Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Luận văn Đánh giá chất lượng một số loại thức ăn công nghiệp nuôi cá tra giống (Pangasius hypophthalmus).pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.54 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

NGUYỄN HỮU YẾN NHI

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MỘT SỐ LOẠI THỨC ĂN
CÔNG NGHIỆP CHO NUÔI CÁ TRA GIỐNG
(Pangasius hypophthalmus)

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

2006


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Ở nước ta hiện nay, nghề nuôi cá nước ngọt ngày càng phát triển. Đặc biệt là các
tỉnh ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ là
một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng thuỷ sản, điển hình là cá tra
(Pangasius hypophthalmus). Đây là một đối tượng có giá trị kinh tế cao, được
nuôi phổ biến ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và là đối tượng xuất khẩu quan
trọng. Tuy nhiên, hiện nay người ni cịn gặp phải một số khó khăn như thiếu
giống, chi phí thức ăn cao làm giá thành sản phẩm cao cho nên người ni thu
được lợi nhuận khơng đáng kể.

Trung

Bên cạnh đó, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật kết hợp với kinh nghiệm


nuôi cá truyền thống của người dân làm cho việc ni cá ngày càng được thâm
canh hóa. Do đó, nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương không đáp ứng đủ. Hơn
nữa, trong nuôi cá tra 3-4 tuần đầu người dân thường sử dụng thức ăn công
nghiệp để cho cá ăn nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả sử dụng
tâm ăn. liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
thức Học
Tuy nhiên, trên thị trường ngày nay có rất nhiều loại thức ăn công nghiệp với
nhãn hiệu khác nhau. Theo điều tra của Trần Văn Nhì (2005) có khoảng 18 cơng
ty sản xuất thức ăn cho cá và có nhiều loại sản phẩm xuất hiện ở các vùng nuôi
tuy nhiên người nuôi không biết được chất lượng của chúng thế nào, chúng ảnh
hưởng như thế nào đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá ni.
Chính từ thực tế trên, nhằm góp phần xác định chất lượng của một số loại thức ăn
công nghiệp việc thực hiện đề tài “Đánh giá chất lượng một số loại thức ăn
công nghiệp nuôi cá tra giống (Pangasius hypophthalmus)” là rất cần thiết.
Việc đánh giá này không chỉ xác định được loại thức ăn nào có chất lượng tốt mà
cịn xác định được loại thức ăn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.
Mục tiêu của đề tài:
Đánh giá chất lượng thức ăn cơng nghiệp trên thị trường để tìm ra được loại thức
ăn chất lượng, đảm bảo cá tăng trưởng tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
người sử dụng.

1


Nội dung của đề tài:
- Phân tích thành phần hóa học của thức ăn.
- Đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn công nghiệp lên tỉ lệ sống, sinh trưởng
và thành phần hóa học của cá tra.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của từng loại thức ăn.


Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

2


CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Sinh học của cá tra
2.1.1 Hệ thống phân loại
Theo Robert và Vidthayanon (1991), cá tra thuộc:
Bộ: Siluriformes
Họ: Pangasiidae
Giống: Pangasius
Loài: Pangasius hypophthalmus Sauvage,1878.

Trung

Trước đây, cá tra được xếp vào họ Schilbeidae và có tên khoa học là Pangasius
micronemus Bleeker, 1847 (Mai Đình Yên và ctv, 1992; Trương Thủ Khoa và
Trần Thị Thu Hương, 1993). Sau đó, định danh của Robert và Vidthayanon
(1991), đã được Nguyễn Bạch Loan kiểm định lại vào năm 1998. Hiện nay, tên
tâm Học liệutra là Pangasius hypophthalmus đã học dùng phổ nghiên cứu
ĐH Cần Thơ @ Tài liệu được tập và biến trong các
khoa học của cá
báo cáo khoa học trong nước và quốc tế.
2.1.2 Phân bố
Cá tra phân bố nhiều trên lưu vực sông Mê Kông và sông Chaophraya – Thái Lan
(Robert và Vidthayanon, 1991).
Ở Việt Nam, cá tra phân bố trên sông Tiền, sông Hậu và tập trung nhiều nhất ở
vùng hạ lưu. Cá tra giống được vớt chủ yếu trên sông Tiền, cá trưởng thành chỉ

thấy trong ao nuôi, rất ít khi tìm thấy trong tự nhiên (Mai Đình Yên và ctv, 1992).
Đặc biệt cá tra (Pangasius hypophthalmus) là một trong những lồi cá ni phổ
biến, chúng được ni nhiều nhất ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
2.1.3 Tập tính dinh dưỡng
Cũng như các cá lồi khác, sau khi hết nỗn hồng chuyển sang ăn thức ăn ngồi,
cá tra ăn phiêu sinh động vật. Thức ăn ưa thích của chúng là nhóm Cladocera,
nhóm Rotifer cũng xuất hiện nhiều trong dạ dày nhưng do kích thước nhỏ nên vai
trị dinh dưỡng của Rotifer không cao. Trong điều kiện ương nuôi trên bể, chúng

3


có thể sử dụng được nhiều loại thức ăn như: Artemia, trùn chỉ, Moina, Rotifer,
thức ăn chế biến… Tuy nhiên, ấu trùng Artemia và trùn chỉ cho tỉ lệ sống cao và
sinh trưởng của cá tốt nhất (Lê Thanh Hùng và ctv, 2002; trích bởi Dương Thuý
Yên, 2003).
Cá con 20 ngày tuổi sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến (Lê Như Xuân và ctv,
2000). Cá tra càng lớn phổ thức ăn của chúng càng rộng. Trong ao, bè nuôi chúng
có thể sử dụng được tấm, cám, rau, bèo, phế phẩm của các nhà máy chế biến thủy
sản, thức ăn chế biến dạng ẩm với hàm lượng protein thấp. Nhìn chung, lồi cá
này có tính ăn tạp thiên về động vật (Trương Thủ Khoa và Trần Thi Thu Hương,
1993; Lê Như Xuân và ctv, 2000).
2.1.4 Sự tăng trưởng

Trung

Cá tra có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh. Cá tra bột hết nỗn hồng có chiều
dài trung bình từ 1,0-1,1 cm, sau 14 ngày ương đạt 2,0-2,3 cm và khối lượng là
0,52 g/con. Sau một năm tuổi cá đạt 0,7- 1,5 kg và đến 3- 4 tuổi đạt 3- 4 kg. Cá
còn nhỏ tăng nhanh về chiều dài, khi cá đạt 2,5 kg là bước vào thời kỳ tích lũy

mỡ, cần có chế độ ni dưỡng thích hợp để phát dục tốt. Tuy nhiên, tốc độ tăng
trưởng còn tùy thuộc rất lớn vào mật độ nuôi, chất lượng và số lượng thức ăn
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
cung cấp. Độ béo cũng tăng dần theo sự phát triển của cá, ở năm đầu tiên độ béo
tăng nhanh nhất, qua các năm sau độ béo biến đổi khơng đáng kể. Cá có trọng
lượng 11,2 g có độ béo 0,99%, cá 560 g có độ béo 1,6% nhưng cá 3 tuổi nặng
3,62 kg có độ béo là 1,62%. Cá đực có độ béo cao hơn cá cái (Trần Thanh Xuân,
1994).
2.2 Nhu cầu dinh dưỡng của cá da trơn
2.2.1 Nhu cầu protein
Protein là thành phần hóa học chủ yếu của động vật thủy sản, chiếm khoảng 6075% khối lượng khô của cơ thể (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2004a). Nó là chất
dinh dưỡng rất quan trọng, là thành phần chủ yếu tham gia cấu tạo cơ thể, thay tổ
chức cũ, xây dựng tổ chức mới; là thành phần chủ yếu của các enzyme, một số
hormone; trong cơ thể thì khơng có vật chất nào có khả năng thay thế protein
(Phạm Minh Thành, 2001). Ngoài ra, protein cũng là thành phần trong thức ăn có
giá trị kinh tế nhất, quyết định đến giá thành thức ăn (Phạm Minh Thành, 2001).

