Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

KIỂM SOÁT CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA CÁC NGÂN HÀNG GẶP KHÓ KHĂN TÀI CHÍNH.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 56 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử
dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh
tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

TÁC GIẢ



PHẠM VĂN HÙNG



ii

LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành bằng sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ quý báu của Tiến
Sĩ Trần Thị Quế Giang. Tôi xin chân thành cảm ơn vì sự đóng góp ý kiến và hướng dẫn nhiệt
tình của Cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Xuân Thành, thầy Đỗ Thiên Anh Tuấn vì những ý
kiến đóng góp giá trị của các thầy trong quá trình viết bài luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
đã truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm, giúp tôi có được phương pháp nghiên cứu tốt
để thực hiện các nghiên cứu của mình.
Xin cảm ơn các bạn học viên đã giúp đỡ tôi trong thời gian qua để tôi có thể vượt qua những
khó khăn của quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình tôi, những người đã luôn ủng hộ, động
viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu của mình.




PHẠM VĂN HÙNG
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2013


iii

TÓM TẮT
Mối quan hệ giữa cổ tức và ngân hàng được sự quan tâm cả về học thuật lẫn các nhà tạo
lập chính sách trong thời gian gần đây, bởi ảnh hưởng của hệ thống ngân hàng trong giai
đoạn khủng hoảng kinh tế là vô cùng lớn. Tuy nhiên vẫn còn thiếu nhiều công trình nghiên
cứu mang tính thực tế về vấn đề này tại Việt Nam. Qua phân tích lĩnh vực ngân hàng trong
giai đoạn 2009-2011, cho thấy bản chất của vấn đề trả cổ tức, nó như là cách để các chủ sở
hữu ngân hàng nhanh chóng lấy lại phần vốn đã đầu tư khi mua cổ phần của ngân hàng trước
kia, mặc cho những rủi ro tiềm ẩn có thể tăng lên khi nguồn vốn của ngân hàng bị rút ra.
Điều này là do hậu quả của vấn đề rủi ro đạo đức gây ra khi có sự bảo trợ của chính phủ đối
với lĩnh vực ngân hàng. Hiện tượng này càng xảy ra mạnh mẽ khi các khi ngân hàng rơi vào
trạng thái suy giảm giá trị vốn hoá nghiêm trọng, hoặc khi ngân hàng được điều hành bởi
ban lãnh đạo có năng lực quản trị yếu kém. Hậu quả là các chủ sở hữu và ban điều hành ngân
hàng lựa chọn các quyết định bất lợi cho chính ngân hàng của mình thông qua nhiều cách
khác nhau, trong đó có trả cổ tức tiền mặt cho các cổ đông. Tuy nhiên, các chủ sở hữu ngân
hàng không phải chịu các rủi ro mà lẽ ra họ phải chịu, những rủi ro này được dịch chuyển
sang cho người gửi tiền và người nộp thuế do sự bảo trợ của chính phủ.
Bằng các số liệu và lập luận cùng với phân tích một số tình huống, bài viết cho thấy rằng
các ngân hàng tại Việt Nam trả cổ tức cao trong giai đoạn 2009-2011, và các ngân hàng gặp
khó khăn tài chính thường trả cổ tức cao hơn so với các ngân hàng khác. Tình trạng này càng
gây nhiều rủi ro cho toàn hệ thống ngân hàng (ngoài những nguyên nhân khác), khiến cho
trạng thái hệ thống ngân hàng Việt Nam gặp nhiều trục trặc, bất ổn. Để phát triển lành mạnh
hệ thống ngân hàng góp phần đưa nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững, bài viết đưa

ra một số khuyến nghị chính sách liên quan đến vấn đề cổ tức của các ngân hàng như: i) hạn
chế trả cổ tức với các ngân hàng gặp khó khăn tài chính, không duy trì đúng, đủ trạng thái
an toàn vốn, không trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định; ii) giảm sự bảo trợ của
chính phủ với lĩnh vực ngân hàng; iii) giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào ngân hàng
thông qua việc phát triển các thị trường tài chính khác như thị trường chứng khoán; iv) nâng
cao năng lực quản trị của đội ngũ ban điều hành ngân hàng; v) tăng cường kỷ luật giám sát
đối với hệ thống NH, không để cho các NH lách qua các kẽ hở của các quy định do cơ quan
quản lý NH đưa ra.

iv

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i

LỜI CẢM ƠN ii

TÓM TẮT iii

MỤC LỤC iv

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ vi

DANH MỤC CÁC TỪ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT vii

DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG viii

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1

1.1. Bối cảnh và vấn đề chính sách 1


1.2. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu 2

1.3. Phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

1.4. Cấu trúc luận văn 4

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH 5

2.1. Lý thuyết cổ tức 5

2.1.1. Trường phái cổ tức không liên quan 5

2.1.2. Quan điểm về cổ tức có liên quan 5

2.2. Cổ tức và vấn đề bất cân xứng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng 6

2.3. Khung phân tích 7

2.3.1. Bảo trợ chính phủ và dịch chuyển rủi ro liên quan đến cổ tức ngân hàng 7

2.3.2. Vai trò của giá trị vốn hóa và vấn đề cổ tức ngân hàng 9

2.3.3. Lựa chọn ngược và vấn đề cổ tức ngân hàng 10

CHƯƠNG 3 CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN VIỆT NAM 12

3.1. Khó khăn chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2009-2011 12

v


3.2. Tình hình chung về chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
giai đoạn 2009-2011 13

3.3. So sánh chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần với các tổ chức phi
tài chính 19

3.4. So sánh chính sách cổ tức giữa các ngân hàng gặp khó khăn tài chính với các ngân hàng
khác 25
3.5. So sánh chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam với các
ngân hàng trên thế giới 28

CHƯƠNG 4 KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH VÀ KẾT LUẬN 32

4.1. Khuyến nghị chính sách 32

4.2. Kết luận 35

TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

PHỤ LỤC 2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 40

PHỤ LỤC 3.1. DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG NHÓM 1 41

PHỤ LỤC 3.2. DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG NHÓM 2 42

PHỤ LỤC 3.3. MÔ TẢ SỐ LIỆU VÀ CÁCH TÍNH 44

PHỤ LỤC 3.4. PHÂN TÍCH MỘT SỐ TÌNH HUỐNG 45





vi

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3-1 Tỷ lệ trả cổ tức của các ngân hàng (%) 14

Biểu đồ 3-2 Lợi nhuận và cổ tức của 40 ngân hàng (VNĐ) 18

Biểu đồ 3-3 Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận của các ngân hàng (%) 19

Biểu đồ 3-4 So sánh Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận của các lĩnh vực (%) 21

Biểu đồ 3-5 So sánh Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận trung bình cộng của các lĩnh vực (%) 22

Biểu đồ 3-6 So sánh Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận bình quân trọng số của các lĩnh vực (%) 23

Biểu đồ 3-7 Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận các nhóm ngân hàng (%) 26

Biểu đồ 3-8 Trung bình cộng Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận các nhóm ngân hàng (%) 26

Biểu đồ 3-9 Tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận trung bình trọng số các nhóm ngân hàng (%) 27

