mở thương mại và tăng
trưởng kinh tế
Nguồn: Theo kết quả nghiên cứu của Omotola Awojobi (2013).


×