4


Protein vào cơ thể được thủy phân thành các acid amin và sẽ được ruột hấp thu,
sau đó sẽ đến các tổ chức khác trong cơ thể, tại đây chúng được sử dụng để sinh
tổng hợp protein, phục vụ cho các hoạt động sinh trưởng và sinh sản của cơ thể.
Nhu cầu protein tối ưu của cá là lượng protein tối thiểu trong thức ăn đảm bảo
thoả mãn yêu cầu các amino acid để cá đạt tăng trọng tối đa (NRC, 1993; trích
bởi Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2004a). Nếu thức ăn không cung cấp đủ nhu cầu
protein cho cá sẽ dẫn đến cá chậm lớn, ngừng tăng trưởng hoặc giảm trọng lượng.
Ngược lại, nếu protein trong thức ăn dư thừa, vượt quá nhu cầu thì chỉ một phần
được sử dụng để tạo protein mới, phần còn lại sẽ chuyển sang dạng năng lượng và
cá sẽ bài tiết amonia nhiều, điều này sẽ làm lãng phí thức ăn, tăng giá thành thức

ăn không cần thiết. Hơn nữa, do động vật thủy sản có khả năng sử dụng năng
lượng biến dưỡng từ nguồn protein trong thức ăn nên nhu cầu protein của chúng
có khả năng giảm khi mức năng lượng trong thức ăn tăng lên. Nhưng nếu thức ăn
quá giàu năng lượng thì sẽ hạn chế sự tiêu thụ thức ăn của động vật thủy sản vì
chúng sẽ ngưng bắt mồi khi thỏa mãn nhu cầu năng lượng (Lee và Putnam, 1973;
Page và Adrew, 1973; trích bởi Trần Thị Thanh Hiền và ctv 2004a). Do đó, hàm
lượng protein tối ưu cho động vật thủy sản chịu ảnh hưởng bởi tỉ lệ tối ưu giữa
protein và năng lượng.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Ngoài ra, mức độ cho ăn cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến nhu cầu
protein của cá. Khi cho cá ăn ở mức độ giới hạn (tính theo khối lượng thân) có
thể làm tăng nhu cầu protein (Robinson, 1989). Nếu mức cho ăn thấp gần bằng
mức cần thiết để duy trì cơ thể sẽ dẫn đến hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) cao và
cá tăng trưởng rất chậm hoặc bị ngừng lại, như vậy giá trị protein tối ưu sẽ tăng
cao, khó xác định. Ngược lại, nếu dư thừa lượng thức ăn cũng cho kết quả là hiệu
quả chuyển hóa thức ăn kém do thức ăn bị hao hụt và sự tiêu hóa thức ăn bị giảm
đi.
Tuỳ lồi, tuỳ giai đoạn phát triển mà cá có nhu cầu protein khác nhau. Theo
nghiên cứu của Huỳnh Văn Hiền (2003), nhu cầu đạm cho cá tra giống cỡ nhỏ (2
gam) sinh trưởng tối đa là 38%, khoảng thích hợp cho cá tăng trưởng tốt, giảm
giá thành sản xuất và đem lại hiệu quả kinh tế cao là 26-30%. Theo (NRC, 1998;
trích bởi Trần Thị Phương Lan, 2002) nhu cầu protein đa số các loài cá trơn bột là
40%, cá hương 30-35%, cá 110 g trở lên thì 25-30%
Kết quả nghiên cứu mức protein thích hợp cho cá tra và cá basa (5-6 g) lần lượt
là 27,8% và 32,2% (Lê Thanh Hùng và ctv, 2000).

5



Nhu cầu protein trên cá basa giống cỡ nhỏ (16,4-16,9 g) là 41,6% cao hơn so với
cỡ lớn hơn (75,4-81,3 g) là 34,3% (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 1998).
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thanh Hiền và ctv trên cá Hú giai đoạn
giống nhỏ (0,81-0,91 g) thì cá tăng trưởng nhanh và sử dụng thức ăn hiệu quả
nhất ở 45% protein, khoảng protein thích hợp là 29,3-35% (Trần Thị Thanh Hiền
và ctv, 2004b).
Theo nghiên cứu trên đối tượng cá tra bần giống thì mức protein 42% sẽ làm cho
cá tăng trưởng tối đa, nhưng cá sẽ tăng trưởng chậm và có phần khơng tăng khi
hàm lượng protein vượt quá 45% (Trần Bình Tuyên, 2000).
2.2.2 Nhu cầu carbohydrate
Carbohydrate chủ yếu cung cấp năng lượng cho cơ thể (1g sau khi đốt cháy cung
cấp khoảng 4,3 Kcal), là thành phần của nhân tế bào, kích thích nhu động ruột,
khi thừa sẽ tích lũy mỡ dạng glycogen, khi đủ sẽ tiết kiệm được protein (Phạm
Minh Thành, 2001). Carbohydrate còn quyết định độ kết dính của viên thức ăn.
Đây là nguồn năng lượng rẻ tiền nên tỷ lệ của nó trong thức ăn thích hợp sẽ giảm
được giá thành thức ăn mà vẫn đảm bảo được sự sinh trưởng của cá.

Trung tâm Học liệu hai dạng, carbohydrate Tài liệu học dạng không phải đường
Carbohydrate có ĐH Cần Thơ @ dạng đường và tập và nghiên cứu
(tinh bột, dextrin, glycogen và cellulose), dạng không phải đường là một trong
những thành phần dinh dưỡng quan trọng cần thiết cho cá.
Tuy nhiên, đối với dạng xơ nếu chúng được sử dụng nhiều trong thức ăn sẽ làm
tăng lượng chất cặn trong thuỷ vực nuôi (do xơ khơng được tiêu hố sẽ theo phân
thải ra mơi trường nước), làm giảm hoạt động của enzyme tiêu hoá, làm chậm tốc
độ tiêu hoá và làm giảm khả năng hấp thu khống của cơ thể (xơ sẽ kết dính với
một số chất khoáng).
Theo kết quả nghiên cứu của Huỳnh Văn Hiền (2003), thức ăn có cùng mức
protein nhưng mức carbohydrate khác nhau thì ảnh hưởng đến tăng trọng, hệ số
thức ăn và hiệu quả sử dụng đạm của cá. Thức ăn có chứa 35% carbohydrate cho
kết quả tốt nhất. Tuy nhiên, cá tra có khả năng sử dụng mức carbohydrate trong

thức ăn đến 45%. Ngược lại, ở mức 20% carbohydrate trong thức ăn sẽ làm giảm
hiệu quả sử dụng protein, hệ số thức ăn và tăng trọng. Ngoài ra, tỷ lệ mỡ trong cơ
thể cá cũng bị ảnh hưởng bởi mức carbohydrate trong thức ăn. Tỷ lệ mỡ tăng theo
mức tăng của carbohydrate.