Biểu đồ 3-10 Chi trả cổ tức hàng quý của các NH Mỹ (tỷ USD) 29

Biểu đồ 3-11 Tỷ lệ cổ tức hàng quý so với tổng tài sản 30
vii

DANH MỤC CÁC TỪ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BCB Bản cáo bạch
BCTC Báo cáo tài chính
BCTN Báo cáo thường niên
CAR Hệ số an toàn vốn tối thiểu
(Capital Adequacy Ratio)
CCI Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Công nghiệp - Thương mại Củ Chi
CCL Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Dầu khí Cửu Long
CSH Chủ sở hữu
CTCK Công ty Chứng khoán
DIG Tổng Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Xây dựng
DN Doanh nghiệp
DXG Công ty Cổ phần Dịch vụ và Xây dựng Địa ốc Đất Xanh
EPS Thu nhập trên mỗi cổ phần
(Earning Per Share)
FPT Công ty cổ phần FPT
HNX Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
HSX Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM
NPL Nợ xấu
(Non-Performing Loan)
NPV Giá trị hiện tại ròng
(Net Present Value)
NTL Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
PVFC Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí
TCTD Tổ chức tín dụng
VIC Công ty Cổ phần Vincom
VN Việt Nam
viii


DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG
STT Tên Viết tắt
1

NHTMCP An Bình ABB
2

NHTMCP Á Châu ACB
3

NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam AGRB
4

NHTMCP Bắc Á BAB
5

NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV
6

NHTMCP Bảo Việt BVB
7

NHTMCP Công Thương Việt Nam CTG
8

NHTMCP Đại Á DAB
9

NHTMCP Đông Á EAB

10

NHTMCP XNK Việt Nam EIB
11

NHTMCP Đệ Nhất FCB
12

NHTMCP Gia Định GDB
13

NHTMCP Dầu khí Toàn cầu GPB
14

NHTMCP Nhà Hà Nội HBB
15

NHTMCP Phát triển Nhà TPHCM HDB
16

NHTMCP Kiên Long KLB
17

NHTMCP Bưu điện Liên Việt LPB
18

NHTMCP Quân Đội MBB
19

NHTMCP Phát triển Mê Kông MDB

20

NHTMCP Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long MHB
21

NHTMCP Hàng Hải Việt Nam MSB
22

NHTMCP Nam Á NAB
23

NHTMCP Nam Việt NVB
24

NHTMCP Phương Đông OCB
25

NHTMCP Đại Dương OJB
26

NHTMCP Xăng Dầu Petrolimex PGB
ix

STT Tên Viết tắt
27

NHTMCP Phương Nam PNB
28

NHTMCP Sài Gòn SCB

29

NHTMCP Đông Nam Á SEAB
30

NHTMCP Sài Gòn Công thương SGB
31

NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội SHB
32

NHTMCP Sài Gòn Thương Tín STB
33

NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam TCB
34

NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa TNB
35

NHTMCP Tiên Phong TPB
36

NHTMCP Đại Tín TRB
37

NHTMCP Việt Á VAB
38

NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam VCB

39

NHTMCP Quốc Tế Việt Nam VIB
40

NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng VPB
41

NHTMCP Việt Nam Thương Tín VTB
42

NHTMCP Phương Tây WEB
1


GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh và vấn đề chính sách
Chính sách cổ tức là một trong mười vấn đề khó nhất và vẫn chưa tìm ra cách giải quyết
trong các nghiên cứu kinh tế tài chính (Brealey và Myers, 2003, trích trong Al-Kuwari,
2010). Với những đặc tính khác biệt của ngành ngân hàng (NH), vấn đề cổ tức lại càng trở
nên khó khăn hơn đối với các nhà nghiên cứu kinh tế tài chính và các cơ quan điều hành
chính sách. Ở Việt Nam (VN), trong giai đoạn 2009-2011 chính sách cổ tức của các NH gây
ra nhiều tranh luận. Giữa lúc kinh tế khó khăn, doanh nghiệp (DN) lao đao vì lãi suất thì các
NH vẫn lãi “khủng” (Ánh Hồng – Hải Đăng, 2011) từ hoạt động cho vay, đồng thời dành tỷ
lệ lớn trong lợi nhuận để trả cổ tức cao cho cổ đông (Nguyễn Quang, 2011).
Tình trạng trả cổ tức cao của các NH diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới nói chung
và Việt Nam (VN) nói riêng gặp rất nhiều khó khăn do chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm mạnh
từ 8,46% năm 2007 xuống còn 5,89% năm 2011, trong khi lạm phát tăng cao từ 8,30% năm
2007 lên 18,68% năm 2011 (The World Bank, 2013). Đối mặt với những bất ổn kinh tế vĩ

mô, nhất là vấn đề lạm phát, chính phủ đã thực hiện hàng loạt các biện pháp thắt chặt kinh
tế. Các chính sách này đã gây ra tình trạng ách tắc tín dụng và gây nhiều khó khăn cho cả
NH và DN. Lãi suất tăng cao khiến các DN không thể huy động được vốn, tình trạng thiếu
vốn hoạt động trở nên căng thẳng, các DN hoạt động cầm chừng, hàng nghìn DN không thể
tiếp tục hoạt động và buộc phải phá sản (Nguyễn Thị Hoài Lê, 2013).
Hệ thống NH – huyết mạch của nền kinh tế có nhiều trục trặc. Tình trạng thanh khoản
hết sức căng thẳng, lãi suất liên NH bị đẩy lên rất cao (có thời điểm lên đến gần 40%/năm
kỳ hạn một tháng) (Nhuệ Mẫn, 2011). Đặc biệt hơn là vấn đề nợ xấu ngày càng gia tăng,
một số NH mất khả năng thanh toán và buộc phải sáp nhập để tránh rủi ro đổ vỡ cho toàn hệ
thống. Tái cơ cấu hệ thống NH trở thành vấn đề cấp thiết của chính phủ với mục tiêu xây
dựng hệ thống NH hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển vững chắc.
Chính phủ phải sử dụng các gói cứu trợ và các chính sách ưu đãi để hỗ trợ cho các NH
hoạt động ổn định. Chính phủ không để cho NH nào phá sản vì e ngại ảnh hưởng lan truyền
của hệ thống ngân hàng – sẽ gây hoang mang trong dân chúng, làm mất lòng tin vào chính
phủ. Quan điểm này được thể hiện rõ trong đề án tái cơ cấu hệ thống NH của chính phủ. Đề
2

án đưa ra những chính sách cho vay hỗ trợ thanh khoản đối với hệ thống NH thương mại
ngoài nhà nước, hoặc bổ sung vốn cho các NH thương mại nhà nước (Thủ tướng Chính phủ,
2012) Những biện pháp này đã lấy đi phần ngân sách rất lớn của chính phủ. Vấn đề quan
trọng hơn nữa là hiệu quả của các gói cứu trợ lại không được đề cập rõ ràng.
Thực tế cho thấy, một mặt các NH luôn nói rằng họ gặp rất nhiều khó khăn và cần hỗ trợ
của nhà nước, mặt khác những con số lợi nhuận lớn và tỷ lệ trả cổ tức cao được công bố ở hầu
hết các NH. Điển hình là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội (HBB) đã dành tới
178% lợi nhuận thu được để trả cổ tức cho cổ đông trong năm 2011 (HBB, 2011), con số này
ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Tây (WEB) là 124% (WEB, 2011), và đến nay
HBB đã buộc phải sáp nhập, còn WEB cũng thuộc diện phải hợp nhất, sáp nhập. Theo như
các con số đã công bố thì công chúng sẽ đánh giá các NH đã vượt lên trên mọi khó khăn chung
của nền kinh tế, không giống với với các lĩnh vực khác ở đó các DN đang đối mặt với muôn
vàn khó khăn và nguy cơ phá sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hai lĩnh vực có trạng thái hoạt