6


Theo nghiên cứu về khả năng sử dụng carbohydrate của Trần Thị Thanh Hiền và
ctv (2004b) cho thấy cá tra ở giai đoạn nhỏ (5,13 g) có khả năng sử dụng
carbohydrate trong khoảng 20-45% mà vẫn cho tăng trưởng tốt.
Theo Lê Thanh Hùng và ctv (2000) nhu cầu carbohydrate ở cá basa là 40%, trong
khi đó cá tra chỉ có thể sử dụng 20% carbohydrat trong thức ăn. Cá Hú (4,5-9 g)
với 35% protein tăng trưởng tốt nhất ở nghiệm thức 35% carbohydrate (Trần Thị
Thanh Hiền và ctv, 2004b).
Wilson và Moreau (1996) đề nghị cá nheo Mỹ sử dụng hiệu quả carbohydrate
trong thức ăn từ 20-30% và đây là mức carbohydrate cho các loài cá trơn. Riêng
nhu cầu carbohydrate ở cá basa giống (31-32 g) là 46,3% (Mai Viết Thi, 1998).
Theo Wilson và Poe (1987) cá nheo Mỹ sử dụng carbohydrate dạng tinh bột,
dextrin hiệu quả hơn so với đường đơn (glucose…), đường đơi (sucrose…) do
khả năng tiêu hố nhanh ở các dạng đường đơn giản này nhưng quá trình biến
dưỡng lại chậm (trích bởi Dương Thuý Yên, 2000).
Đối với cá thành phần thức ăn chứa nhiều carbohydrate sẽ không những ảnh
hưởng đến khả năng tiêu hố carbohydrate mà cịn làm giảm sự tiêu hố protein
(Cowey, 1972, Shimeno, 1977; trích bởi Dương Thuý Yên, 2000).

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2.2.3 Nhu cầu lipid (chất béo)
Lipid gồm có hai dạng là glycerol và acid béo. Lipid là nguồn dinh dưỡng cung
cấp năng lượng chính cho động vật thủy sản (1 g lipid sau khi đốt cháy cung cấp

9,3 Kcal). Giá trị của lipid được chú ý chính là thành phần các acid béo của lipid,
đặc biệt là các acid béo thiết yếu, điển hình là acid béo cao phân tử khơng no
(PUFA) nhóm n-3 và n-6. Đồng thời cung cấp các hợp phần khác tham gia vào
cấu trúc màng cơ bản và là dung mơi để hịa tan và vận chuyển các chất tan trong
mỡ như vitamin A, D, E, K…Năng lượng thức ăn không được sử dụng ngay mà
được dự trữ dưới dạng glycogen và mỡ. Cá da trơn có khả năng dự trữ năng
lượng rất thấp nên mỡ là dạng dự trữ năng lượng chính. Lipid được dự trữ trong
gan, cơ và các dạng mô mỡ bao quanh thành ruột, hay tạo lớp mỡ rất lớn như cá
basa chiếm 25% thể trọng cá khi cá ăn thức ăn có quá nhiều năng lượng
(Mertrampf, 1992; trích bởi Trần Văn Nhì, 2005).
Lipid được bổ sung vào thức ăn thường là dầu động vật (dầu mực) và dầu thực
vật (dầu nành). Ngoài ra, lipid cịn là chất tạo mùi kích thích tơm, cá,….Nếu trong
thành phần thức ăn của cá thiếu những acid béo cần thiết sẽ làm giảm tỷ lệ sống,

7


ăn mịn vi đi, thối hố gan (gan căng phồng lên, tái đi và có sự ứ đọng mỡ),
làm giảm tốc độ tăng trưởng và giảm tỷ lệ sống của cá con,…(Phạm Minh Thành,
2001).
Theo kết quả tổng quan về nhu cầu dinh dưỡng của một số loài cá trơn (Dương
Thúy n, 2000), các lồi cá trơn có thể sử dụng mức lipid trong thức ăn khá lớn.
Cá nheo Mỹ vẫn tăng trưởng tốt ở mức lipid 15% hoặc hơn (Wilson và Moreau,
1996). Nhưng nếu lipid trong thức ăn quá nhiều sẽ dẫn đến sự tích lũy mỡ trong
thịt cá nhiều làm giảm chất lượng cá. Hơn nữa, lượng lipid nhiều còn ảnh hưởng
đến độ bền chặt của viên thức ăn và khó bảo quản. Do đó, Wilson và Moreau
(1996) đề nghị mức lipid thích hợp trong thức ăn của cá nheo Mỹ là từ 5-6%.
Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (1998) cá basa (16,4-16,9 g) cho ăn 7,7%
lipid tăng trưởng tốt nhất và cá giảm tăng trưởng khi lipid trong thức ăn từ 11,320,8%. Wing (2000) cho biết cá lăng lớn nhanh nhất ở mức 8% dầu cọ thô hoặc
tinh chế. Từ các kết quả này, có thể đề nghị mức lipid trong thức ăn của một số

loài cá trơn từ 5-8%.
Kết quả thí nghiệm trên cá basa (17-19g) thì cá tăng trưởng tốt nhất ở nghiệm
thức 75% carbohydrate và 25% lipid (Mai Viết Thi, 1998).

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2.2.4 Nhu cầu năng lượng

Năng lượng đều cần cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Nó được cung cấp từ
thức ăn hoặc từ những cơ quan dự trữ năng lượng của cơ thể.
Năng lượng lấy vào từ thức ăn bị mất khoảng 1/3 do quá trình bài tiết (trong
phân, những phần khơng tiêu hóa được, nước tiểu và bài tiết qua mang), 1/3 năng
lượng dùng cho các hoạt động của cơ thể và 1/3 còn lại dành cho sự sinh trưởng.
Các giá trị này thay đổi tùy thuộc mức độ cho ăn và khả năng tiêu hóa thức ăn của
cá (Smith, 1989). Như vậy, năng lượng trao đổi chất cơ sở càng thấp thì năng
lượng tích lũy cho sinh trưởng càng cao.
Nhu cầu năng lượng thực sự của cá rất khó xác định mà người ta dựa vào tỉ lệ
năng lượng và protein tối ưu. Tỉ lệ P/E của một số loài cá trơn khác cũng tương
đương với cá nheo Mỹ, từ 20-30 mg protein/KJ (Dương Thuý Yên, 2000).
2.2.5 Nhu cầu vitamin
Vitamin đóng vai trị quan trọng trong thành phần dinh dưỡng của động vật thủy
sản. Vai trò và nhu cầu vitamin đối với động vật thủy sản thực sự được quan tâm
khi nghề nuôi thủy sản thâm canh ra đời. Nó chiếm một lượng rất nhỏ 1-2% trong
8


thức ăn. Tuy nhiên, vitamin có vai trị quyết định trong quá trình trao đổi chất của
cơ thể và chi phí có thể lên đến 15% trong khẩu phần ăn (Trần Thị Thanh Hiền và
ctv, 2004a).
Khả năng tổng hợp vitamin của động vật thủy sản rất kém hoặc khơng có do đó
khơng đủ đáp ứng nhu cầu, cho nên việc cung cấp vitamin vào thức ăn cho động

vật thủy sản là rất cần thiết. Nhu cầu vitamin chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố
như kích cỡ và giai đoạn phát triển của đối tượng nuôi, các yếu tố môi trường
nuôi, mối tương tác với các thành phần dinh dưỡng khác và đặc biệt là quá trình
chế biến và bảo quản.
Hiện nay có khoảng 15 vitamin được xác định gồm:
- Vitamin tan trong dầu: A, D, E, K.
- Vitamin tan trong nước: B1, B2, B6, B12, pantothenic acid, nicotinic acid,
biotin, folic acid và các vitamin đa lượng: cholin, inositol, vitamin C.

Trung

Nhu cầu vitamin A của cá nheo Mỹ là 450-900 UI/kg thức ăn (Robinson, 1989).
Ngoài cá nheo Mỹ, các đối tượng cá trơn khác ít được nghiên cứu về nhu cầu
vitamin do đó có thể xem nhu cầu của các loài cá trơn khác cũng tương tự như cá
nheo Mỹ.
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2.2.6 Nhu cầu khoáng
Muối khoáng là những chất vô cơ rất cần thiết đối với cá để chúng xây dựng nên
cấu trúc bộ xương của cơ thể và giúp duy trì cân bằng áp suất thẩm thấu giữa dịch
cơ thể với mơi trường ngồi. Đến nay, người ta đã xác định được 11 nguyên tố
cần thiết cho cá trơn bao gồm 4 nguyên tố đa lượng (canxi, phospho, magiê, kali)
và 7 khống vi lượng (sắt, chì, đồng, mangan, iod, cobalt và selenium(Se)).
Cá nheo Mỹ có thể hấp thu canxi từ môi trường nước đủ đáp ứng nhu cầu
(Robinson,1986; trích bởi Dương Thúy Yên, 2000).
Trong một số nguyên liệu làm thức ăn cho ca trơn có nhiều magiê, natri, kali và
chloride cung cấp đủ nhu cầu. Riêng canxi và phospho thường bổ sung vào thức
ăn với tỉ lệ 1:1 hoặc 2:1. Trong thực tế, để tránh hiện tượng thiếu khoáng, các nhà
sản xuất và nghiên cứu thường bổ sung premix khoáng từ 1-3% trong thức ăn.
Do cá hấp thu muối khống từ mơi trường ngồi nên rất khó xác định nhu cầu
muối khoáng của cá, đặc biệt là khoáng vi lượng.


9


2.3 Tình hình nghiên cứu và sử dụng thức ăn công nghiệp trong nuôi cá tra
Trong năm 2004, ở các tỉnh khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long nuôi cá tra với
sản lượng trên 300.000 tấn. Vì vậy, lượng thức ăn sử dụng nuôi cá là rất lớn.
Theo số liệu điều tra, ước tính số lượng thức ăn cơng nghiệp cung cấp cho thị
trường nuôi cá tra trong năm 2004 là khoảng 300.000 tấn, đáp ứng 66% yêu cầu
(giả thiết tất cả các hộ nuôi cá tra sử dụng thức ăn cơng nghiệp). Năm 2004, có
khoảng 18 cơng ty sản xuất thức ăn cho cá và cá nhiều loại sản phẩm xuất hiện ở
các vùng nuôi. Một số công ty sản xuất thức ăn với sản lượng lớn (60.000120.000 tấn/năm) như Proconco, Cargill, Greenfeed. Đa số các công ty khác có
cơng suất nhỏ hơn, khoảng 20.000-30.000 tấn/năm (Trần Văn Nhì, 2005).

Trung

Theo kết quả điều tra về tình hình sử dụng thức ăn trong nuôi cá tra và basa khu
vực Đồng Bằng Sơng Cửu Long thì thức ăn tự chế được sử dụng rất phổ biến, tuy
nhiên người nuôi vẫn sử dụng thức ăn viên công nghiệp trong 1-1,5 tháng đầu khi
cá cịn nhỏ. Ngồi ra, một số hộ cịn sử dụng thức ăn viên công nghiệp trong
khoảng thời gian 1 tháng cuối vụ nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm. Tỷ lệ
người dân áp dụng phương thức phối hợp cho ăn này khá cao, đặc biệt là những
hộ nuôi cá bè ở Châu Đốc và Long Xuyên. Hơn nữa, đối với hình thức ni cá bè
thì thức ăn tự chế được sử Thơ @ rãi liệu học tập thì thức ăn cứu
tâm Học liệu ĐH Cần dụng rộng Tàicịn ni trong aovà nghiêncơng
nghiệp là loại thức ăn chính (Lê Thanh Hùng và Huỳnh Phạm Việt Huy, 2006).
Ưu điểm của thức ăn viên khơ là có thể bảo quản lâu, chi phí bảo quản và vận
chuyển đơn giản và thấp hơn so với thức ăn ẩm, ít bị biến động bởi mùa vụ, số
lượng cũng như chất lượng, giảm thiểu rủi ro, ít bị nhiễm vi sinh vật gây hại, dễ
dàng sử dụng với máy cho ăn tự động và đặc biệt là hiệu quả sử dụng thức ăn cao

do chậm tan trong nước, hạn chế ô nhiễm môi trường nuôi. Trở ngại trong sử
dụng thức ăn viên do giá thành sản xuất cao, một số lồi khơng thích sử dụng
thức ăn viên do tính ngon miệng và tạp tính ăn của loài. Ngoài ra, chất lượng thức
ăn viên rất biến động theo từng nhà máy sản xuất (Trần Thị Thanh Hiền và ctv,
2004b).
Theo kết quả điều tra về tình hình nuôi và sử dụng thức ăn cho cá tra nuôi ao và
bè ở An Giang có 66,7% hộ ni bè ở vùng nuôi truyền thống và 93,3% hộ nuôi
bè ở vùng nuôi mới; 55,5% hộ nuôi ao ở vùng nuôi truyền thống và 66,7% hộ
nuôi ao ở vùng nuôi mới có bổ sung thức ăn cơng nghiệp trong khoảng 3-4 tuần
đầu. Vì những hộ sử dụng thức ăn viên cho rằng giai đoạn 3-4 tuần đầu cá mới
thả còn yếu, khả năng bắt mồi chậm nếu sử dụng thức ăn tự chế thì dễ làm rớt
mồi, ơ nhiễm mơi trường nước và hao phí thức ăn. Hầu hết các hộ nuôi hiện nay
10


đều cho rằng thức ăn viên giá quá cao nếu sử dụng nhiều thì ni cá khơng có lãi
(Huỳnh Thị Tú và ctv, 2006).
Giá cả của các loại thức ăn viên hiện nay có sự biến động lớn từ 4.500 – 7.500
đồng/kg. Giá cả khác nhau tuỳ theo loại thức ăn và thành phần dưỡng chất trong
thức ăn. Nhìn chung, giá thức ăn cơng nghiệp được tính trên hàm lượng đạm có
trong thức ăn (đồng/độ đạm), giá trung bình là 200 – 250 đồng/độ đạm.
2.4 Tiêu chuẩn ngành về thức ăn hỗn hợp dạng viên cho cá Tra và Ba sa
Theo tiêu chuẩn ngành 28 TCN 188:2004 (trích bởi Trần Thị Thanh Hiền và ctv,
2004a) quy định các yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thú y của thức ăn
hỗn hợp dạng viên (gọi tắt là thức ăn viên); được phối chế từ nhiều loại nguyên
liệu đảm bảo có đủ các chất dinh dưỡng; sử dụng để ương giống và nuôi cá tra và
basa thương phẩm. Tiêu chuẩn này được áp dụng trong phạm vi cả nước đối với
các cơ sở sản xuất và kinh doanh thức ăn viên cho cá tra và cá basa.
Thức ăn viên cho cá tra và cá basa gồm 6 loại sử dụng cho các giai đoạn phát
triển của cá với các số hiệu từ số 1 đến số 6.