động kinh doanh hoàn toàn trái ngược. Nhưng thực tế không chắc như các các NH đã công bố,
mà rất có thể tồn tại tình trạng “lãi giả lỗ thật” tại các NH. Họ có thể dùng các kỹ thuật về tài
chính kế toán để biến các con số trên báo cáo trở nên đẹp hơn. Từ đó họ lấy tiền cứu trợ của
chính phủ (hay đúng hơn là của những người nộp thuế) cả dưới dạng ngầm ẩn hay hiện hữu,
và của người gửi tiền để trả cho các cổ đông thông qua hình thức cổ tức tiền mặt. Hành động
này sẽ làm hao mòn nguồn vốn của NH, gây ra rủi ro cho hoạt động của NH và rủi ro này lại
được chuyển cho người gửi tiền và cơ quan bảo hiểm tiền gửi (bản chất cuối cùng cũng là
người nộp thuế). Vì vậy đây là vấn đề mà các nhà kinh tế cũng như người làm chính sách cần
phải quan tâm tìm hiểu. Từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm góp phần đưa hệ thống
NH nói riêng và nền kinh tế nói chung phát triển một cách ổn định và bền vững.
1.2. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu
Đứng trước bối cảnh diễn biến phức tạp của nền kinh tế cùng với thực trạng khác thường
của chính sách cổ tức tại các NH đã nêu trên, mục tiêu của luận văn là phân tích và đánh giá
thực trạng trả cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) ở VN từ năm 2009
đến năm 2011, thời kỳ kinh tế VN gặp nhiều bất ổn vĩ mô, từ đó đưa ra các gợi ý chính sách
về vai trò của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc trả cổ tức của các NHTMCP thuộc diện
phải tái cấu trúc vì yếu kém tài chính. Do vậy những câu hỏi chính sách mà luận văn muốn
làm rõ cụ thể là:
3

i) Chính sách trả cổ tức của các NHTMCP VN trong giai đoạn 2009-2011 là như thế nào?
ii) Có phải các NH gặp khó khăn tài chính trả cổ tức cao hơn các NH khác hay không?
iii) Chính phủ có cần quy định về việc trả cổ tức của các NH trong thời kỳ khó khăn tài chính
hay không?
1.3. Phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài viết không nhằm mục đích tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của
các NH, mà chỉ nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu như đã nêu trên, do vậy bài viết không
sử dụng các mô hình kinh tế lượng mà sử dụng phương pháp phân tích định tính. Dựa trên
các lý thuyết cơ sở, bài viết đưa ra các lập luận kết hợp với số liệu thống kê, phân tích và so
sánh về chính sách cổ tức của các NH trong thời kỳ khó khăn tài chính so với chính sách cổ

tức của các NH khác, đồng thời so sánh chính sách cổ tức giữa lĩnh vực NH và các lĩnh vực
khác cũng như so sánh với kinh nghiệm quốc tế để thấy được thực trạng chính sách cổ tức
trong lĩnh vực NH của VN. Bài viết cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống, phân
tích chính sách cổ tức của một số NH tiêu biểu trong thời kỳ khó khăn tài chính, qua đó làm
rõ hơn bản chất của vấn đề cổ tức tại các NH này.
Bài viết chú trọng vào các NH gặp khó khăn tài chính, do đó khoảng thời gian từ 2009-
2011 sẽ là phù hợp với mục đích của bài viết. Đây là thời kỳ các NH đang chịu ảnh hưởng
nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế, các trục trặc của hệ thống NH xuất hiện nhiều trong giai
đoạn này. Số liệu về cổ tức của các NHTMCP tại VN trong giai đoạn 2009-2011 (40 NH),
được tác giả thu thập từ các báo cáo tài chính (BCTC), báo cáo thường niên (BCTN), bản cáo
bạch (BCB)…. Phân tích chính sách cổ tức của các NH đặc biệt là nhóm các NH gặp khó khăn
tài chính trong giai đoạn 2009-2011 sẽ giúp làm rõ các câu hỏi nghiên cứu trên đây.
Theo Luật DN 2005, cổ tức là khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền
mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại của công ty sau khi đã thực hiện nghĩa
vụ về tài chính. Tuy nhiên bài viết này cũng giới hạn trong phạm vi cổ tức được trả dưới
dạng tiền mặt, với các trường hợp cổ tức bằng tài sản khác nếu được đề cập trong bài viết
thì tác giả sẽ nói cụ thể cổ tức được trả theo phương thức nào. Ngoài ra, để đảm bảo đúng ý
nghĩa cổ tức mà Luật DN 2005 đã đưa ra, khi tác giả nói chính sách trả cổ tức cao hay thấp
là tác giả muốn đề cập đến tỷ lệ giữa số tiền dành cho trả cổ tức của năm nay so với khoản
lợi nhuận sau thuế năm đó của các tổ chức.
4

1.4. Cấu trúc luận văn
Bài viết được chia làm các phần chính như sau: Ở chương 2, tác giả nói về các lý thuyết
cơ bản về vấn đề cổ tức, gồm các quan điểm khác nhau về cổ tức của DN nói chung và một
số quan điểm cụ thể về vấn đề cổ tức của NH. Cũng trong chương 2, tác giả tổng hợp các
quan điểm của một số nhà kinh tế đã chứng minh về những trục trặc của chính sách cổ tức
NH, những quan điểm này sẽ được dùng làm khung phân tích cho phần tiếp theo. Chương
3, tác giả điểm lại tình hình chung về lĩnh vực NH và chính sách cổ tức của các NHTMCP
tại VN. Sau đó tác giả sử dụng các số liệu đã thu thập được để so sánh, phân tích và chứng

minh các quan điểm đã nêu trong phần khung lý thuyết. Cuối cùng (chương 4) tác giả đề
xuất một số khuyến nghị chính sách được rút ra từ phần phân tích ở chương 3 và rút ra kết
luận cho toàn bộ bài viết.