Trung

Thức ăn viên cho cá tra và cá basa khi sản xuất phải có dạng hình trụ (hoặc mảnh)
tâmnhau, bề mặt ĐH kích cỡThơ đúngTàihiệu của từng loạivà nghiênđịnh.
đều Học liệu mịn, Cần theo @ số liệu học tập thức ăn quy cứu
Màu sắc và mùi vị đặc trưng của nguyên liệu phối chế, thức ăn có màu nâu vàng
đến nâu, khơng có mùi men mốc và mùi lạ khác.
Bên cạnh đó, đường kính viên thức ăn khơng lớn hơn 12mm, chiều dài so với
đường kính nằm trong khoảng 1,0-1,5 lần. Khi chế biến thức ăn tỷ lệ vụn nát
không lớn hơn 2% khối lượng, đồng thời độ bền không nhỏ hơn 30 phút. Hơn
nữa, năng lượng thô không nhỏ hơn 1500-3300 kcal cho 1 kg thức ăn, độ ẩm
không lớn hơn 11%, hàm lượng protein thô không nhỏ hơn 18-40%, hàm lượng
lipid thô không nhỏ hơn 3-8%, hàm lượng xơ thô không lớn hơn 6-8% và hàm
lượng tro không lớn hơn 10-16% khối lượng tuỳ theo số hiệu của từng loại thức
ăn quy định. Ngồi ra, cát sạn (tro khơng hồ tan trong HCl 10%) không lớn hơn
2%, hàm lượng phospho không nhỏ hơn 1%, natri clorua không lớn hơn 2,5%,
hàm lượng lyzin không nhỏ hơn 0,9-2,0%, methionin không nhỏ hơn 0,4-0,9%
khối lượng tuỳ theo số hiệu của từng loại thức ăn quy định.
Cùng với các quy định trên, các chỉ tiêu vi sinh và an toàn vệ sinh thú y của viên
thức ăn cho cá tra và basa không cho phép có cơn trùng sống, vi khuẩn gây bệnh
(Salmonella), nấm mốc độc (Aspergillus flavus), chất độc hại (Aflatoxin), các

11


loại kháng sinh và hóa chất đã bị cấm sử dụng theo Quyết định số 01/2002/QĐBTS ngày 22/01/2002 của Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Thủy Sản.
Thêm vào đó bao đựng thức ăn phải bền , kín, khơng rách, đã được tẩy trùng.
Nhãn phải được ghi theo đúng quy định gồm tên hàng, tên và địa chỉ của thương
nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa, khối lượng tịnh, thành phần cấu tạo, chỉ tiêu

chất lượng chủ yếu (hàm lượng protein thô, chất béo thơ, độ ẩm, chất xơ thơ, hàm
lượng khống…), ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản, hướng dẫn
bảo quản, hướng dẫn sử dụng, xuất xứ của hàng hóa. Thức ăn phải được bảo quản
trong kho khơ, sạch; để trên bục kê cao ráo, thống mát và được tẩy trùng. Kho
phải có biện pháp chống chuột và côn trùng phá hoại. Thời gian bảo quản sản
phẩm kể từ ngày sản xuất cho đến khi sử dụng không quá 90 ngày.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

12


CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian nghiên cứu
Tháng 03 năm 2006 – tháng 05 năm 2006.
3.2 Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiêm được bố trí trong giai đặt trong ao tại Quận Ninh Kiều Tp Cần Thơ.
3.3 Vật liệu thí nghiệm
- 20 giai 1m3
- Máy đo pH, nhiệt kế…
3.4 Nguồn cá thí nghiệm
- Từ nguồn giống sản xuất nhân tạo.

Trung

- Cá được chọn đồng cỡ, không nhiễm bệnh, không dị tật, khơng xây xát, có kích
cỡ trung bình từ ĐH gam/con.
tâm Học liệu45- 55 Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
- Cá được giữ trong giai từ 7-10 ngày trước khi bắt đầu thí nghiệm.

3.5 Hệ thống thí nghiệm
- Hệ thống thí nghiệm gồm 20 giai (1m3) bằng lưới đặt trong ao sâu 2m, diện tích
1000m2.
- Nguồn nước thí nghiệm lấy từ một nhánh sơng nhỏ của sơng Hậu.

Hình 3.1: Hệ thống giai thí nghiệm
13


3.6 Bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 lần lập lại cho mỗi nghiệm
thức.
- Thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức với 5 loại thức ăn khác nhau. Nguồn thức ăn là
những loại thức ăn công nghiệp dùng cho giai đoạn giống của các cơng ty ngồi
nước và trong nước được bán phổ biến trên thị trường.
- Mật độ cá thí nghiệm 30 con/ giai. Cỡ cá: 45-55 g/con.
- Thời gian thí nghiệm 2 tháng.
3.7 Chăm sóc và quản lý
- Cá được cho ăn theo nhu cầu , mỗi ngày cho ăn 2 lần, vào lúc 8 giờ và 17 giờ.
- Nước trong giai thông với nước ao và ao được thay nước theo triều cường.
- Cá được theo dõi hàng ngày.
3.8 Phương pháp thu mẫu
Các yếu tố môi trường: Được thu 2 tuần / 1 lần.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
-

Nhiệt độ, pH, Oxy đo sáng, chiều.

+


Nhiệt độ đo bằng nhiệt kế

+

pH đo bằng máy

+

Oxy thu mẫu và phân tích bằng phương pháp Winkler

Tổng đạm (TAN) và NO2- được xác định bằng cách thu mẫu vào bình 1 lít,
bảo quản mẫu lạnh cho đến khi phân tích mẫu xong.
- Mẫu cá trước và sau khi thí nghiệm (2 tháng) được cân khối lượng.
Phương pháp phân tích thành phần hóa học của thức ăn và mẫu cá thí
nghiệm.
Mẫu cá thí nghiệm trước khi bố trí thí nghiệm và sau khi thu hoạch được giữ
đơng (-200C) cho đến khi phân tích.
Phân tích thành phần hóa học theo phương pháp O.A.O.C (2000) gồm các chỉ
tiêu: Protein thô, lipid thô, năng lượng thô, tro và ẩm độ. Các chỉ số tính bằng
khối lượng khơ.

14


- Độ ẩm: sấy mẫu ở nhiệt độ 1050C trong khoảng 4 giờ (đến khi trọng lượng
không đổi).
- Tro: mẫu sau khi làm ẩm độ được đem nung ở nhiệt độ 5600C trong khoảng 4
giờ (khi mẫu có màu trắng hồn tồn).
- Protein thơ: phương pháp Kjenldal.

- Lipid thơ: thủy phân trong Chloroform bằng hệ thống Soxlet.
- Năng lượng thô: được đo bằng máy Parr 6100 Calorimeter.
3.9 Các chỉ tiêu thu thập tính tốn và xử lý số liệu
3.9.1 Các chỉ tiêu
Tăng trưởng
- Tốc độ tăng trưởng tương đối (Specific growth rate, SGR)
Ln (wc) – Ln (wđ)
SGR (%/ngày) =

x 100
T

wc: Khối
Trung tâm Học liệu ĐHlượng cuối (gam) Tài liệu học tập và nghiên cứu
Cần Thơ @
wđ: Khối lượng đầu (gam)
T: Thời gian nuôi
- Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối theo ngày (DWG)
wc – wđ
DWG (g/ngày) =
T
Lượng thức ăn tiêu tốn được ghi nhận hằng ngày và tính hiệu quả sử dụng thức
ăn, sử dụng protein.
- Hệ số thức ăn (Feed conversion ratio, FCR)
Lượng thức ăn cho cá ăn (g)
FCR =
Khối lượng cá gia tăng (g)

15



- Hiệu quả sử dụng thức ăn (FCE)
FCE =

1
FCR

- Hiệu quả sử dụng protein (PER)
Wc – Wđ
PER =
Protein ăn vào
- Tỉ lệ sống của cá (Survival rate, SR%)
Số cá thu hoạch
SR(%) =

x100
Số cá thả

- Chỉ số protein tích luỹ (NPU)
Protein cá cuối thí nghiệm - Protein cá đầu thí và nghiên cứu
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tậpnghiệm
NPU (%) =

x 100

Protein ăn vào
-Chi phí thức ăn/kg cá tăng trọng.
Chi phí (đồng/kg cá) = Đơn giá x FCR
3.9.2 Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý theo chương trình excell version 5.0 và statistica. So sánh

trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào ANOVA và phép thử DUCAN ở mức ý
nghĩa p < 0,05.