5


CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH
2.1. Lý thuyết cổ tức
Trải qua quá trình nghiên cứu và tranh luận nhiều thập kỷ, cổ tức vẫn là vấn đề phức tạp
của lý thuyết tài chính. Tồn tại hai trường phái lý thuyết chính đối lập nhau về vấn đề cổ tức.
Hai trường phái này gồm: lý thuyết cổ tức liên quan và lý thuyết cổ tức không liên quan. Ý
nghĩa của nó là chính sách cổ tức của công ty có ảnh hưởng hay không ảnh hưởng đến giá
cổ phiếu, và do đó ảnh hưởng đến giá trị của công ty. Một công ty phải quyết định phân phối
khoản lợi nhuận của mình dưới dạng cổ tức, hay tái đầu tư vào các dự án trong tương lai mà
nó mang lại giá trị hiện tại ròng (NPV) dương. Quyết định này chịu tác động của nhiều yếu
tố, và nó ảnh hưởng ra sao đến giá trị của công ty là vấn đề vẫn còn nằm trong vòng tranh
luận của giới học thuật về kinh tế tài chính, mỗi trường phái đều đưa ra những bằng chứng
mạnh mẽ để chứng minh cho các quan điểm của mình.
2.1.1. Trường phái cổ tức không liên quan
Lý thuyết cổ tức không liên quan dựa trên công trình nghiên cứu của Modigliani và
Miller (1961), sau đó được Black (1976) củng cố thêm rằng giá trị của công ty không bị ảnh
hưởng bởi chính sách cổ tức và do vậy nó không liên quan đến việc xác định giá trị cổ phần
thường. Tuy nhiên, lý thuyết này được phát triển trong điều kiện giả định thị trường hoàn
hảo. Những giả định cơ bản trong lý thuyết này là: trong thị trường vốn hoàn hảo không có
người mua, người bán hay nhà phát hành chứng khoán nào đủ lớn để có thể ảnh hưởng đáng
kể lên quy luật giá cả; thông tin về giá là sẵn sàng cho tất cả mọi người và không có chi phí;
không có thuế chuyển đổi; không có sự khác biệt giữa thuế trên cổ tức và thuế trên lợi vốn;
hành vi nhà đầu tư là duy lý;…
Tuy nhiên, thực tế lại không thể có được điều kiện thị trường như vậy. Do đó trường phái

thứ hai, dựa trên công trình nghiên cứu của Lintner (1956) về quan điểm cổ tức có liên quan
cũng đưa ra những bằng chứng để bảo vệ quan điểm của mình.
2.1.2. Quan điểm về cổ tức có liên quan
Lintner (1956) cho rằng chính sách cổ tức có liên quan đến giá trị của công ty dưới điều
kiện thị trường thực tế, do đó công ty phải lựa chọn một chính sách cổ tức phù hợp với chính
mình trong từng giai đoạn hoạt động. Và các công ty thường cố gắng duy trì một chính sách
6

cổ tức ổn định. Bởi vì một chính sách cổ tức là vô cùng quan trọng với các cổ đông do các
nguyên nhân sau: sự không chắc chắn vào cổ tức tương lai; sự hàm chứa thông tin của cổ
tức; vấn đề người ủy quyền và hiệu ứng khách hàng… Thực tế cũng cho thấy, hầu hết các
DN đều trả cổ tức. Hơn thế, các nhà quản lý DN còn thiết lập một tỷ lệ chi trả cổ tức mục
tiêu, và tồn tại một mối quan hệ thống nhất giữa đo lường rủi ro hoạt động và chính sách cổ
tức DN (Bar-Yosef và Huffman, 1986).
Cũng chính vì sự phức tạp của vấn đề cổ tức mà nhiều nhóm khác nhau có lợi ích với
một công ty có thể lợi dụng chính sách cổ tức để mang lại lợi ích lớn nhất cho mình, đồng
thời có thể gây thiệt hại cho các nhóm khác. Để thực hiện được điều này các chủ thể dựa vào
sự bất cân xứng thông tin tồn tại giữa các chủ thể.
2.2. Cổ tức và vấn đề bất cân xứng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng
Bất cân xứng thông tin (xem thêm trong Phụ lục 2.1) giữa người đi vay và chủ nợ thường
được dùng để giải thích sự tồn tại của hệ thống NH. Bởi vì trong một thị trường tín dụng thì
người có vốn dư thừa và người cần vốn không dễ dàng gặp nhau và cũng có ít thông tin về
nhau, do đó NH tồn tại để kết nối giữa hai chủ thể trên và giảm thiểu sự bất cân xứng thông
tin giữa hai chủ thể đó. Trong lĩnh vực NH, bất cân xứng thông tin tồn tại không chỉ giữa
người đi vay và chủ nợ, mà còn giữa người quản lý NH với các cổ đông, giữa NH với người
gửi tiền, cũng như giữa người quản lý NH với các cơ quan điều tiết NH. Hệ quả là các CSH
NH sẽ lợi dụng tình trạng bất cân xứng thông tin này để lấy đi khoản hỗ trợ từ chính phủ và
khoản tiền gửi của người gửi tiền để mang lại lợi ích riêng cho mình trong đó có hình thức
trả cổ tức. Hành động này mang lại lợi ích cho CSH NH đồng thời tạo ra rủi ro cho các chủ
thể khác.

Bất cân xứng thông tin làm phát sinh vấn đề “bao hàm thông tin của cổ tức” hay chức
năng phát tín hiệu của cổ tức. Với mỗi công bố về cổ tức, các chủ thể liên quan đều dựa vào
đó để phỏng đoán về hoạt động của DN. Thực tế cho thấy rằng công bố hàng quý với sự ổn
định hay tăng trưởng của cổ tức có thể được tận dụng hữu hiệu bởi các NH, nó như là một
cách để NH cung cấp những thông tin tích cực về khả năng thanh khoản của NH với các nhà
đầu tư, các khách hàng, cũng như các cơ quan điều tiết. Do đó, chi trả cổ tức cung cấp những
thông tin đảm bảo về sự thành công hiện tại của NH, và một chính sách cổ tức ổn định trong
thời gian dài giúp củng cố niềm tin vững chắc vào người quản lý. Với mỗi chính sách cổ tức
của các NH, khách hàng sẽ đánh giá theo hai hướng khác nhau. Một mặt, khách hàng của
7

NH có thể đánh giá các thông báo cổ tức như là một tín hiệu về sự khả thi tài chính của các
NH. Mặt khác, họ cũng có thể cho rằng chi trả cổ tức là một cách để chuyển vốn của NH
cho các cổ đông, vì vậy làm tăng rủi ro tổn thất tài chính cho NH và cuối cùng là làm tăng
rủi ro cho chính khách hàng (Bessler và Nohel, 1996).
2.3. Khung phân tích
Bất cân xứng thông tin tồn tại trong lĩnh vực NH gây ra hậu quả lớn nhất trong lĩnh vực
này là vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard – xem chi tiết trong Phụ lục 2.1). Nhiều nhà kinh
tế đã chỉ ra những trục trặc xoay quanh ý nghĩa cổ tức của các NH (Ronn và Verma, 1986;
Brunnermeier và đ.t.g, 2009). Các chủ NH có thể lợi dụng sự bảo trợ của chính phủ để dịch
chuyển rủi ro từ mình cho các chủ thể liên quan thông qua chi trả cổ tức. Tâm lý “không còn
gì để mất” sẽ làm cho các NH trả cổ tức nhiều hơn khi giá trị vốn hóa của NH giảm sút. Một
hậu quả khác nữa là khi người quản lý càng yếu kém thì lại càng trả cổ tức cao hơn, vì nó sẽ
làm cho các chủ thể khác cho rằng NH đang hoạt động tốt. Từ đó nâng cao được uy tín của
họ trong mắt các chủ thể liên quan và mang lại lợi ích cho người quản lý đồng thời làm tăng
rủi ro cho các chủ thể khác (Bhattacharyya và Elston, 2011).
2.3.1. Bảo trợ chính phủ và dịch chuyển rủi ro liên quan đến cổ tức ngân hàng
Ronn và Verma (1986) nói rằng cổ tức tăng khi có sự bảo lãnh của chính phủ. Trả cổ tức
như là cách để chuyển tiền từ người gửi tiền và người nộp thuế cho người sở hữu NH. Trong
trường hợp thiếu những quy định cụ thể, thì khi gặp khó khăn NH có thể bẻ cong ý nghĩa

của cổ tức, khi khó khăn xảy ra NH lại càng có động cơ để trả cổ tức nhiều hơn từ việc lợi
dụng tiền bảo trợ của chính phủ.
Số liệu thực tế cho thấy rằng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính 2007-2009, một số NH
ở Mỹ tiếp tục trả cổ tức mặc dù theo kỳ vọng sẽ có khoản lỗ tín dụng lớn (Acharya và đ.t.g,
2011). Để ngăn chặn tình trạng này, ông đã đưa ra kiến nghị rằng cần giới hạn việc chi trả cổ
tức. Brunnermeier và đ.t.g (2009) cho rằng các quy định này phải được bao hàm trong việc
8

thiết lập “thang hình phạt” đối với các NH không tuân thủ các yêu cầu về khả năng thanh toán
và thanh khoản . Những thang đo này đã trở thành bộ khung của Basel III (BIS, 2010).
1

Các quy định bảo hiểm tiền gửi và sự bảo trợ của chính phủ nói chung, có thể làm tăng
khả năng của rủi ro đạo đức dưới hình thức của rủi ro tiềm ẩn vượt mức. Vì nó làm giảm sự
giám sát từ những người gửi tiền và các chủ nợ khác. Họ không cần phải bận tâm xem NH
hoạt động có hiệu quả hay không, mà thay vào đó chính phủ phải thực hiện công việc giám
sát. Hơn nữa, bảo hiểm tiền gửi có thể được xem như là quyền chọn bán đối với tài sản NH
(Merton, 1977), giá trị của nó tương quan đồng biến với rủi ro kinh doanh và đòn bẩy nợ.
Dưới một hệ thống tỷ lệ bảo hiểm cố định, NH có thể lợi dụng bảo hiểm tiền gửi bằng cách
tăng đòn bẩy nợ và rủi ro (Keeley, 1990). Với hình thức cho phá sản NH, các NH có thể lợi
dụng bảo hiểm tiền gửi để lấy được tài sản từ cơ quan bảo hiểm. Theo đó, giá trị của bảo
hiểm tiền gửi tương quan đồng biến với rủi ro phá sản. Cổ tức làm giảm giá trị của tài sản,
nghĩa là giảm giá trị của cả vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, nhưng lợi ích đối với CSH (vốn
CSH) được “cổ tức bảo vệ” (Ronn and Verma, 1986). Do đó, cổ tức cao hơn làm tăng rủi ro
phá sản và giá trị của bảo hiểm tiền gửi. Lý thuyết này có thể áp dụng cho bất kỳ loại bảo
trợ nào của chính phủ (ngầm ẩn hay hiện hữu). Hơn thế, NH có xu hướng bán những tài sản
an toàn của họ để phân phối cổ tức (Acharya và đ.t.g, 2011). Vì vậy mà rủi ro phá sản tăng
khi trả cổ tức tăng. NH chi trả cổ tức để chuyển rủi ro phá sản sang những người cho vay
(khi có gói cứu trợ) và sang cho người nộp thuế. Do đó cổ tức như là một cơ chế dịch chuyển
rủi ro, yếu tố làm tăng rủi ro đạo đức gây ra từ bảo trợ (ngầm ẩn hay hiện hữu) của chính

phủ. Như vậy, khi bảo trợ của chính phủ càng nhiều thì cổ tức sẽ càng tăng.
Tuy nhiên cũng tồn tại những lý thuyết và số liệu thực tế chứng minh rằng cổ tức trong
lĩnh vực NH thường cao hơn so với lĩnh vực phi tài chính, mà không phải hoàn toàn do vấn
đề bảo trợ chính phủ và dịch chuyển rủi ro (một hậu quả của rủi ro đạo đức) gây ra. Hiện
tượng này xuất phát từ chức năng phát tín hiệu của cổ tức như đã nêu ở trên. Quan điểm này
cho rằng không nên để xảy ra một thông báo cổ tức không được như mong muốn xuất hiện

1
Trong bộ khung Basel mới, các ngân hàng phải giữ cho phần vốn dự trữ đệm ở mức 2,5% ngoài phần vốn
cấp 1 là 6%. Khi phần vốn này giảm xuống dưới 2,5% thì ngân hàng bị yêu cầu không trả cổ tức (và không
thưởng cho nhân viên hay mua lại cổ phần).
9

và truyền thông tin ra thị trường. Nó sẽ tác động tiêu cực lên việc kinh doanh của NH, do đó
người quản lý NH có xu hướng tránh đưa ra những tín hiệu tiêu cực lâu nhất có thể (Bessler
và Nohel,1996). Thực tế là hầu hết các NH vẫn tiếp tục phân phối cổ tức trong suốt những
năm 1980, mặc dù họ đang mắc phải những khoản lỗ. Điều này là trái ngược với hành vi của
các công ty phi tài chính, họ thường cắt giảm cổ tức ngay khi lỗ xuất hiện và kỳ vọng lỗ sẽ
còn tiếp diễn (DeAngelo và đ.t.g, 1992). Bessler và Nohel (1996) cũng so sánh các NH và
công ty phi tài chính thì thấy rằng: lĩnh vực ngân hàng có phản ứng mạnh hơn với việc cắt
giảm cổ tức, vì việc giảm cổ tức của các NH này thường có xu hướng mạnh hơn nhiều. So
sánh sự giảm giá tương đối hai lĩnh vực thì thấy rằng: với các công ty lĩnh vực công nghiệp,
giá cổ phiếu giảm trung bình 3,5% khi lợi suất cổ tức giảm 1%. Ngược lại, cổ phiếu NH
giảm trung bình 15,87% khi lợi suất cổ tức giảm 1%. Do đó các ngân hàng nói chung rất hạn
chế việc cắt giảm cổ tức, và thậm chí luôn cố gắng duy trì một tỷ lệ tăng dần trong chi trả cổ
tức cho dù hoạt động kinh doanh được dự đoán sẽ gặp nhiều khó khăn trong tương lai.
2.3.2. Vai trò của giá trị vốn hóa và vấn đề cổ tức ngân hàng
Giá trị vốn hóa được hiểu là giá trị hiện tại kỳ vọng của dòng lợi ích trong tương lai. Với
việc giá trị vốn hóa có khả năng định giá được như tài sản, nó sẽ làm giảm động cơ tăng rủi
ro phá sản của các NH, bởi vì CSH NH không thể bán giá trị vốn hóa khi NH tuyên bố mất