16


CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Điều kiện môi trường
Môi trường nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của thuỷ sinh vật. Vì thế, các yếu tố môi trường trong ao nuôi được xem xét
thường xuyên thông qua các chỉ tiêu nhiệt độ, oxy, pH, NO2-, TAN.
Bảng 4.1: Biến động các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm.

Trung

Chỉ tiêu
Tuần đầu Sau 2 tuần Sau 4 tuần Sau 6 tuần Sau 8 tuần
Nhiệt độ Sáng
29
30
29
30
31
0
( C) Chiều
31
32
30
32

33
Oxy
Sáng
3,7
3,1
2,7
3,3
2,2
(mg/L) Chiều
5,9
7,0
3,9
6,0
3,3
Sáng
8,2
7,8
8,1
7,7
8,1
pH
8,0
8,0
8,0
8,0
7,9
Chiều
NO2- (mg/L)
0,01
0,03

0,03
0,04
0,04
TAN (mg/L)
0,55
0,60
0,45
0,84
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài 0,54 học tập và nghiên cứu
liệu
Nhiệt độ là một nhân tố môi trường ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động sống
như sinh trưởng, dinh dưỡng, sinh sản và di cư của thủy sinh vật, đặc biệt là đối
với cá vì cá là một lồi động vật biến nhiệt (Trương Quốc Phú, 2000). Trong suốt
thời gian thí nghiệm nhiệt độ dao động từ 29-330C. Nhiệt độ thấp nhất vào buổi
sáng 290C và cao nhất vào buổi chiều 330C, trong cùng ngày nhiệt độ không
chênh lệch nhiều. Theo Nguyễn Văn Bé (1987) nhiệt độ thích hợp cho đa số các
lồi cá ni từ 20-300C nhưng giới hạn cho phép từ 10-400C. Do đó, cá tra có khả
năng sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ thí nghiệm này.
Oxy dao động từ 2,2-7,0 ppm. Theo Nguyễn Văn Bé (1987) thì nồng độ oxy hịa
tan thích hợp trong các ao nuôi cá từ 6-8 ppm. Nồng độ oxy từ 1,0-5,0 ppm thì cá
sống nhưng phát triển chậm. Tuy vậy, trong thí nghiệm này hàm lượng oxy hịa
tan đơi lúc giảm xuống 2,2 ppm vào buổi sáng mà cá vẫn cá thể sinh trưởng và
phát triển bình thường là do cá tra có cơ quan hơ hấp phụ, chúng có khả năng
thích nghi tốt với điều kiện mơi trường ni. Bên cạnh đó, theo Dương Nhựt
Long (2003) cá tra có khả năng sống tốt trong điều kiện ao tù nước đọng, nhiều
chất hữu cơ, oxy hòa tan thấp và có thể ni với mật độ rất cao. Vì vậy, có thể

17



thấy rằng điều kiện môi trường khảo sát được trong thí nghiệm này là phù hợp
cho cá tra sinh trưởng và phát triển bình thường.
pH thích hợp cho các lồi tơm cá ni từ 6,5-9,0 (Trương Quốc Phú, 2000).
Trong thí nghiệm này pH dao động từ 7,7-8,2, thích hợp cho cá tra sinh trưởng và
phát triển tốt.
NO2- trong ao dao động từ 0,01-0,04 ppm trong suốt q trình thí nghiệm. Ở hàm
lượng NO2- này rất thích hợp đối với cá ni vì nó nằm trong khoảng thích hợp
nhất 0,01-0,1 ppm (Nguyễn Văn Bé, 1987).
Tổng đạm (TAN) dao động từ 0,45-0,84 ppm. Hàm lượng TAN thích hợp cho ao
ni cá tra thâm canh là <4 ppm (Dương Nhựt Long, 2003). Vậy hàm lượng TAN
vẫn nằm trong giới hạn cho phép để cá sinh trưởng và phát triển tốt.
4.2 Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn

Trung

Thức ăn đóng một vai trị quan trọng đối với cá. Cá thơng qua việc sử dụng thức
ăn để biến đổi các thành phần của thức ăn thành những chất đặc trưng của cơ thể
như: protein, chất béo, acid amin,…từ đó cá tăng lên về kích thước và khối lượng.
Vì vậy, chất lượng thức ăn có ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng của cá. Đặc
tâmcá đượcliệu ĐH Cần Thơ @ khơng có hay thiếu thức ăn tự nhiên cứu
biệt Học nuôi trong ao nhỏ (nơi mà Tài liệu học tập và nghiên của
loài) thì thành phần dinh dưỡng của thức ăn nhân tạo đóng vai trị hết sức quan
trọng.
Bảng 4.2: Thành phần hố học của các loại thức ăn thí nghiệm (tính theo khối
lượng tươi)
Thành phần
Protein (%)
Ẩm độ (%)
Lipid (%)
Tro (%)

Xơ (%)
NFE (%)
Năng lượng (kcal/kg)

I
28.5
8,51
10.7
10.3
5.0
45.6
3942

II
29.6
8,19
7.7
12.6
5.5
44.7
3847

18

Nghiệm thức
III
IV
27.5
28.8
9,06

7,65
8.1
10.0
9.1
11.7
2.1
4.1
53.2
45.4
3627
3958

V
30.3
5,12
7.4
9.5
3.0
49.8
3969


Protein phân tích trong thức ăn dao động từ 27,5-30,3%. Chỉ có protein trong
thức ăn I và V lần lượt là 28,5% và 30,3% đạt yêu cầu so với hàm lượng protein
ghi trên bao bì tối thiểu là 28% và 30%, còn 3 loại thức ăn còn lại bị thấp hơn so
với hàm lượng ghi trên bao bì nhưng khơng đáng kể từ 0,4-1,2%. Tuy nhiên, hàm
lượng protein thô theo tiêu chuẩn ngành dùng cho kích cỡ cá trong thí nghiệm này
là 26%. Do đó, với mức protein như vậy trong thức ăn đã đáp ứng yêu cầu hàm
lượng đạm trong thức ăn cho cá thí nghiệm.
Ẩm độ của thức ăn phân tích trong khoảng 5,52-9,06%. Ở mức ẩm độ này chúng

đã thoả mãn với hàm lượng ghi trên bao bì và theo tiêu chuẩn ngành là 11%.
Tương tự như hàm lượng đạm thì hàm lượng lipid trong thức ăn dao động từ 7,410,7%, cao nhất trong thức ăn I (10,7%) và thấp nhất trong thức ăn V (7,4%). Với
hàm lượng này chúng đã đạt yêu cầu so với hàm lượng ghi trên bao bì của từng
loại thức ăn và theo quy định của tiêu chuẩn ngành về thức ăn dạng viên dành cho
cá tra, basa giai đoạn 20-200 g là không nhỏ hơn 5% khối lượng.

Trung

Hàm lượng tro trong thức ăn hầu như không được các nhà sản xuất quan tâm
nhiều do trên bao bì chỉ có thức ăn loại III qui định là 14% nhưng theo tiêu chuẩn
ngành thì hàm lượng tro khơng được vượt q 10%. Tuy nhiên, theo phân tích chỉ
tâm Học loại IIIĐHVCần Thơ @ Tài liệucầu là 9,1% và 9,5%. Theo cứu
có thức ăn liệu và có hàm lượng tro đạt yêu học tập và nghiên kết
quả phân tích hàm lượng tro trong thức ăn dao động từ 9,98-13,67%.
Hàm lượng xơ trong thức ăn được quy định cho cá tra, basa giai đoạn 20-200 g
thấp hơn 7% (theo tiêu chuẩn ngành 2004) vì nếu hàm lượng xơ trong thức ăn cao
sẽ làm giảm độ tiêu hoá thức ăn, động vật thuỷ sản sinh trưởng chậm (Trần Thị
Thanh Hiền và ctv, 2004a). Hàm lượng xơ trong thức ăn phân tích từ 2,1-5,5%
đạt yêu cầu so với quy định về hàm lượng xơ cho loại thức ăn này.
Chiết chất không đạm NFE phần lớn là tinh bột và đường, chúng dễ tiêu hoá và
hấp thu trong đường tiêu hố của tơm cá. Khi phân tích trong thức ăn hàm lượng
NFE thấp nhất trong thức ăn II 44,7% và cao nhất trong thức ăn III 53,2%.
Năng lượng trong thức ăn phân tích đạt 3.627 – 3.969 kcal/kg đạt yêu cầu so với
nhu cầu năng lượng của một số loài cá trơn là khoảng 2.750- 3100 kcal/kg (Trần
Thị Thanh Hiền và ctv, 2004a). Trong khi năng lượng ghi trên bao bì là năng
lượng trao đổi thì thấp hơn rất nhiều so với năng lượng thơ phân tích được và
năng lượng phân tích đạt yêu cầu so với năng lượng thô do tiêu chuẩn ngành quy
định là không nhỏ hơn 2.100 kcal/kg.

19



4.3 Tỷ lệ sống
Bảng 4.3 cho thấy ở các nghiệm thức tỷ lệ sống của cá đạt khá cao từ 96,7%99,2%. Trong đó, tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức II, III, IV và thấp nhất ở
nghiệm thức V. Tuy nhiên, tỷ lệ sống giữa các nghiệm thức không khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Điều này đã nói lên rằng 5 loại thức ăn cơng nghiệp thí
nghiệm không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá tra. Nguyên nhân làm cho cá chết
ở một số nghiệm thức trong thí nghiệm là do cá bị ký sinh.
Bảng 4.3: Tỷ lệ sống của cá tra qua 2 tháng thí nghiệm
Nghiệm thức
I
II
III
IV
V

SR (%)
98,3 ± 1,92a
99,2 ± 1,67a
99,2 ± 1,67a
99,2 ± 1,67a
96,7 ± 2,72a

Trung tâm Họctrịliệu ĐH Cần Thơ lệch chuẩn. liệu học tập và nghiên cứu
@ Tài
Ghi chú: Giá thể hiện là số trung bình ± độ
Các số liệu cùng nằm trong một cột có mang chữ cái giống nhau thì sai khác khơng có ý nghĩa p>0,05.

Kết quả về tỷ lệ sống trong thí nghiệm này cũng tương tự như tỷ lệ sống của cá
tra trong thí nghiệm về khả năng sử dụng cám ly trích làm thức ăn nuôi cá tra là

từ 96,7- 100% (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2006a).
Theo nghiên cứu của Trương Văn Bền (2005) trên cá tra giống với khối lượng
trung bình ban đầu là 60-88 g/con được bố trí trong hệ thống bể (500 L/bể) có
nước chảy tràn và sục khí cho tỷ lệ sống khá cao 95,5-100%.
Cá tra với đặc điểm lớn nhanh ở giai đoạn nuôi cá thịt nhưng lại chậm lớn ở giai
đoạn nhỏ và đặc biệt là có tỷ lệ sống rất thấp khi ương từ bột lên giống (Dương
Thuý Yên và Nguyễn Anh Tuấn, 2006).
Mặc dù vậy, tỷ lệ sống trong thí nghiệm này cao hơn rất nhiều so với điều tra về
tỷ lệ sống của cá tra nuôi bè ở An Giang là 88,6% ở vùng nuôi truyền thống và
90,5% ở vùng nuôi mới (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2006b). Theo kết quả
nghiên cứu của nhiều tác giả tỷ lệ sống của cá lớn thường cao hơn cá nhỏ nhưng
trong thí nghiệm này tỷ lệ sống của cá thí nghiệm (cá giống) đạt khá cao. Điều

20


này chứng tỏ các loại thức ăn thí nghiệm đạt chất lượng tốt, không làm ảnh hưởng
đến tỷ lệ sống của cá thí nghiệm.

4.4 Tăng trưởng
Tăng trưởng của cá là một trong những chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng của
thức ăn. Tăng trưởng của cá được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tương đối và
tốc độ tăng trưởng tuyệt đối ngày.
Bảng 4.4: Khối lượng đầu, khối lượng cuối, tốc độ tăng trưởng tương đối, tốc độ
tăng trưởng tuyệt đối.
Nghiệm thức
I
II
III
IV

V

Wđ (g/con)
47,1 ± 3,7
48,8 ± 1,6
50,8 ± 1,7
50,0 ± 3,0
49,2 ± 2,9

Wc (g/con)
238,1 ± 7,2
272,3 ± 28,6
256,8 ± 8,5
276,2 ± 26,9
212,6 ± 32,7

SGR (%/ngày)
2,70 ± 0,08ab
2,86 ± 0,20b
2,70 ± 0,09ab
2,84 ± 0,10b
2,43 ± 0,34a

DWG (g/ngày)
3,18 ± 0,06ab
3,73 ± 0,49b
3,43 ± 0,15b
3,77 ± 0,41b
2,72 ± 0,59a


Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn.

Trung tâm Học liệu trong một cột có Thơ @ Tài nhau thìhọc tập vàýnghiên cứu
Các số liệu cùng nằm ĐH Cần mang chữ cái giống liệu sai khác khơng có nghĩa p>0,05.
Khối lượng cá cuối thí nghiệm dao động từ 212,6-276,2 g. Cao nhất ở nghiệm
thức IV (276,2 g) và thấp nhất ở nghiệm thức V (212,6 g). Sự tăng trưởng của cá
ở các nghiệm thức còn thể hiện rõ ở tốc độ tăng trưởng tuyệt đối theo ngày của cá
(DWG), mỗi ngày cá tăng trọng từ 2,72-3,77 g/ngày. Trong đó, cá tăng trưởng
thấp nhất ở nghiệm thức V (2,72 g/ngày) và khơng có sự khác biệt (p>0,05) với
nghiệm thức I (3,18%). Tăng trưởng cao nhất ở nghiệm thức IV (3,77 g/ngày) và
khơng có sự khác biệt (p>0,05) với nghiệm thức I, II và III. Như vậy, thức ăn I,
II, III và IV giúp cá sinh trưởng tốt hơn thức ăn V. Điều này cũng được thể hiện ở
tốc độ tăng trưởng tương đối của cá ở nghiệm thức V là thấp nhất 2,43 %/ngày.
Mặc dù hàm lượng protein trong thức ăn của cả 5 loại tương đương nhau nhưng
tốc độ tăng trưởng của cá lại khác nhau, vì vậy có thể giải thích rằng có thể do
chất lượng protein trong thức ăn (chúng được phối chế từ những nguồn protein
khác nhau) nên chúng làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv (1998) về việc sử dụng
protein thực vật (bột đậu nành) thay thế protein động vật (bột cá và bột huyết)
trong thức ăn nuôi cá basa giống cho rằng không thể thay thế hơn 25% bột cá

21


bằng bột đậu nành trong thức ăn của cá basa giống. Khối lượng cuối và tốc độ
tăng trưởng tương đối (SGR) giảm theo mức tăng của bột đậu nành trong thức ăn.
Tuy nhiên, cả khối lượng cuối và SGR của cá ăn thức ăn có thay thế 25% bột đậu
nành (2,0%/ngày) thì khơng khác biệt có ý nghĩa so với cá ăn thức ăn khơng có
thay thế bột đậu nành (2,13%/ngày)và cá ăn thức ăn có thay thế 43% bột đậu
nành (1,75%/ngày).