khả năng thanh toán. Điều này khác với trường hợp NH mất khả năng thanh toán trên sổ
sách. Bởi ở trạng thái này NH vẫn có giá trị, và cơ quan bảo hiểm tiền gửi có thể bán cho
người mua và nhận nợ thay. Khi đó NH cũng sẽ sẵn sàng trả vượt mức cho bảo hiểm tiền
gửi để giành được và duy trì giá trị vốn hóa (Keeley, 1990).
Việc sở hữu giá trị vốn hóa sẽ gây khó khăn cho các NH trong việc chuyển lỗ cho cơ
quan bảo hiểm tiền gửi. Khoản lỗ tiềm năng của NH về bản chất sẽ tạo ra chi phí của việc
phá sản dưới cái nhìn của CSH NH, vì cơ quan điều tiết chỉ tập trung vào giá trị sổ sách khi
xác định khả năng thanh toán của NH chứ không phải giá trị thị trường. Do đó, lợi ích thu
được từ việc tăng rủi ro tiềm ẩn sẽ bị đánh đổi bởi sự giảm giá trị kỳ vọng vào giá trị vốn
hóa. Kết quả là, NH sẽ không có động cơ về mức chênh lệch thu được để tăng rủi ro phá sản
(thông qua giảm vốn tương đối so với tổng tài sản và/hoặc tăng tài sản rủi ro). Lợi ích thu
được tiềm năng từ việc khai thác sự cứu trợ có thể nhỏ hơn so với mất mát của giá trị vốn
hóa. Do đó động cơ để khai thác sự bảo lãnh của chính phủ (thông qua giá trị bảo hiểm tiền
gửi) có thể trở nên không đáng kể (Hellmann và đ.t.g, 2000).
10

Vì vậy khi giá trị vốn hóa cao, các NH có động cơ không tăng rủi ro thanh toán bởi vì
nó sẽ ngăn các CSH NH bán đi giá trị vốn hóa (nghĩa là là mất giá trị vốn hóa). Khi giá trị
vốn hóa thấp, động cơ “đánh cược” và khai thác sự bảo trợ chính phủ tăng (Keeley, 1990).
Vấn đề rủi ro đạo đức trở nên đặc biệt sâu sắc khi của cải ròng của một NH tụt xuống thấp
hoặc có giá trị vốn hóa âm (Beim và Calomiris, 2000). Các NH với giá trị vốn hóa cao sẽ ít
khi thực hiện việc dịch chuyển rủi ro thông qua chi trả cổ tức. Kết quả là các NH có giá trị
vốn hóa cao thường trả cổ tức thấp hơn các NH có giá trị vốn hóa thấp.
Ngoài ra, một sự cắt giảm cổ tức truyền đạt thông tin tiêu cực ra thị trường về điều kiện
tài chính của NH. Nó đưa ra giả thuyết rằng một sự giảm lớn về cổ tức sẽ dẫn đến kết quả là
ảnh hưởng giá trị tiêu cực lớn hơn. Người ta cũng thấy rằng sự phản ứng tiêu cực lớn hơn
cho các NH thiếu vốn, hoặc giá trị vốn hóa thấp bởi vì nhóm này có rủi ro phá sản cao hơn
so với các NH đủ vốn hoặc giá trị vốn hóa cao (Bessler và Nohel, 1996). Điều này càng cho
thấy các NH có giá trị vốn hóa thấp sẽ trả cổ tức cao hơn đồng thời càng hạn chế cắt giảm
cổ tức dù hoạt động kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro trong tương lai.

2.3.3. Lựa chọn ngược và vấn đề cổ tức ngân hàng
Bất cân xứng thông tin giữa cổ đông và người quản lý cụ thể hơn là vấn đề người ủy
quyền (cổ đông) – người thừa hành (người quản lý) dẫn đến vấn đề rủi ro đạo đức. Người
quản lý vì lợi ích riêng của mình sẽ đưa ra những quyết định bất lợi (lựa chọn ngược) cho
công ty thông qua nhiều yếu tố trong đó có vấn đề cổ tức.
Bhattacharyya và Elston (2011) sử dụng mô hình người ủy quyền – người thừa hành để
giải thích vấn đề cổ tức, ông cho rằng cổ tức có vai trò như là một công cụ kiểm soát. Jensen,
Murphy và Kevin (1990) cho rằng xung đột giữa cổ đông của công ty đại chúng và người
điều hành là ví dụ kinh điển của vấn đề người ủy quyền – người thừa hành. Nếu cổ đông có
đầy đủ thông tin về hành vi người điều hành và các cơ hội đầu tư của DN, họ sẽ thiết kế một
hợp đồng chi tiết buộc người quản lý phải thực hiện nhằm mang lại hiệu quả cho công ty.
Tuy nhiên, hành động của người quản lý và các cơ hội đầu tư lại không được quan sát bởi
các cổ đông một cách hoàn hảo. Thực tế là cổ đông không biết người điều hành có thể làm
gì hoặc những hành động nào sẽ làm tăng sự giàu có cho các cổ đông. Trong khi đó, người
quản lý lại là người hiểu rõ mọi thông tin về nội tình của công ty. Họ cũng có khả năng dự
đoán được một số (không phải tất cả) những triển vọng hay bất lợi trong hoạt động kinh
doanh của công ty trong tương lai. Ở mô hình phát tín hiệu (Bhattacharyya và Elston, 2011)
11

cho rằng người quản lý không hành động với tư cách là người chủ kinh doanh hay muốn tối
đa hoá sự giàu có cho các cổ đông, mà đơn giản là muốn tối đa hóa lợi ích của riêng anh ta.
Người ủy quyền hiểu được điều này nên sẽ thiết lập một hợp đồng để sử dụng kỹ năng của
người quản lý nhằm giúp cho công ty hoạt động hiệu quả. Mô hình này xem xét đồng thời
cả rủi ro đạo đức (do nỗ lực hành động của người thừa hành là khó quan sát) và thông tin
ẩn (do mức độ kỹ năng của người thừa hành không được biết rõ bởi người ủy quyền). Trong
trường hợp này, lý thuyết người thừa hành cho rằng chính sách lương sẽ được thiết kế sao
cho người quản lý có động cơ lựa chọn và thực hiện hành động để tăng sự giàu có của cổ
đông. Ngoài lương thì chính sách cổ tức như thành phần của của một hợp đồng lập ra bởi
người ủy quyền thiếu thông tin. Với mỗi mức độ sẵn có của dòng tiền, các cổ đông muốn nó
được phân chia giữa cổ tức và các cơ hội đầu tư trong trong tương lai. Các cổ đông cho rằng

người quản lý tốt sẽ dành lợi nhuận tạo ra cho đầu tư nhiều hơn so với người quản lý kém.
Thông thường, người quản lý tốt thường nhận ra các cơ hội đầu tư tốt nhất trước tiên, họ bị
thúc đẩy vào việc phân bổ lợi nhuận giữ lại cho các dự án đầu tư mang lại NPV dương. Nó
làm cho nguồn tiền sẵn có dành cho trả cổ tức sẽ ít đi nên tỷ lệ chi trả cổ tức của người quản
lý tốt công bố sẽ thấp hơn. Ngược lại, người quản lý kém sẽ khó khăn trong việc nhận ra các
cơ hội đầu tư tốt, nên sẽ dành nguồn tiền sẵn có để trả cổ tức nhiều hơn. Một người quản lý
kém sẽ dành trọng số lớn hơn cho cổ tức và công bố cổ tức cao hơn và ngược lại. Như vậy,
cổ tức – dựa trên mức sẵn sàng tiền mặt – mang một quan hệ ngược chiều với chất lượng
quản lý. Kết quả là, người quản lý với hiệu quả cao công bố mức độ cổ tức thấp hơn so với
người quản lý có hiệu quả thấp.
Người quản lý kém muốn làm hài lòng các cổ đông bằng cách chia cổ tức. Họ sử dụng
cổ tức như chức năng để phát tín hiệu đến các cổ đông rằng công ty đang hoạt động tốt, từ
đó nâng cao uy tín về khả năng của họ trong mắt các cổ đông, đồng nghĩa với việc thu nhập
của họ cũng tăng lên. Hệ quả do hành động này gây ra là dòng ngân lưu của công ty sụt
giảm, rủi ro hoạt động tăng. Và rủi ro này được chuyển cho các cổ đông.