Hơn nữa, Lâm Đăng Khoa (2005) nghiên cứu về khả năng sử dụng bột đậu nành
trong công thức thức ăn của cá rô đồng (Anabas testudineus) giai đoạn giống cho
rằng với mức protein và mức lipid tương đương nhau trong thức ăn nhưng tăng
trưởng của cá tăng dần ở mức bột đậu nành từ 0%-30% và đạt cao nhất ở nghiệm
thức 30% bột đậu nành (5,30 g). Khi mức đậu nành vượt qua 40% trong thức ăn
thì tăng trưởng của cá có xu hướng giảm. Khối lượng cá thấp nhất là ở nghiệm
thức 60% bột đậu nành (4,36 g). Hàm lượng bột đậu nành có thể sử dụng tối đa
trong thức ăn cho cá rô đồng là 40%.

Khối lượng (g)

Trung

Tóm lại, khi cho cá ăn thức ăn với mức protein tương đương nhau nhưng khác
nhau về nguồn protein khi phối trộn vào thức sẽ làm ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cá. Vì thế, có thể nói rằng thức ăn loại IV được phối chế từ những nguồn
nguyên liệu thích hợp cho cá tra hơn các loại thức ăn tập nên giúp cá cứu
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu họccòn lạivà nghiên sinh
trưởng và phát triển tốt nhất.
350
300
250
200
150
100
50
0

272.3
256.8


238.1

1

2

276.2

3

212.6

4

5

Nghiệm thức

Hình 4.1: Khối lượng cá cuối thí nghiệm

22


4.5 Hệ số thức ăn
Hệ số thức ăn là một chỉ tiêu quan trọng dùng để tính giá thành sản phẩm khi sản
xuất.
Bảng 4.5: Hệ số thức ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn
Nghiệm thức
I

II
III
IV
V

FCR
1,85 ± 0,05bc
1,71 ± 0,12ab
1,57 ± 0,05a
1,66 ± 0,13ab
1,95 ± 0,28c

FCE
0,54 ± 0,01ab
0,59 ± 0,04abc
0,64 ± 0,02c
0,60 ± 0,04bc
0,52 ± 0,08a

Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
Các số liệu cùng nằm trong một cột có mang chữ cái giống nhau thì sai khác khơng có ý nghĩa p>0,05.

Trung

Theo kết quả ở Bảng 4.5 cho thấy hệ số thức ăn dao động từ 1,57-1,95. Cao nhất
ở nghiệm thức V (1,95) và thấp nhất ở nghiệm thức III (1,57). FCR khác biệt
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
khơng có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa nghiệm thức II, III và IV. Từ kết quả
này cho thấy ở nghiệm thức III cá chỉ cần 1,57 kg thức ăn để tăng lên 1 kg khối
lượng. Điều này chứng tỏ rằng cá ở nghiệm thức III sử dụng thức ăn một cách tốt

nhất, kế đến là nghiệm thức IV và cá sử dụng thức ăn kém nhất là nghiệm thức V.
Cá ở nghiệm thức V cần một lượng lớn thức ăn hơn so với các nghiệm thức khác
để tăng lên một đơn vị khối lượng.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy hàm lượng protein trong thức
ăn càng giảm thì hệ số thức ăn càng tăng. Điển hình như nghiên cứu của Nguyễn
Thanh Phương và ctv (1997) trên 2 cỡ cá basa giống thì hệ số thức ăn tăng từ
1,61- 2,11 đối với cá giống nhỏ (16,4-16,9g) và tăng từ 2,1-3,27 đối với cá giống
lớn (75,4-81,3g) khi cho ăn thức ăn có hàm lượng protein giảm từ 40% xuống cịn
14%. Ngồi ra, khi nghiên cứu trên cá rô đồng giống cũng cho kết quả tương tự,
hàm lượng protein trong thức ăn tăng từ 23%; 26% đến 32% thì FCR lần lượt
giảm từ 6,20; 4,55 và 3,36 (Trần Lê Cẩm Tú và Trần Thị Thanh Hiền, 2006).
Vì vậy có thể nói rằng, hệ số thức ăn trong thí nghiệm này khơng phụ thuộc vào
hàm lượng protein trong thức ăn mà phụ thuộc vào chất lượng của nguồn protein
khi phối trộn thức ăn. Do có nhiều nguồn protein để bổ sung vào thức ăn cho cá
23


như protein từ bột cá, bột thịt, bột huyết, bột đậu nành, bột phụ phẩm gia cầm, bột
lông vũ,…mà trong số này chỉ có một số nguồn cung cấp protein với mức thích
hợp giúp cá tiêu hố và hấp thu tốt. Ngồi ra, sinh trưởng của cá cịn phụ thuộc
vào hàm lượng và chất lượng của các thành phần khác, đặc biệt là lipid.
Hệ số thức ăn càng cao thì hiệu quả sử dụng thức ăn càng thấp. Kết quả cho thấy,
hiệu quả sử dụng thức ăn của nghiệm thức III là tốt nhất (0,64). Điều này cho biết
khi cá ăn 1 kg thức ăn chúng sẽ tăng trọng được 0,64 kg. Ngược lại, cá ở nghiệm
thức V sử dụng thức ăn kém hiệu quả nhất (chúng tăng trọng 0,52 kg khi sử dụng
1 kg thức ăn). Ngoài ra, cả nghiệm thức V và nghiêm thức I, II khác biệt khơng
có ý nghĩa thơng kê (p>0,05).
4.6 Hiệu quả sử dụng protein
Chỉ số này là lượng tăng trọng trên mỗi đơn vị trọng lượng protein ăn vào, thay
đổi theo lượng và loại protein ăn vào (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2004a).

Bảng 4.6: Hệ số thức ăn, hiệu quả sử dụng protein, chỉ số protein tích luỹ của cá
tra
Nghiệm

FCR

I
II
III
IV
V

1,85 ± 0,05bc
1,71 ± 0,12ab
1,57 ± 0,05a
1,66 ± 0,13ab
1,95 ± 0,28c

PER

NPU

Trung tâmthức liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Học
(%)
1,74 ± 0,05ab
1,82 ± 0,13abc
2,11 ± 0,07d
1,94 ± 0,14bcd
1,65 ± 0,25a


32,2 ± 2,12b
32,7 ± 1,93bc
38,0 ± 2,56d
36,0 ± 1,93cd
27,3 ± 2,70a

Ghi chú: Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn.
Các số liệu cùng nằm trong một cột có mang chữ cái giống nhau thì sai khác khơng có ý nghĩa p>0,05.

Qua Bảng 4.6 thể hiện rõ hiệu quả sử dụng protein trong thức ăn của cá ở nghiệm
thức III cao nhất với PER là 2,11 (FCR thấp nhất 1,57) và khác biệt khơng có ý
nghĩa thơng kê (p>0,05) với nghiệm thức IV. Ngược lại, cá ở nghiệm thức V sử
dụng protein trong thức ăn kém hiệu quả nhất 1,65 (FCR là 1,95) và khơng có sự
khác biệt (p>0,05) với nghiệm thức I, II.
Kết quả cho thấy hiệu quả sử dụng protein trong thức ăn của cá tra tương đối cao.
Theo kết quả nghiên cứu của Akand và ctv (1991) trên cá trơn Heteropneustes
fossilis PER đạt 1,95 ở nghiệm thức chứa 35% carbohydrate – 5% lipid, chênh
lệch không lớn so với nghiệm thức chứa 35% carbohydrate – 10% lipid PER 1,7
(trích bởi Trần Lê Cẩm Tú, 2004).
24


×