12


CHÍNH SÁCH CỔ TỨC CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
3.1. Khó khăn chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2009-2011
Số liệu trong bài viết được tác giả thu thập và tổng hợp từ các BCTC, BCTN, BCB…
của 40 NHTMCP tại VN trong giai đoạn 2009-2011. Sau thời kỳ bùng nổ về số lượng NH
và tăng nhanh về quy mô vốn điều lệ của các NH, đây là giai đoạn hệ thống NH dần bộc lộ
những trục trặc do quá trình hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn bởi cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới gián tiếp gây ra. Đã có NH công bố khoản lỗ rất lớn, một số NH rơi vào hoàn
cảnh vô cùng khó khăn về tài chính (NHTMCP Tiên Phong - TPB lỗ 347,4 tỷ năm 2011)
(TPB, 2011); Tỷ lệ nợ xấu NHTMCP Sài Gòn năm 2010 là 11,4% so với mức trung bình
ngành NH năm 2010 là 2,5% (CTCK Vietcombank, 2011). Những con số nợ xấu được công

bố từ các kênh chính thức lẫn phi chính thức cho thấy tỷ lệ này tăng lên hàng năm và hệ
thống NH VN có nguy cơ rơi vào khủng hoảng. Theo các con số mà NHNN công bố, con số
nợ xấu của VN đã tăng từ 2,2% năm 2009, qua 2010 là 2,5% đến 2011 là 3,3% và tăng nhanh
lên đến 8,8% năm 2012 (CTCK Phương Nam, 2013). Theo tổ chức đánh giá và xếp hạng tín
nhiệm quốc tế Fitch, con số nợ xấu của Việt Nam có thể cao gấp 4 lần con số 3,3% mà
NHNN công bố khi tính theo chuẩn kế toán quốc tế. Theo ước tính nợ xấu NH vượt trên 10
tỷ USD, chiếm gần 10% GDP của VN năm đó. Ngoài ra, nhiều TCTD thực chất đã bị âm
vốn (CAR âm), tức là đã mất khả năng thanh toán nhưng vẫn tạo vỏ bọc bên ngoài là chỉ bị
khó khăn về thanh khoản (CTCK Vietcombank, 2012). Các con số cho thấy mức báo động
đối với nền kinh tế VN, do đó xử lý nợ xấu trở thành một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản
thân các TCTD mà còn cả toàn hệ thống NH và nền kinh tế. Nợ xấu lớn làm ách tắc dòng
chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các TCTD mà còn cả
các DN. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các TCTD không có điều kiện mở rộng tăng trưởng
tín dụng, khiến hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn. Xử lý được nợ xấu sẽ góp
phần hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và góp phần tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững. Trong bối cảnh đó,
Chính phủ ban hành để án tái cơ cấu hệ thống NH như một biện pháp để giải cứu hệ thống
NH. Theo đề án này một số NH buộc phải hợp nhất, sáp nhập. Mặc dù trong đề án không
đưa ra danh sách cụ thể các NH gặp khó khăn tài chính phải thực hiện tái cơ cấu, nhưng trên
13

các trang báo hay diễn đàn chuyên ngành thì rất nhiều thông tin được đưa ra cho thấy: Trong
số 40 NHTMCP mà bài viết tìm hiểu,
2
thì có 09 NH gặp khó khăn tài chính phải thực hiện
tái cơ cấu (Thuỳ Duyên, 2013). Bài viết cũng sẽ phân tích số liệu theo hai nhóm NH, nhóm
1 là nhóm gặp khó khăn tài chính (Phụ lục 3.1) (NHNN, 2013) và nhóm 2 là nhóm còn lại
(Phụ lục 3.2). Mô tả số liệu và cách tính (tại Phụ lục 3.3).
3.2. Tình hình chung về chính sách cổ tức của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam giai đoạn 2009-2011

Trong những năm 2009-2011, hầu hết các NH của VN đều có lợi nhuận cao, thậm chí là
“lãi khủng” như một số trang báo đã đưa. Điều này cũng được thể hiện trong các BCTC mà
các NH đã công bố. Với lợi nhuận này thì các NH có đủ điều kiện để thực hiện trả cổ tức với
tỷ lệ cao (Biểu đồ 3.1). Nhìn vào biểu đồ ta thấy, hầu hết các NH trả cổ tức với tỷ lệ tăng
dần theo các năm 2009-2011. Điển hình như HBB, tỷ lệ cổ tức/lợi nhuận năm 2009 là 68%,
qua năm 2010 giảm xuống 37%, đến năm 2011 thì tăng mạnh lên đến 178% (số tiền dành để
trả cổ tức còn lớn hơn lợi nhuận tạo ra trong năm). Tương tự ở TPB, năm 2009 NH này trả
cổ tức ở mức xấp xỉ 0%, đến năm 2010 là 62%, nhưng qua năm 2011 mặc dù hoạt động kinh
doanh lỗ hơn 347 tỷ nhưng NH này lại dành tới gần 150 tỷ đồng để trả cổ tức… Tính chung
cho toàn ngành ta cũng thấy con số mang ý nghĩa tương tự, năm 2009 các NH trả cổ tức ở
mức 33%, qua năm 2010 tăng lên 35% và đến năm 2011 thì tăng mạnh lên 41%.

2
Trong toàn bộ hệ thống 42 NH thì có 40 NH thương mại cổ phần 02 NH (BIDV và AGRB) chưa cổ phần
hóa tính đến năm 2011, do đó không nằm trong phạm vi nghiên cứu của bài viết.
14

Biểu đồ 3-1 Tỷ lệ trả cổ tức của các ngân hàng (%)

Nguồn: Tác giả tổng hợp và tính toán từ các BCTC, BCTN… của các NH.

0,0
20,0
40,0
60,0
80,0
100,0
120,0
140,0
160,0

180,0
200,0
2009 2010 2011
15

Để thấy được nguyên nhân của tình trạng này cần nắm rõ hơn quá trình hoạt động của
hệ thống NH trong bối cảnh kinh tế chung của giai đoạn này. Do khủng hoảng kinh tế năm
2008, đầu năm 2009 chính phủ thực hiện gói kích thích kinh tế (ưu đãi lãi suất 4%) nhằm
vực dậy nền kinh tế. Lúc này hệ thống NH đóng vai trò là trung gian để đưa vốn đến các
DN. Tuy nhiên, đã có hiện tượng đảo nợ hoặc cho vay ưu đãi theo hình thức tín dụng thân
hữu, tín dụng chỉ định, luồng vốn chạy vào các nhóm lợi ích. Thậm chí một số giả thiết cho
rằng có thể dòng tín dụng đã chảy vào kênh chứng khoán, bởi năm 2009 chỉ số chứng khoán
VNIndex tăng từ mức 312 điểm lên 494 điểm vào cuối năm, tương đương tăng 58%. Mục
tiêu chính sách không đạt được. Nhưng chính sách này giúp NH thu được những khoản lợi
nhuận lớn từ khoản hoàn nhập dự phòng đầu tư tài chính và cả lợi nhuận từ những thương
vụ đầu tư tài chính mới phát sinh. Ngoài ra, tăng trưởng tín dụng trong năm 2009 đạt gần
38% (CTCK Phương Nam, 2013) nên với vai trò trung gian của mình, hệ thống NH cũng
thu được những khoản lợi lớn. Điều này được thể hiện ở chỗ các DN thì gặp vô vàn khó
khăn trong việc tiếp cận vốn, và để tiếp cận được vốn NH thì các DN cũng phải bỏ ra nhiều
“chi phí ngầm”. Phần lớn DN không tiếp cận được vốn phải hoạt động cầm chừng, kinh
doanh thua lỗ nhưng các NH lại công bố những khoản lợi nhuận rất lớn. Hơn nữa, trong khi
trên thế giới có rất nhiều NH đã phá sản thì toàn bộ NHTMCP ở VN đều có lãi (trừ TPB -
2011). Điều này là nghịch lý bởi khả năng quản trị của các NH ở Việt Nam khó có thể so
sánh được với các nước trên thế giới, khi cùng tồn tại trong khó khăn chung của nền kinh tế
thế giới. Như vậy lợi nhuận của NH năm 2009 tăng so với năm 2008 là do đầu tư tài chính
và vai trò trung gian của hệ thống NH chứ không phải xuất phát từ việc kinh doanh hiệu quả
hơn. Một phần nguyên nhân là do NH lợi dụng kẽ hỡ của các chính sách, khi chính sách kích
cầu không được quản lý chặt chẽ. Nó đã làm cho thực trạng kinh tế không tốt hơn, mà nguồn
lợi này chỉ rơi vào tay một số người, đặc biệt là các cổ đông lớn và các cổ đông kiêm vai trò
điều hành hoạt động của NH (cổ đông nội bộ). Từ lợi nhuận NH có được họ lại tìm cách thu

về một phần đầu tư ban đầu vào NH bằng cách chi trả cổ tức tiền mặt với tỷ lệ cao, mặc dù
hiệu quả hoạt động kinh doanh về bản chất là không tốt hơn.
Qua năm 2010, diễn biến trên thị trường NH cũng tương tự như năm 2009. Tỷ lệ lãi suất
cơ bản do NH công bố ổn định đầu năm là 8%/năm (3 quý đầu năm) và tăng lên 9%/năm ở
quý IV (NHNN, 2011, trích trong Phạm Văn Hà, 2011). Tuy nhiên, lãi suất thị trường trên
thực tế thì biến động linh hoạt hơn. Tăng đều trong 3 quý đầu năm và tăng mạnh ở quý IV.
Biến động này là do áp lực của tỷ lệ lạm phát tăng dần trong năm và đặc biệt là vào Quý IV.
16

Trong bối cảnh lãi suất huy động và cho vay tăng mạnh, lãi suất chính sách (lãi suất cơ bản,
lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn) lại được giữ ổn định, tuy có điều chỉnh vào cuối
năm, nhưng vẫn không theo kịp diễn biến của thị trường. Nó gây ra tình trạng các NH tìm
mọi cách để nhận được các khoản vay hỗ trợ của Chính phủ để cho vay ngoài thị trường
hưởng chênh lệch, giúp cho NH đạt được lợi nhuận lớn. Mặc dù NHNN đã ban hành quy
định áp trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay, việc này có gây một số khó khăn cho các
NH và phát sinh thêm chi phí. Nhưng bằng nhiều cách khác nhau, các NH vẫn lách được các
quy định của NHNN về trần lãi suất. Nền kinh tế chứng kiến cuộc chạy đua lãi suất của các
tổ chức tín dụng, điều này cho thấy một số NH đang thiếu vốn hoạt động và căng thẳng về
khả năng thanh toán. Như vậy tính khả thi của chính sách do NHNN đưa ra là không cao.
Tăng trưởng tín dụng cả năm vẫn ở mức cao lên tới 29% (CTCK Phương Nam, 2013) gây
áp lực lên lạm phát. Lợi nhuận của các NH tạo ra rất lớn, từ đó các NH vẫn thực hiện trả cổ
tức với tỷ lệ rất cao (35% của năm 2010 so với 33% của năm 2009 – đã nêu ở trên). Đặc
biệt, đây cũng là năm mà các ngân hàng buộc phải tăng vốn điều lệ lên đủ 3.000 tỷ đồng
theo quy định (Chính phủ, 2006), tuy nhiên đến cuối năm vẫn còn một số TCTD chưa đạt so
với quy định và xin gia hạn. Nhưng không vì giữ vốn lại để tăng vốn điều lệ theo đúng quy
định, các NH vẫn thực hiện trả cổ tức cao như NHTMCP Phương Tây vốn điều lệ năm 2010
là 2.000 tỷ đồng nhưng vẫn dành tới 78% lợi nhuận tạo ra để trả cổ tức. Tương tự ở NHTMCP
Nam Việt, vốn điều lệ hơn 1.800 tỷ nhưng tỷ lệ cổ tức cũng là 78%. Con số khó tin hơn là ở
NHTMCP Phát triển Nhà TPHCM, với vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng nhưng tỷ lệ trả cổ tức là
115%, số tiền trả cổ tức còn lớn hơn cả lợi nhuận tạo ra…

Năm 2011 là năm đầy khó khăn với toàn bộ nền kinh tế nói chung và hệ thống NH nói
riêng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút xuống còn 5,89%, tốc độ lạm phát lên rất cao
18,68% (The World Bank, 2013). Thị trường chứng khoán và bất động sản sụt giảm và đóng
băng, các DN kinh doanh đình đốn, hàng nghìn DN phá sản. Tình hình lãi suất tăng cao do
áp lực của lạm phát từ cuối năm 2010 tiếp tục tăng trong năm 2011. NHNN thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt để đối phó với lạm phát. Nhiều NH khó khăn về thanh khoản buộc phải
huy động vốn bằng mọi giá, tạo ra cuộc chạy đua lãi suất giữa các NH, khiến cho lãi suất
tăng cao hơn nữa. Mặc dù NHNN áp dụng trần lãi suất huy động ở mức 14%/năm nhưng để
đối phó với vấn đề thanh khoản, các NH vẫn tìm mọi cách vượt trần bằng các hình thức
khuyến mại khác nhau. NHNN cũng điều chỉnh tăng các mức lãi suất chính sách. Cụ thể, lãi
suất tái chiết khấu tăng từ 7% đầu năm lên 13% trong quý III, IV; lãi suất tái cấp vốn cũng

×